Bài giảng Kinh tế tri thức

Trước hết, cần khẳng định rằng, kinh tế tri thức không phải là một bước nhảy đột biến, hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là hình thái phát triển cao hơn nữa, có tính tiến hoá cảu nền kinh tế hàng hoá tư bản với sự kế thừa của các quy luật của nền kinh tế thị trường. chính sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị đến mức cao độ ở các nước phát triển đã tạo tiền đề cho sự ra đời của nền kinh tế tri thức.

 Cuộc cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ 18 tại Anh đã đưa nước này lên vị trí lãnh đạo thế giới, nhấn chìm Trung Quốc và Ấn Độ (2 nước giầu trong thế kỷ 17) xuống hàng thứ các nước thuộc địa

 Sau 100 năm, Đức và Mỹ đã trở thành 2 cường quốc hàng đầu thế giới với sự phát triển 3 ngành công nghiệp; điện, hoá chất, chế tạo động cơ.

 100 năm sau, chúng ta chứng kiến cuộc cách mạng thứ 2: cuộc cách mạng kinh tế- xã hội- công nghệ, nẩy sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp thứ nhất. cuộc cách mạng công nghệ đã đưa các quốc gia công nghiệp phát triển đến xã hội tin học bằng cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế- xã hội này oqr Mỹ, Nhật, Đức đã tạo những tiền đề hình thành nền kinh tế tri thức:

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3106 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp sản xuất vi mạch điện tử, v.v... * Lý thuyết của Ricardo về lợi thế đối chiếu (so sánh) vùng không còn giá trị nữa đối với sáu ngành công nghiệp then chốt. Theo Ricardo (đầu thế kỷ 19), mỗi nước do diều kiện tự nhiên đều có sẵn những thuận lợi đặc biệt cho việc sản xuất những hàng hóa nhất định so với nước khác. Chẳng hạn nước Bồ đào nha đầy ánh nắng mặt trời sẽ có lợi thế vùng lớn hơn Anh quốc trong việc sản xuất rượu vang; ngược lại, Anh quốc được lợi thế hơn trong sản xuất vật liệu. Lợi thế vùng theo thuyết Ricardo hiện đại được đánh giá qua ba yếu tố sản xuất quen thuộc là: đất, vốn tư bản, sức lao động. Rõ ràng các yếu tố này có trở thành lợi thế cho sản xuất hay không là rất khác nhau đối với mỗi quốc gia. Trong nền KTTT, lợi thế vùng này không tồn tại vì phần đóng góp của giá đất, sức lao động là hết sức nhỏ bé khi so với phần của tri thức trong qúa trình sản xuất. Với thị trường tài chính có tính chất tòan cầu, việc gọi vốn không còn phụ thuộc vào biên giới quốc gia nữa và do số vốn đầu tư trong KTTT rất lớn, lại phải huy động trong khoảng thời gian ngắn nên- nói chung- nó cũng nằm ngoài khả năng một quốc gia. Vì vậy, những lợi thế sản xuất trong KTTT chỉ có thể do chính các doanh nghiệp tạo ra. Để so sánh, nên lưu ý là thuyết Ricardo hiện vẫn còn nguyên giá trị trong qúa trình toàn cầu hóa nền kinh tế hàng hóa hiện đại. Nhiều nước đang phát triển thậm chí coi việc phát huy lợi thế về sức lao động, giá đất là chiến lược hấp dẫn đầu tư. * Vốn đầu tư cho nghiên cứu, phát triển sản phẩm cũng như xây dựng nhà máy sản xuất trong nền KTTT là hết sức lớn. Để có thể hoàn vốn đầu tư, sản phẩm phải được sản xuất với số lượng lớn tối đa. Không những thế, doanh nghiệp trong KTTT phải bằng mọi cách hoàn vốn trong thời gian ngắn nhất trước khi sản phẩm thế hệ mới của công ty khác được tung ra thị trường, đây là điều xẩy ra rất nhanh trong KTTT. Thị trường của các doanh nghiệp trong nền KTTT vì vậy phải là thị trường toàn cầu. Rõ ràng là chỉ có không nhiều doanh nghiệp đáp ứng được những điều kiện cạnh tranh gay gắt này. Và cũng sẽ chỉ có một vài quốc gia đủ khả năng hỗ trợ tài chính cho các tập đoàn kinh doanh tòan cầu, cũng như giữ ổn định môi trường luật pháp-xã hội-chính trị để các công ty này không chuyển trụ sở sang nước khác. * Như vậy, ta có thể đưa ra nhận xét sơ bộ nhất để trả lời câu hỏi "KTTT là gì?" như sau: KTTT là hình thái phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hóa tư bản, trong đó công thức hoạt động cơ bản Tiền-Hàng-Tiền được thay thế bằng Tiền- Tri Thức- Tiền và vai trò quyết định của Tri thức được thể hiện qua các mặt sau đây: Vai trò của tri thức * Hàm lượng Tri thức trong qúa trình sản xuất phải chiếm phần quyết định. Theo nhiều học giả thì hàm lượng này phải chiếm ít nhất là từ 60 đến 65% giá thành sản xuất và ít nhất là 35% giá trị sản phẩm. (Các con số này trong một số ngành công nghiệp then chốt ở Đức hiện nay trung bình là 60 và 30%, ở Hoa Kỳ là 62 và 35%). Hàng hóa trong KTTT là Tri thức. * Trong KTTT, Tri thức vừa được sử dụng để quản lý, điều khiển, tham gia vào qúa trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản xuất. Vì vậy, ngoài vai trò là hàng hóa trong KTTT, Tri thức- khác với hàng hóa trong kinh tế hàng hóa- cũng là tư liệu sản xuất. Trí thức để xử lý tri thức, để làm ra tri thức, tri thức quản lý điều hành... cũng trở thành hàng hóa và đó là những thứ hàng hóa được sản xuất không theo qúa trình sản xuất quen thuộc trong nền Kinh tế Hàng hóa. Chưa bao giờ Hàng hóa của một nền Kinh tế lại đồng thời giữ nhiều vai trò quyết định khác nhau đến vậy trong cả phương thức sản xuất lẫn quan hệ sản xuất như Hàng hóa Tri thức trong nền Kinh tế Tri thức. Còn qúa sớm để dự báo những thay đổi quan hệ xã hội trong tương lai. Nhưng chắc chắn KTTT sẽ dẫn đến những thay đổi triệt để và hết sức sâu rộng trong xã hội hơn tất cả những thay đổi do các cuộc cách mạng công nghiệp, khoa học kỹ thuật và xã hội mà loài người từng trải qua. Người ta đã bắt đầu nói đến Xã hội Tri thức. * Sự phát triển như vũ bão của công nghệ tin học và truyền thông rút ngắn càng ngày càng nhanh thời gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng và sáng tạo thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri thức cũng bị rút ngắn lại nhanh chóng. Một tri thức hôm nay có giá trị hàng tỷ Dollars, ngày mai đã có thể vô giá trị. Vì vậy, việc tiếp cận và trao đổi Tri thức ở phạm vi toàn cầu trong KTTT có ý nghĩa sống còn. Cạnh tranh trong KTTT trước hết là cạnh tranh với thời gian. Để bảo đảm sự phát triển bình thường của mình, KTTT sẽ dẫn đến việc xóa bỏ biên giới quốc gia, ít nhất và trước mắt là trong lĩnh vực thông tin. * Do tích chất đặc biệt của hàng hóa Tri thức, không những các ngành công nghiệp sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học mà cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị cũng phụ thuộc và đan quyện vào nhau một cách chặt chẽ hơn bao giờ hết trong KTTT. KTTT- với sản phẩm là Tri thức- sẽ dẫn đến tái cấu trúc kinh tế-xã hội và chính trị trên phạm vi toàn cầu. Trước mắt, cuộc cạnh tranh giữa các nhà nước (các nước công nghiệp phát triển) trong tư cách các hệ thống kinh tế- xã hội- chính trị với những lợi thế khác nhau về luật lệ, về thuế, về tiêu chuẩn an sinh xã hội... đã bắt đầu trở nên gay gắt để thu hút đầu tư. Ai tái cấu trúc nhanh, người đó sẽ thắng. Kinh tế tri thức là một khái niệm mà nó không có trong chủ nghĩa Mác Lê nin cũng như trong các tài liệu triết học trước đó. Nó ra đời trong bối cảnh nền CNTT toàn cầu phát triển mạnh mẽ với tốc độ chưa từng có. Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức, dưới góc độ nào, công nghệ thông tin vẫn có vai trò rất quan trọng và là một trong những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức. Có một số khái niệm về kinh tế tri thức như sau: Trong báo cáo “Kinh tế lấy tri thức làm nền tảng”, cơ quan nghiên cứu của Liên hợp quốc đã định nghĩa: “Kinh tế tri thức là kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản xuất, phân phối, sử dụng tri thức và thông tin”. Từ định nghĩa nền kinh tế tri thức có thể rút ra hai tiêu chí chủ yếu: Lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tri thức, trí óc trở thành yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất của nền kinh tế giống như yếu tố sức lao động và tài nguyên; Trong quá trình phát triển sản xuất của nền kinh tế, tri thức có thể hình thành nên một ngành kinh tế, tức là kinh tế chuyên ngành với tiêu chí là ngành khoa học kỹ thuật cao. Tiêu chí thứ hai là một nét mới, gợi nhiều nội dung đáng suy nghĩ cho công tác thống kê như: phân ngành kinh tế; xác định phạm vi của ngành kinh tế mới này; phương pháp đánh giá kết quả sản xuất và đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế thông qua các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm. Trong nền kinh tế tri thức nguồn vốn quan trọng nhất là nguồn vốn trí tuệ và công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế quan trọng. Nền kinh tế tri thức mang tính toàn cầu hóa; quan hệ phân phối và trao đổi mang tính vừa hợp tác, vừa cạnh trạnh rất cao; quan hệ sở hữu và sử dụng luôn có sự đan xen[4]. Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia đã đưa ra chiến lược xây dựng và phát triển đất nước theo tiêu thức của nền kinh tế tri thức. Trong “Chương trình năm 2000”, Liên minh châu Âu cũng đặt việc tri thức hóa vào vị trí ưu tiên hàng đầu, điều này chứng tỏ kinh tế tri thức là xu thế phát triển tất yếu của thời đại, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia đã đưa ra chiến lược xây dựng và phát triển đất nước theo tiêu thức của nền kinh tế tri thức. Trong “Chương trình năm 2000”, Liên minh châu Âu cũng đặt việc tri thức hóa vào vị trí ưu tiên hàng đầu, điều này chứng tỏ kinh tế tri thức là xu thế phát triển tất yếu của thời đại, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức thể hiện trong ba nội dung: * Kinh tế hóa tri thức nghĩa là nhân tố tri thức với chủng loại ngày càng phong phú, trình độ ngày càng cao hòa nhập vào quá trình hoạt động kinh tế và cũng chỉ ra kết quả của việc hòa nhập này. Trình độ “Kinh tế hóa” của tri thức có thể đánh giá bằng tỷ trọng của sản nghiệp tri thức trong nền kinh tế quốc dân(xem [4], trang 27). Với cách hiểu về kinh tế hóa tri thức nêu trên, ngành Thống kê sẽ dùng chỉ tiêu gì để đánh giá trình độ kinh tế hóa của tri thức?. Sản nghiệp là thuật ngữ mô tả tổng thể nói chung những tài sản để sinh sống hoặc để kinh doanh và như vậy sản nghiệp tri thức là biểu hiện sức sản xuất thuộc thế hệ mới. Theo tôi, sản nghiệp tri thức có thể đánh giá bằng giá trị của các bằng phát minh sáng chế; giá trị bản quyền; chương trình phần mềm; giá trị các công trình nghiên cứu khoa học đưa vào áp dụng mang lại lợi ích cho thực tiễn,v.v… Nhóm chỉ tiêu thống kê phản ánh trình độ kinh tế hóa tri thức là tỷ lệ của sản nghiệp tri thức so với tổng giá trị tài sản của nền kinh tế, chỉ tiêu này có thể phân theo ngành kinh tế. * Tri thức hóa kinh tế là xu hướng tri thức của quá trình kinh tế và kết quả của nó càng tăng mạnh thì hàm lượng tri thức càng tăng cao. Trong quá trình phát triển, yếu tố tri thức không ngừng đan xen và nảy nở vào mọi lĩnh vực của đời sống. Chẳng hạn, thiết kế mẫu mã hàng hóa mang bản sắc văn hóa, trang trí, tuyên truyền quảng cáo hàng hóa là các hoạt động đưa yếu tố tri thức vào kinh doanh nói riêng và vào quá trình kinh tế nói chung. Chỉ tiêu thống kê dùng để mô tả đặc trưng này có thể là tỷ trọng chi cho thiết kế mẫu mã, trang trí đóng gói, quảng cáo sản phẩm để đẩy mạnh tiêu thụ so với giá trị nguyên vật liệu và các chi phí có tính vật chất để sản xuất ra sản phẩm. * Sản nghiệp hóa tri thức là vật chất hóa văn hoá, tinh thần, ý tưởng sáng tạo, là sự thăng hoa của nền kinh tế hàng hóa và sản nghiệp (xem [4], trang 28). Như vậy, sản nghiệp hóa tri thức biểu hiện nét đặc trưng quan hệ đồng nhất, thống nhất của tri thức và kinh tế. Trong tiến trình phát triển, các nhà kinh tế đều nhận định ngoài sản nghiệp thứ nhất thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; sản nghiệp thứ hai thuộc lĩnh vực công nghiệp và sản nghiệp thứ ba thuộc khu vực dịch vụ truyền thống, đã manh nha sản nghiệp mới được cấu thành bởi những yếu tố cơ bản như văn hóa, trí óc, tri thức, nhân tài, tin tức, khoa học kỹ thuật, ý tưởng sáng tạo (xem [4], trang 29). Không có chỉ tiêu thống kê đơn thuần được đưa ra tính toán để mô tả nét đặc trưng thứ ba của nền kinh tế tri thức. Theo tôi, có thể dùng bảng Cân đối liên ngành để phân tích ảnh hưởng của một số ngành văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch tri thức đối với các ngành sản xuất vật chất và tiêu dùng của dân cư qua các chỉ tiêu: nhân tử đầu ra (Output multiplier); liên hệ ngược (Backward linkage) và liên hệ xuôi (Fordward linkage). Nền kinh tế tri thức có 5 đặc trưng nổi bật: Vai trò quan trọng của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin; Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và chủ yếu; Thời gian để tiến hành công nghiệp hóa được rút ngắn; nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng được tri thức hóa; Cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức xã hội thay đổi cơ bản. Tri thức, thông tin, công nghệ luôn có vai trò thúc đẩy phát triển sản xuất và vai trò ấy tăng dần cùng với quá trình phát triển. CHÚ Ý: NGHIÊN CỨU 10 ĐẶC ĐIỂM SAU CỦA KINH TẾ TRI THỨC, LỰA CHỌN NỘI DUNG ĐỂ ĐƯA VÀO PHÂN TÍCH 5 ĐẶC TRƯNG CỐT LÕI CỦA NỀN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN ĐÂY KHI PHÂN TÍCH Thứ nhất là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Trong 15 năm qua, các nền kinh tế phát triển trên thế giới đã có những chuyển đổi to lớn, sâu sắc về cơ cấu kinh tế, về cách thức hoạt động và các qui tắc hoạt động; đang phát triển nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức; các ý tưởng đổi mới và công nghệ là chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Thứ hai là sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không còn phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất. Thứ ba là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất. Mọi người đều có nhu cầu thông tin và được truy nhập vào các kho thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng. Thứ tư là các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển. Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh hơn, thì công ty khác tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác ngay, nếu không muốn bị phá sản. Thứ năm là xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Mọi người đều dễ dàng truy cập đến các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các quyết định của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý kiến ngay nếu thấy không phù hợp. Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời. Thứ bảy, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Không phải như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Nền kinh tế tri thức do đó là một nền kinh tế dư dật chứ không phải khan hiếm. Thứ tám, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Thứ chín, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới. Quá trình toàn cầu hoá cũng là quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức thúc đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Thứ mười là sự thách thức đối với văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức - xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá phong phú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức văn hoá của người dân cũng tăng cao. Nhờ các phương tiện truyền thông tức thời, nhất là Internet, một sáng tác ra đời tức thời lan truyền đến mọi nơi trên thế giới. Giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hoá có thể tiếp thu các tinh hoa của nhân loại để phát triển nền văn hoá của mình. Nhưng mặt khác các nền văn hoá đứng trước những rủi ro rất lớn: bị pha tạp, dễ mất bản sắc, dễ bị các sản phẩm văn hoá độc hại tấn công phá hoại, mà rất khó ngăn chặn. Nền văn hoá bị pha tạp lai căng không còn là chính mình nữa thì sẽ suy thoái, tiêu tan. Nhiệm vụ gìn giữ, phát huy bản sắc văn hoá mỗi dân tộc trở nên rất nặng nề. Cái chính là phải giáo dục truyền thống, phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có đủ sức mạnh nội sinh. Chính vì vậy dự án "Chính phủ điện tử" hướng cho chúng ta đi tắt đón đầu và là một mục tiêu quan trọng, động lực thúc đẩy cho quá trình phát triển, là mắt xích không thể thiếu trong nền Kinh tế tri thức. Tiêu chí của nền kinh tế tri thức được biểu hiện qua hai nhóm: nhóm tiêu chí về cấu trúc kinh tế và nhóm tiêu chí xã hội. Các tiêu chí phản ánh nền kinh tế tri thức * Nhóm tiêu chí về cấu trúc kinh tế Lực lượng sản xuất và tư liệu sản xuất là hai nhóm yếu tố tác động tới tiến trình phát triển của một quốc gia. Lực lượng sản xuất xã hội bao gồm người lao động, công cụ lao động và đối tượng lao động. Trong nền kinh tế tri thức, khoa học kỹ thuật tiến bộ được thể hiện trong cả ba yếu tố của lực lượng sản xuất. Dĩ nhiên, trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, con người là yếu tố “động nhất”, quan trọng nhất. Tư liệu sản xuất thay đổi, phù hợp với từng xã hội. Trong xã hội nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất; trong xã hội công nghiệp, công xưởng và nguyên liệu thay thế đất đai. Còn trong xã hội thông tin, cơ sở hạ tầng thông tin và nguồn tài nguyên tin tức sẽ là tư liệu sản xuất quan trọng nhất (xem [4], trang 178). Để xây dựng và phát triển thành nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư và phát triển bốn cột trụ quan trọng của nó: công nghệ cao; nhân lực chất lượng cao; cơ sở hạ tầng thông tin và nguồn tài nguyên tin tức; thị trường. Thông tin thống kê phản ánh cấu trúc kinh tế của nền kinh tế tri thức nên chia thành hai nhóm: nhóm chỉ tiêu phản ánh ở tầm vĩ mô và nhóm chỉ tiêu phản ánh tầm vi mô. Đối với tầm vĩ mô bao gồm các chỉ tiêu: chi cho nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng chi ngân sách nhà nước; chi mua và nhận chuyển giao công nghệ so với tổng chi ngân sách nhà nước; chi cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao so với tổng chi cho giáo dục của toàn xã hội; năng suất nhân tố tổng hợp (TFP),v.v… Đối với tầm vi mô bao gồm các chỉ tiêu: chi cho nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp; tỷ lệ cán bộ làm nghiên cứu và triển khai công nghệ của khu vực doanh nghiệp so với tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp; số lượng máy tính dùng trong khu vực doanh nghiệp,v.v… * Nhóm tiêu chí về xã hội Từ định nghĩa của nền kinh tế tri thức, có thể khẳng định tri thức và thông tin là hai yếu tố then chốt và nó quyết định bản chất xã hội của nền kinh tế này - đó là “xã hội thông tin”. Xã hội thông tin đòi hỏi năm điều kiện sau đây: - Cơ cấu sức lao động có sự thay đổi căn bản, những người làm công tác thông tin chiếm hơn 50% tổng số người đang làm việc; - Trong tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế, kinh tế thông tin chiếm hơn 50%; - Công nghiệp thông tin phát triển đầy đủ, xây dựng được mạng lưới thông tin tiên tiến; - Thông tin hóa đời sống xã hội; - Tri thức trở thành nguồn tài nguyên to lớn và động lực thúc đẩy chủ yếu cho xã hội phát triển. Năm điều kiện của xã hội thông tin gợi cho các nhà Thống kê đưa ra hệ thống chỉ tiêu để phản ánh, đo lường nền kinh tế tri thức qua các chỉ tiêu về lao động như: tỷ lệ lao động làm công tác thông tin so với tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế, tỷ lệ lao động trí óc so với lao động chân tay; các chỉ tiêu về tiếp cận, sử dụng và thụ hưởng thông tin trong đời sống hằng ngày của dân cư. Để phát triển đất nước theo hướng nền kinh tế tri thức, việc hoạch định chính sách của Chính phủ đóng vai trò quan trọng. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong phát triển năng lực công nghệ của đất nước thực hiện qua ba giai đoạn: giai đoạn bắt chước sao chép công nghệ; giai đoạn bắt chước sáng tạo công nghệ (hai giai đoạn này các tri thức cần có có thể sao chép hoặc mua) và giai đoạn đổi mới công nghệ (giai đoạn phát minh), đáng để cho chúng ta tham khảo. Đi cùng với chính sách của Chính phủ, ngành Thống kê nên chủ động nghiên cứu, đưa ra các thông tin thống kê phục vụ kịp thời cho nhu cầu quản lý và phát triển. Một số chỉ tiêu thống kê phản ánh nền kinh tế tri thức 1. Các chỉ tiêu vĩ mô Chi nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng chi ngân sách nhà nước; Chi cho đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao so với tổng chi cho giáo dục của toàn xã hội; Tỷ lệ vốn đầu tư cho lĩnh vực công nghệ thông tin so với tổng vốn đầu tư; Giá trị chuyển giao công nghệ so với tổng chi ngân sách nhà nước; Tỷ lệ doanh thu của ngành công nghệ thông tin so với tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế; Tỷ lệ doanh thu bán phần mềm so với tổng doanh thu của khu vực doanh nghiệp trong nền kinh tế; Tỷ lệ giá trị tăng thêm của các ngành thông tin so với tổng sản phẩm trong nước; Tỷ lệ của sản nghiệp tri thức so với tổng giá trị tài sản của nền kinh tế; Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP); Hệ số đổi mới tài sản cố định; Nhân tử đầu ra của ngành văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch tri thức đối với các ngành sản xuất vật chất và tiêu dùng của dân cư; Hệ số liên hệ xuôi (Fordward linkage), hệ số liên hệ ngược (Backward linkage) của ngành văn hóa, du lịch văn hóa, du lịch tri thức đối với các ngành sản xuất vật chất và tiêu dùng của dân cư; Tỷ lệ lao động làm công tác thông tin so với tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế; Tỷ lệ lao động trí óc so với lao động chân tay; Số lượng các đơn vị khoa học công nghệ trong nền kinh tế. Các chỉ tiêu vi mô Chi cho nghiên cứu và triển khai các công trình khoa học vào thực tiễn so với tổng vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp; Tỷ lệ cán bộ làm nghiên cứu và triển khai công nghệ của khu vực doanh nghiệp so với tổng số lao động của khu vực doanh nghiệp; Số máy tính dùng trong khu vực doanh nghiệp; Tỷ lệ doanh nghiệp có Website và truy cập internet; Tỷ lệ dân cư truy cập internet so với tổng dân số; Tỷ lệ dân cư tham gia hoạt động thương mại điện tử so với tổng dân số; Số điện thoại thuê bao tính cho 1000 dân; Các chỉ tiêu về tiếp cận, sử dụng và thụ hưởng thông tin trong đời sống hằng ngày của dân cư. Các điều kiện cơ bản để xây dựng nền kinh tế tri thức Trước hết, cần khẳng định rằng, kinh tế tri thức không phải là một bước nhảy đột biến, hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là hình thái phát triển cao hơn nữa, có tính tiến hoá cảu nền kinh tế hàng hoá tư bản với sự kế thừa của các quy luật của nền kinh tế thị trường. chính sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị đến mức cao độ ở các nước phát triển đã tạo tiền đề cho sự ra đời của nền kinh tế tri thức. Cuộc cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ 18 tại Anh đã đưa nước này lên vị trí lãnh đạo thế giới, nhấn chìm Trung Quốc và Ấn Độ (2 nước giầu trong thế kỷ 17) xuống hàng thứ các nước thuộc địa Sau 100 năm, Đức và Mỹ đã trở thành 2 cường quốc hàng đầu thế giới với sự phát triển 3 ngành công nghiệp; điện, hoá chất, chế tạo động cơ. 100 năm sau, chúng ta chứng kiến cuộc cách mạng thứ 2: cuộc cách mạng kinh tế- xã hội- công nghệ, nẩy sinh từ cuộc cách mạng công nghiệp thứ nhất. cuộc cách mạng công nghệ đã đưa các quốc gia công nghiệp phát triển đến xã hội tin học bằng cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Sự phát triển kinh tế- xã hội này oqr Mỹ, Nhật, Đức đã tạo những tiền đề hình thành nền kinh tế tri thức: Tự động hoá cao độ: Công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ Môi trường an toàn và ổn định Kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường tài chính quốc tế hoạt động hữu hiệu Phát triển mô hình nhà nước pháp quyền Trình độ đào tạo dân trí Tự động hoá cao độ quá trình sản xuất không những giám đến mức thấp nhất chi phí cho các yếu tố phi tri thức, mà còn rút ngắn một cách đáng kể thời gian nghiên cứu, phát triển đến sản xuất hàng loạt. và như vậy, mới gia tăng một cách đáng kể hàm lượng tri thức trong sản phẩm. Ngoài ra, chỉ có sự tự động hoá cao độ mới đáp ứng được nhu cầu chuyên biệt của khách hàng ở những thị trường khác nhau trên thế giới. Công nghệ tin học và thông tin phát triển cao độ: Đây là một trong những điều kiện căn bản nhất đảm bảo sự phát triển của kinh tế tri thức. Nó không những là một ngành kinh tế then chốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tri thức mà còn là điều kiện đảm bảo hiệu quả của việc tiếp cận, trao đổi, xử lý thông tin và sáng tạo tri thức của các ngành kinh tế- xã hội khác. Trong sản xuất kinh doanh, sự phát triển công nghệ này đã dẫn đến cuộc cách mạng giảm chi phái quản lý điều hành. Chi phí liên lạc rất thấp cũng góp phần không nhỏ giúp doanh nghiệp có những phản ứng kịp thời cho mọi biến động trong phạm vi toàn cầu, thúc đẩy toàn cầu hoá DN. Ngoài ra, công nghệ tin học và thông tin phát triển cao đọ có những đóng góp tích cực vào việc nâng cao tri thức cho người tiêu thụ bình thường, giúp họ nâng cao khả năng sử dụng sản phẩm tri thức. Bảo vệ có hiệu quả một môi trường an toàn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và tiêu thụ tri thức. Đó là một môi trường pháp lý bảo đảm tự do hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó giá trị tri thức được bảo vệ bằng luật SHTT, sở hữu tư nhân phải được tôn trọng và bảo vệ. Một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường tài chính quốc tế hoạt động hữu hiệu. như đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_giang_kinh_te_tri_thuc_tai_lieu_gui_sinh_vien_ngay_19_12_2010_1208.doc