3 Bài tập học kì môn Luật Hình sự

Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Quan hệ xã hội tồn tại dưới dạng cấu trúc gồm ba phần: chủ thể QHXH, khách thể QHXH, nội dung QHXH. Trong khoa học luật hình sự, các bộ phận này của xã hội được coi là đối tượng tác động của tội phạm.

Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của những đối tượng tác động cụ thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại cho QHXH. Luật hình sự Việt Nam bảo vệ cho các QHXH thông qua việc bảo đảm tình trạng bình thường cho các bộ phận cấu thành của các QHXH đó. Sự bảo vệ các đối tượng tác động cụ thể luôn luôn có ý nghĩa bảo vệ các bộ phận của QHXH và qua đó bảo vệ toàn bộ QHXH.

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8583 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 3 Bài tập học kì môn Luật Hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI SỐ 7 Vì ghen tuông, A có ý định giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng, A rút dao đâm B ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Toà án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS. Hỏi: Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người. Hành vi phạm của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích tại sao. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết, B bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời B đã được cứu sống. Toà án áp dụng khoản 2 điều 93 BLHS tuyệt hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị xử lí theo luật Hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao. BÀI LÀM 1.Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người: Tội phạm tuy có chung một số dấu hiệu nhưng những hành vi phạm tội khác nhau thì có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Do có sự khác nhau này mà vấn đề phân loại tội phạm đã được đặt ra. Việc phân biệt các loại tội phạm có ý nghĩa nhiều đối với việc áp dụng các quy định của BLHS và còn có ý nghĩa đối với cả việc áp dụng một số quy định của ngành luật liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự như luật tố tụng hình sự… Để xác định hành vi phạm tội thuộc loại tội phạm nào, ta chỉ cần căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó. Theo khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 thì: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Tội phạm nghiên trọng là tội pham mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Điều 93 BLHS năm 1999 quy định: “Tội giết người: 1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đếm hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết nhiều người; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Để thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn; 2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ bảy đến mười lăm năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm”. Đối chiếu tội giết người được quy định từ khoản 1 đến khoản 3 của Điều 93 BLHS năm 1999 với khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 ta có: - Khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình nên tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng. - Khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười lăm năm tù nên tội phạm quy định tại K2Đ93BLHS năm 1999 thuộc loại tội rất nghiêm trọng. - Khoản 3 Điều 93 BLHS là quy định về hình phạt bổ sung nên không phân loại tội phạm. Chúng ta có thể nhận thấy rõ, các quy định về tội giết người tại Điều 93 BLHS năm 1999 không quy định về loại tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng mà chỉ quy định về loại tội rất nghiêm trọng, và đặc biệt nghiêm trọng. Bởi tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này cho xã hội là vô cùng lớn nên pháp luật phải trừng trị nghiêm khắc những người phạm tội, nhằm hạn chế tội phạm xảy ra. 2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại sao. Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành: + Chuẩn bị phạm tội: là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. + Phạm tội chưa đạt: là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. + Tội phạm hoàn thành: là trường hợp hành vi phạm tội đã thoả mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong Cấu thành tội phạm (CTTP). Ở đây, A không những đã tạo ra điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm đó là rủ B đi chơi mà A còn dùng dao đâm ba nhát vào B, tức là A đã thực hiện tội phạm. Vậy hành vi của A không phải thuộc giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do B được phát hiện và đi cấp cứu kịp thời, hậu quả chết người chưa xảy ra, mà tội giết người là tội có CTTP vật chất, nên hành vi của A cũng không thuộc giai đoạn tội phạm hoàn thành. Xét các dấu hiệu của trường hợp phạm tội chưa đạt: Thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm: A đã thực hiện hành vi rút dao đâm B ba nhát. Thứ hai: người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng, nghĩa là hành vi của họ chưa thoả mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của CTTP: A đã đâm B ba nhát nhưng B không chết mà chỉ bị thương. Thứ ba: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành: A có ý định giết B nên dùng dao đâm B ba nhát, tưởng B đã chết nên A mới bỏ đi nhưng B được phát hiện và cứu sống kịp thời nên không chết, đó là điều ngoài ý muốn của A. Vậy, hành vi phạm tội của A đã thoả mãn cả ba dấu hiệu trên, do đó có thể kết luận hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hơn nữa khoa học pháp lý còn chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan hậu quả đó không xảy ra. Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra. Trong trường hợp này, A đâm B ba nhát và tưởng B đã chết nên A mới bỏ đi, nhưng B đã được cứu chữa kịp thời nên B không chết. A đã thực hiện hết các hành vi cần thiết để gây ra hậu quả chết người và A tin rằng hậu quả sẽ xảy ra là cái chết của B nhưng B lại không chết, việc B còn sống là do nguyên nhân khách quan, nằm ngoài ý muốn của A. Bởi vậy, hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. 3.Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án. * Đối tượng tác động của tội phạm: Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ xã hội tồn tại dưới dạng cấu trúc gồm ba phần: chủ thể QHXH, khách thể QHXH, nội dung QHXH. Trong khoa học luật hình sự, các bộ phận này của xã hội được coi là đối tượng tác động của tội phạm. Bất cứ tội phạm nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của những đối tượng tác động cụ thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại cho QHXH. Luật hình sự Việt Nam bảo vệ cho các QHXH thông qua việc bảo đảm tình trạng bình thường cho các bộ phận cấu thành của các QHXH đó. Sự bảo vệ các đối tượng tác động cụ thể luôn luôn có ý nghĩa bảo vệ các bộ phận của QHXH và qua đó bảo vệ toàn bộ QHXH. Trong tình huống này, hành vi phạm tội của A là trực tiếp tấn công và gây tổn hại cho thân thể, sức khoẻ của B. Vì thế có thể khẳng định rằng đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A chính là con người, cụ thể là B. * Công cụ, phương tiện phạm tội: Công cụ, phương tiện phạm tội là những đối tượng được người phạm tội sử dụng để tác động đến đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể. Trong vụ án này, công cụ, phương tiện phạm tội của A chính là con dao mà A đã chuẩn bị và thực hiện hành vi đâm B nhằm mục đích tước đi tính mạng của B. 4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao. Nếu trong vụ án, A mới đâm B một nhát rồi thấy B bị thương máu ra nhiều, A sợ quá tự ý bỏ đi mà không đâm B đến chết, thì A phạm tội thuộc trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, tức là A không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định phạm là tội giết người (theo quy định của điều 19 BLHS). Tuy nhiên, để kết luận A có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không cần xét các yếu tố cấu thành tội phạm trong dấu hiệu hành vi của A. Về khách thể của tội phạm, như trên đã nêu, hành vi của A xâm hại trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ của B. Về chủ thể của tội phạm: là A, có năng lực trách nhiệm hình sự, có khẳ năng nhận thức được hành vi của mình và khả năng chịu trách nhiệm hình sự. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi đâm B của A, hậu quả là thương tích của B với tỉ lệ thương tật là 21%, công cụ phạm tội là con dao A dùng để đâm B…Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi cố ý của A, mục đích muốn giết B của A và động cơ phạm tội là do ghen tuông với B. Hành vi của A cấu thành tội phạm “Cố ý gây thương tích” được quy định tại Điều 104 BLHS: “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Có tổ chức; g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. 2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”. Như vậy trong trường hợp này, A không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định phạm là tội giết người, nhưng do hành vi của A cấu thành tội Cố ý gây thương tích nên A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này theo Điều 104 BLHS. 5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Toà án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù thì hình phạt Toà án quyết định đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao. Quyết định của Toà án đối với A là không chính xác. Bởi vì: Theo khoản 2 Điều 93 BLHS quy định: “Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ bảy đến mười lăm năm”. Tuy nhiên trong trường hợp này, hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành (đã trình bày ở ý 2 của đề bài) . Mà theo Khoản 3 Điều 52 BLHS thì: “ Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”. Đối chiếu với khoản 2 Điều 93 BLHS, mức phạt tù cao nhất là mười lăm năm nên hình phạt mà Toà án quyết định đối với A không được quá ba phần tư của mức mười lăm năm, tức không được quá khoản 11 năm 2 tháng (134 tháng tù). Vậy, trong trường hợp này, Toà án áp dụng khoản 2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù (156 tháng tù) thì hình phạt Toà án quyết định đối với A là không đúng, vì nó vượt quá mức ba phần tư hình phạt mà khoản 2 điều 93 BLHS quy định. 6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì có bị xử lý theo pháp luật Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao. Điều 5 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: 1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”. Như vậy, theo nguyên tắc lãnh thổ nói trên, đạo luật hình sự Việt Nam có hiệu lực tuyệt đối với mọi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam dù người thực hiện tội phạm là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay là người không quốc tịch. Nguyên tắc lãnh thổ chỉ có biệt lệ đối với người nước ngoài được hưởng quyền đặc miễn tư pháp theo luật quốc tế. Thông thường, những người được hưởng quyền đặc miễn tư pháp là những người đứng đầu nhà nước, các thành viên của chính phủ, những người đứng đầu các cơ quan ngoại giao, các thành viên của đoàn ngoại giao như đại sứ, tham tán đại sứ, bí thư, tuỳ viên…Theo tục lệ quốc tế thì vợ hoặc chồng, con chưa thành niên của những người kể trên cũng được hưởng quyền đặc miễn tư pháp. Căn cứ theo tình huống bài tập và A chỉ là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội không thuộc khoản 2 Điều 5 của Bộ luật Hình sự tức không được miễn trừ ngoại giao, cũng không nằm trong trường hợp được miễn trừ trách nhiệm hình sự nên A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh giết người như mọi công dân Việt Nam khác về hành vi của mình thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. KẾT LUẬN Qua tình huống trên ta thấy tội giết người là tội phạm có tính nguy hiểm rất lớn cho xã hội. Pháp luật cần phải bị trừng trị thật nghiêm khắc người phạm tội để răn đe, giáo dục, góp phần bảo đảm duy trì trật tự an toàn xã hội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kì môn Luật Hình sự 1 - 8 điểm.doc
  • docĐề bài số 7 - cá nhân hình sự (8đ).doc
  • docĐề số 4 - bài tập lớn hình sự (8đ).doc