Bài thu hoạch bảo tàng Hồ Chí Minh

Trong những ngày đầu của cách mạng, nước ta có nhiều khó khăn chồng chất và bị bao vây bốn phía. Nạn đói do Phát xít Nhật – Pháp gây ra đã giết hại hơn hai triệu người Việt Nam. Tháng 9 năm 1945 câu kết với Đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Quốc, Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của cách mạng ta. Trước nạn ngoại xâm, chủ tịch HồChí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập, tự do của tổ quốc với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước , cùng Trung Ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, tòan diên, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, từng bước dành thắng lợi

docx13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10589 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thu hoạch bảo tàng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại Học Kinh Tế TPHCM Lớp : 74 - K36 Giảng viên hướng dẫn : Thầy Hạ Tấn Bình Họ & Tên sinh viên : Phạm Nữ Trinh Bài thu hoạch môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH (Chi nhành TPHCM – Bến Nhà Rồng) I-Vài nét về bảo tàng Hồ Chí Minh (chi nhánh TPHCM–Bến Nhà Rồng) Bảo tàng Hồ Chí Minh – chi nhánh TP.HCM (còn được gọi là Bến Nhà Rồng) tọa lạc tại số 1 đường Nguyễn Tất Thành, phường 12 , quận 4. Đây là một đơn vị thuộc Sở Văn hóa Thông Tin Thành Phố Hồ chí Minh và là chi nhánh trong hệ thống các bảo tàng và di tích lưu niệm về Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong cà nước. Trước đây là trụ sở của tổng công ty xây dựng Hoàng Đế (Messageries Impériales)-một trong những công trình đầu tiên được pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Ngoi nhà được xây dựng từ giữa năm 1862 đến cuối năm 1863, được hoàn thành với lối kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trăng theo kiểu “ lưỡng long chầu nguyệt”, một kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa Việt Nam. Với kiến trúc độc đáo đó tòa nhà được gọi là Nhà Rồng và bến cảng mang tên Bến Cảng Nhà Rồng, Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòng được chuyển giao cho chính quyền miền nam Việt Nam quản lý, họ đã tu sửa lại mái ngói của ngôi nhà thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng mới với tư thế xoay đầu ra ngoài. Nơi đây, ngày 05/06â/1911, người thanh niên Nguyển Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước.sau hơn 30 năm bôn ba ở nước ngoài Nguyễn Tất Thành đã trở thành nhà cách mạng lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lean làm cuộc cách mạng tháng 8, lập ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.Người thanh niên ra đi tìm đường cứu nước năm xưa chính là Chủ Tịch Hồ Chí Minh sau này. Trong hơn 20 năm hoạt động, Bảo tàng Hố Chí Minh – chi nhánh TP.Hồ Chí Minh đã noun tiếp hơn 20 triệu lượt khách từ khắp nơi trong nước và nước ngoài đến tham qua. Đặc biệt có hàng trăm đoàn nguyên thủ quốc gia và đoàn cao cấp của các nước đến viếng thăm, tìm hiểu và nghiên cứu về Chủ Tịch Hồ Chí Minh . từ 400 tư liệu, hiện vật ( năm 1890 ) đến nay đã có 11.372 tư liệu, hiện vật và 3300 đầu sách chuyên đề về chủ tịch Hồ Chí Minh. II-Sơ lược về gia đình chủ tịch Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 nam 1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trú, xã Kim Liên,huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thân phụ chủ tịch Hồ Chí Minh là cụï Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng ông đã sớm có ý chí tự lập, thông minh, ham học. Năm 1901 ông thi hội và đậu phó bảng. Tuy đỗ cao nhưng ông vẫn sống rất thanh bạch, khiêm tốn, ghét thói xu nịnh, cam phận của các quan lại triều đình Huế. Ông đã đi nhiều nơi, liên lạc với nhiều nơi, liên lạc với nhiều người yêu nước , tuyên truyền đoàn kết, kêu gọi nhân dân sống có tình nghĩa thủy chung. Tư tưởng tiến bộ, nhân cách cao thượng của ông đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều người. Ông qua đời tại xã Cao lãnh ( Đồng Tháp ) vào năm 1929, thọ 67 tuổi Thân mẫu chủ ṭịch Hồ Chí Minh là bà Hoàng Thị Loan sinh năm 1868 trong một gia đình nho học, bà là một phụ nữ thông minh, cần cù, chịu khó, thương yêu chồng con và giàu lòng nhân ái. Cuộc đời của bà tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam sống có tình nghĩa và có ảnh hưởng lớn đến nhân cách của các con mình. Bà Hoàng Thị Loan qua đời tại Huế năm 1901, lúc 33 tuổi Chị gái Chủ Tịch Hồ Chí Minh là Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1884, Chị đã tham gia nhiều phong trào yêu nước, nhiều lần bị Thực dân Pháp và triều đình Phong Kiến bắt giam. Nguyễn Thị Thanh qua đời tại quê hương năm 1954, thọ 70 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có một anh trai là Nguyễn Sinh Khiêm, sinh nam 1888. Từ tuổi thanh niên, Nguyễn Sinh Khiêm đã đi nhiều nơi truyền thụ kiến thức, mở mang văn hóa, Do tham gia những hoạt động yêu nước chống Thực dân và Phong Kiến nên ông đã bị tù đày nhiều năm. Nguyễn Sinh Khiêm qua đời năm 1950, thọ 62 tuổi, III-Chủ Tịch Hồ Chí Minh và thời niên thiếu (1890 – 1911) Từ lúc ra đời đến tuổi lên 5, Chủ Tịch Hồ Chí Minh sống ở quê nhà trong sự chăm sĩc đầy tình yêu thương của ơng bà ngoại và cha mẹ, lớn lên trong truyền thống tốt đẹp của quê hương, hiếu học cần cù trong lao động, tình nghĩa trong cuộc sống và bất khuất trước kẻ thù. Tại quê nhà Hồ Chủ Tịch được gửi đến học chữ Hán với một số nho sĩ yêu nước. Người nghe được nhiều chuyện qua các buổi bàn luận thời cuộc giữa các thầy và sĩ phu yêu nước.Hồ Chí Minh dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan.trong những người mà cụ Sắc thường gặp gỡ cĩ ơng Phan Bội Châu. Giống như các nhà nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan Bội Châu cũng day dứt trước hiện trạng đất nước và số phận dân tộc. Con người nhiệt huyết ấy trong lúc say rượu thường ngâm hai câu thơ của Viên Mai: “Mỗi phận bất vong duy trúc bạch, Lập thân tối hạ thị văn chương”. Nghĩa là: “Mỗi bữa (ăn) khơng quên ghi sách sử, Lập thân hèn nhát ấy (là) văn chương”. Câu thơ đã tác động nhiều đến Chủ Tịch Hồ Chí Minh và gĩp phần định hướng cho người thanh niên sớm cĩ hồi bão đánh đuổi Thực Dân, giành độc lập cho đất nước đem lại tự do hạnh phúc cho đồng bào. Nhìn lại những phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, mà tiêu biểu là khởi nghĩa Yên khê do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo; phong trào Đơng Du của cụ Phan Bội Châu ; phong trào Đơng Kinh Nghĩa Thục; cuộc khởi nghĩa Yên Thế do cụ Hồng Hoa Thám lãnh đạo; cuộc Vận Động Cải cách của cụ Phan Châu Trinh và phong trịa Chống Thuế của nhân dân Trung Kỳ, Hồ Chủ tịch rất khâm phục và coi trọng các bậc tiền bối nhưng người khơng đi theo con đường đĩ. Thực tiễn thất bại của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Hồ Chí Minh, để rồi người cĩ một quyết định chính xác và táo bạo là xuất dương tìm đường cứu nước. “ Nhân dân Việt Nam, trong đĩ cĩ cụ thân sinh ra tơi lúc này thường hỏi nhau ai là người thường hỏi nhau ai là nguời giúp mình thốt khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, cĩ người lại cho là Mỹ. tơi thấy phải ra nước ngồi để xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tơi sẽ trở về giúp đồng bào tơi “ IV-Hoạt ở nước ngồi (1911-1946) Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, người lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buơn Đơ Đốc Lautouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ của các nước phương tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912 – đầu 1913), người quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lị rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, người trở lại nước Pháp sống và hoạt động. Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới hội nghị hịa bình Versailles bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điều để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đơng Nam Á. Dưới sự ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự hội nghị lần thứ XVIII Đảng Xã Hội Pháp và Người bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc Tế III, Quốc Tế Cộng Sản và trở thành một trong những người sang lập Đảng Cộng Sản Pháp. Đây là hành động đánh dấu sự trưởng thành trong quá trình chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản. Người đã khẳng định một chân lý: “Đảng phài tuyên truyền chù nghĩa xă hội trong tất cả các nước thuộc địa .chúng tơi thấy rằng việc Đảng Xã Hội gia nhập Quốc Tế III cĩ nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể rằng từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trơng của vấn đề”. Năm 1921, Nguyễn Tất Thành (lúc này cĩ tên Nguyễn Ái Quốc) cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp thành lập Hội Liên Hiệp thuộc địa nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa Đế Quốc. Năm 1992, người cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (người cùng khơ, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bĩc lột của chủ nghĩa Đế Quốc nĩi chung và thực dân Pháp nĩi riêng. Năm 1923 tại Liên Xơ, người hoạt động trong quốc tế cộng sản,tham gia nhiều hội nghị quan trọng, tìm hiểu xã hội Xô Viết, nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức Đảng kiểu mới của Lênin, tiếp tục tuyên truyền các quan điểm của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đặc biệt trong báo cáo trong đại hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ V, người đã phác họa phương hướng chiến lược trong cách mạng giải phĩng dân tộc Năm 1924 ,người được cử làm Ủy viên Bộ Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào cộng sản ở các nước Đông – Nam Á. Năm 1925 , người thành lập Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông. Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, mà hạt nhân là Cộng Sản Đoàn, đồng thời ra báo Thanh niên và mở lớp huấn luyện đào tạo hàng trăm cán bộ đưa về nước hoạt động. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, người triệu tập hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hương Cảng) để thống nhất các nhóm cộng sản trong nước thành Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, diều lệ vắn tắt của Đảng Cộng Sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam. “ Hỡi công nhân, nông dân, binh lính , thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thành lập, đó là Đảng của giai cấp vô sản, Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức bóc lột “. 1930 là cột mốc đánh dấu quá trình ra nước ngoài tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam đã bước đầu thành công. Đến lúc này, Bác đã tìm ra câu trả lời đúng đắn nhất cho câu hỏi thời niên thiếu của mình vềø cách thức giúp đất nước thoát khỏi thân phận thuộc địa. Người đã từng khẳng định trong “Đường kách mệnh” : “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin”. Con đường đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin chính là con đường duy nhất để mang lại cho Việt Nam sự độc lập, tự do. Tháng 3 năm 1930 , người trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó trở lại Trung Quốc Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Tờ L’Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá nhà tù Hồng Kông đồng thời tố cáo đây là âm mưu của Thực dân Pháp câu kết với Thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương. Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby, Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Người đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô. Nguyễn Ái Quốc đến Moskva vào mùa xuân năm 1934, với bí danh Lin, Người học ở trường quốc tế Lênin (1934-1935). Ông dự đại hội lần thứ VII Đệ Tam Quốc với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo với tên Linov. Người bị buộc ở Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do người được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do. Trong những năm 1931-1935, người đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải long “liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ”, không giống đường lối đấu tranh của Đệ Tam Quốc Tế. Năm 1938, Nguyễn Ái Quốc trởlại Trung Quốc trong vai thiếu tá Bát Lô quân Hồ Quang, người đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng Quân Trung Quốc mùa đông 1938, nhằm bắt liên lạc với tổ chức Đảng chuẩn bị về nước. V- Cuộc đâu tranh giải phóng dân tộc Ngày 28 tháng 1 năm 1941, người về nước lần đầu tiên sau hơn 3o năm xa tổ quốc. Triệu tập hội nghị lần thứ VIII của Ban chấp hành trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), gấp rút xây dựng lực lượng, day mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền cả nước. Ngày 13 tháng 8 năm 1942,người lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và hội nghị quốc tế phản xâm lược Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của của Trung Hoa Dân Quốc. Người bị chính quyền địa phương Trung Hoa Dân Quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và bị giam hơn 1 năm, trải qua hom 30 nhà tù. Sau khi được trả tự do ngày 10 thang1 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia ban chấp hành trung ương Việt Nam cách mệnh đồng minh hội. Cuối tháng 9 năm 1944, người trở về Việt Nam tổ chức lực lượng vũ trang và căn cứ địa chặt chẽvà hiệu quả hơn. Người trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quan mang tính chính thống và chính quy là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ngaỳ 16 tháng 8 năm 1945, tổng bộ Việt Minh triệu tập đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra ủy ban dân tộc giải phóng tức chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh lamø chủ tịch. Người phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Sau cách mạng tháng Tám thắng lợi, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử Bác Hồđọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập tuyên bố với thế giới và nhân dân tronmg cả nước quyền dộc lập của dân tộc Việt Nam , khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Người trở thành vị chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Trong những ngày đầu của cách mạng, nước ta có nhiều khó khăn chồng chất và bị bao vây bốn phía. Nạn đói do Phát xít Nhật – Pháp gây ra đã giết hại hơn hai triệu người Việt Nam. Tháng 9 năm 1945 câu kết với Đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Quốc, Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của cách mạng ta. Trước nạn ngoại xâm, chủ tịch HồChí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập, tự do của tổ quốc với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước , cùng Trung Ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, tòan diên, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, từng bước dành thắng lợi. Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 được ký kết giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Pháp. Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra miền Bắc và lấn dần từng bước ở miền bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Trước tình hình ấy, tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến và cùng ban chấp hành trung ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài chống Thực dân Pháp đến thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ (1954) Tháng 7/1960, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng, nhưng một nửa nước ở miền Nam bị Đế quốc Mỹ biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. VI-Giai đoạn Chủ Tịch Hồ Chí Minh qua đời Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn name vai trò biểu tượng cho cách mạng. Người dành nhiều thời gian đểđi thăm hỏi đồng bào. Quyền lực khi này dần dần tập trung vào tay tổng bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao Động Việt Nam, những người này chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở Miền Nam. Hồ Chí Minh liên tục ốm nặng trong khoảng 3 năm cuối đời. Trong thời gian quanh sự kiên Tết Mậu Thân 1968, người đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Cộng Hòa Dân Chủ Nhân dân Trung Hoa và chỉ quay về Việt Nam ít ngày vào tháng 12 năm 1967 để phê duyệt quyết định tổng tấn công. Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dip sinh nhật thứ 75 của người . trong di chúc người có viết: “điều mong muốn nhất của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng dáng váo sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đến lúc sắp ra đi người vẫn để lại tấm gương lớn cho cán bộ đảng viên, quân và dân cả nước bằng đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính của mình. Người căn dặn: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên phúng điếu linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào lúc 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại thủ đô Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi. VII-Chủ tịch Hồ Chí Minh–Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của không chỉ riêng dân tộc Việt Nam mà còn là của cảø dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân trẻ thế giới. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin ở Việt Nam, sáng lập mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam). Người luôn gắn cách mạng Việt Nam với đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vô cùng khiêm tốn và giản dị. Cả cuộc đời vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần dân tộc tự do, lòng yêu nước thương dân thắm thiết, đạo đức, chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị.Người là tượng trưng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chủ Tịch Hồ Chí Minh không những là một nhà chính trị lỗi lạc mà còn là nhà giáo dục, nhà văn hóa lớn. Vì vậy năm 1990 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức Giáo dục và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã ghi nhận và suy tôn người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”. VIII-Bảo tàng Hồ Chí Minh-hành trình theo chân Bác Lịch sử được viết nên bằng máu và nước mắt, là bài học quý giá được đánh đổi bằng sinh mạng của biết bao thế hệ con người Việt Nam. Lịch sử là thứ mà mỗi chúng ta phải biết trân trọng và gìn giữ nhưng đến trước ngày hôm nay em chưa bao giờ yêu thích lịch sử cả, bởi đó là những mốc thời gian khó nhớ, những bài học khô khan trên sách vở. Nhưng đến với bảo tàng Hồ Chí Minh lại cho em một cảm nhận khác biệt.bước vào đây như bước vào một cảnh phim quay chậm, tái hiện trọn vẹn cuộc đời của người Anh hùng dân tộc, người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giả phong dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh một trong những chiến sĩ đầu tiên của thế giới thứ 3, của dân tộc nghèo đói và khát khao cuộc sống cho con người. Với hành trình tìm theo chân bác ngày hôm nay đã một lần nữa nhắc nhở em không được lãng quên quá khứ vì đó là một phần của tương lai. Là sức mạnh và niềm tin vững chắc để thế hệ chúng em và cả những thế hệ mai sau có đủ nghị lực, khôn ngoan để tiếp tục viết tiếp vào trang sử hào hùng của dân tộc, thực hiện tiếp những lý tưởng mà Hồ Chủ Tịch kính yêu và thế hệ trước còn đang dang dở.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBài thu hoạch bảo tàng Hồ Chí Minh.docx
Tài liệu liên quan