Bài thuyết trình tham quan từ Đại học Văn hoá Hà Nội - Giảng Võ - Nguyễn Thái Học - Hai Bà Trưng - Hàng Bài - Đinh Tiên Hoàng (Đền Ngọc Sơn)

Mời quý khách đi theo tôi ạ! Chúng ta đi bộ khoảng 5phút là sẽ tới điểm tiếp theo. Qúy khách có nhìn thấy cách chúng ta khoảng 30m có một cái tháp nhỏ mà những bạn thanh niên đang đứng chụp hình không ạ? Người ta gọi nó là Tháp Hoà Phong. Đây là một ngôi tháp mang vẻ rêu phong cổ kính cùng với thời gian. Toà tháp mang vẻ đẹp tâm hồn của người Hà Nội đã tồn tại hơn 200 năm, nhưng có lẽ ít người biết về lịch sử gắn liền với một ngôi chùa bên bờ hồ Hoàn Kiếm mà nay đã vang bóng một thời.

Tôi xin được kể với quý vị về lịch sử của ngôi tháp này. Dải đất Bưu điện Hà Nội bên bờ hồ Hoàn Kiếm bây giờ là thôn Cựu Lâu xưa. Những năm đầu niên hiệu Thiệu Trị nhà Nguyễn, Tổng đốc Ninh Thái là Nguyễn Đăng Giai chủ hưng công cho dựng ngôi chùa Liên Trì Hải Hội trên nền cũ lầu Ngũ Long với quy mô to lớn nhất chốn kinh kỳ. Ngôi chùa hoàn thành vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), gồm 36 nóc, gần 200 gian, vô cùng lộng lẫy. Chùa dựng xong Hoà thượng Phúc Điền trụ trì và cho ấn tống rất nhiều kinh sách trong công cuộc hoằng dương Phật pháp mà còn ghi nơi tàng bản. Chùa Liên Trì Hải Hội có rất nhiều tên gọi như chùa Liên Trì,chùa Báo Ân, chùa Đại sứ quán Hà Nội (Hà Nội Đại sứ quán tự).người Pháp gọi là chùa Thụ Hình vì dựa trên cảnh xử tội trong tranh Thập điện Diêm vương treo trên tường Phật điện. Nhưng chùa tên là Liên Trì Hải Hội và được gọi tắt là Liên Trì (ao sen).

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3225 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thuyết trình tham quan từ Đại học Văn hoá Hà Nội - Giảng Võ - Nguyễn Thái Học - Hai Bà Trưng - Hàng Bài - Đinh Tiên Hoàng (Đền Ngọc Sơn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thép, sàn và lan can làm bằng gỗ. Cầu có thiết kế cong cong và uốn như hình con tôm. Trước khi qua cầu thì mọi người hãy đợi tôi một lát để tôi sang quầy mua vé đã ạ!…Nào, chúng ta hãy lên cầu. Qua hết 15 nhịp cầu sơn đỏ là tới lầu Đắc Nguyệt (lầu được trăng). Lầu là một gác chuông hai tầng, kiến trúc tựa như Khuê Văn Các của Văn Miếu. Tầng hai có hai mái, có tấm biển khắc ba chữ " Đắc Nguyệt lầu", lấy ý ở câu thơ cổ: "Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt." nghĩa là: ở gần nước nên lầu đón được trăng trước tiên. Đó là vì lầu thì cao xung quanh là hồ nước mênh mang, tầm nhìn không có gì che khuất nên nhiều nơi chưa thấy trăng mà ở đây đã nhìn thấy. Song nhìn thấy trước tiên thì cũng rất bình thường nên ở đây, các vị thưở xưa khi dựng lầu này đã dùng khái niệm "được trăng" đầy ý nghĩa chủ động. Được trăng coi như là ôm gọn vầng trăng trong vòng tay mình! Hai bên cửa sổ có đôi câu đối ý tứ lãng mạn không kém: " Bất yếm hồ thượng nguyệt Uyển tại thuỷ trung ương." Có nghĩa là: Trăng trên hồ ngắm bao nhiêu cũng không chán, cứ như dầm mình trong làn nước miên man. Ở hai bên cửa cổng cũng có đôi câu đối tả cảnh giàu hình tượng: " Kiều dẫn trường hồng thê đảo ngạn Lầu đương minh nguyệt toạ hồ tâm." Nghĩa là: Cầu dẫn dải cầu vồng đậu vào bờ đảo. Lầu in vầng trăng sáng nằm trong lòng hồ. Câu thứ nhất là nói về cầu Thê Húc, coi cầu như là nẻo đường để cho bảy sắc cầu vồng đi qua mà vào đậu trên bờ đảo. Câu thứ hai có ý là bóng lầu hoà với vầng trăng sáng như đang ngồi với nhau giữa lòng hồ sâu. Khoảng giữa cửa và đôi câu đối là hai bức tranh đắp nổi, bên phải là bức "Long mã hà đồ", bên còn lại là "Thần quy lạc thư". Ở bức Long mã hà đồ có đắp nổi hình con ngựa đầu rồng, trên lưng có đeo hình bát quái. Đây là điển tích từ thời vua Phục Hy của Trung Quốc, cách bây giờ khoảng năm ngàn năm. Thưở đó chưa có chữ, Phục Hy một hôm thấy trên sông Hoàng Hà nổi lên con Long mã (đầu rồng mình ngựa) trên lưng có vằn có nét. Phục Hy liền dữa vào các vằn nét đó để lập ra bảng vẽ có tám quẻ gọi là Bát quái toàn đồ. Đời sau gọi là Hà đồ tức đồ Bát quái rút ra từ sự tích Long mã trên sông Hà. Đó là những con số đếm đầu tiên, cũng là những chữ viết đầu tiên của dân tộc Trung Hoa. Sau thời Phục Hy hàng trăm năm có vua huyền thoại Đại Vũ. Trong khi đi trị thuỷ ở sông Lạc thấy nổi lên một con rùa trên lưng có những chấm đen trắng đặc biệt theo một trình tự. Ông dựa vào những chấm đó mà tạo ra Cửu trù (chín khoảnh). Đời sau gọi là Lạc thư tức bản viết từ rùa thần sông Lạc.Do vậy ở bức tường bên tría của lầu Đắc Nguyệt có bức Thần Quy Lạc thư đắp nổi hình con rùa trên mai một cây kiếm và một hộp sách. Vì từ Bát quái và Cửu trù, những phát minh quan trọng về số học, đồng thời áp dụng vào việc tính toán, mở rộng ra có thể giải thích nhiều hiện tượng trước mắt và suy đoán những việc sẽ xảy ra trong vũ trụ, nhân sinh, trong tự nhiên, xã hội có liên quan đến con người. Qua lầu Đắc Nguyệt này đi vào phái bên trái là sẽ tới khu đền chính. Ở phía bên tay phải của quý khách có mấy gian nhà thời trước là nơi hội họp nghe giảng kinh sách, còn bây giờ đây là nơi trưng bày các tác phẩm nghệ thuật. Bên trái quý vị là một dãy tường hoa. Ở dãy tường này, trên các cột cũng có đắp nổi nhiều câu đối tả cảnh hay, như: - "Nhất trần vô nhiễm sắc Tứ tự giai thường xuân." ( Mây bụi không chút gợn Bốn mùa thảy đều xuân.) hay : - "Bình hồ trường nhật nguyệt Cố điện tiểu càn khôn." ( Hồ phẳng dài cùng năm tháng Điện xưa thu nhỏ đất trời.) - "Cô sơn mộc ấm tam thiên giới Chước thuỷ ba chừng cửu thập xuân." ( Ngọn núi côi, cây rợp bóng, che tam thiên thế giới Một môi nước, sóng trong lặng, suốt chín chục ngày xuân.) Toàn những câu đối tả cảnh đặc sắc. Tư duy hình tượng của các văn sĩ xưa cũng khá hiện đại. Ở đoạn giữa dãy tường này có một kiến trúc khá bé mang tên "Kính Tự đình" (tức đình kính trọng chữ viết). Đó là nơi trước đây các cụ đốt những mẩu giấy có viết chữ, vì các cụ xem chữ là thánh hiền, chữ do thánh hiền đặt ra và mang tư tưởng của thánh hiền, cho nên không thể đối xử như một thứ rác rưởi đem vứt đi mà phải đốt. Theo chuyện cũ Hà Nội kể lại rằng: cho tới khi Pháp đã bắt đầu cai trị Hà Nội khoảng đầu thế kỷ XX, vẫn còn có một ông già sáng sáng gánh một đôi bồ đi quanh phố phường, hề thấy mảnh giấy nào có chữ hán, ông lại nhặt bỏ vào bồ, mang vào đốt tại đình Kính Tự này. Qua đình Kính Tự, trước mặt quý vị là một vọng cảnh đẹp: Xa xa, ở phía tây nam hồ là Tháp Rùa, một dấu ấn đặc trưng của Hồ Gươm; gần là đình Trấn Ba. Tôi xin giới thiệu qua đôi nét về tháp để quý khách có thể hiểu được. Tháp Rùa là cách gọi nôm na chứ tên đích thực ghi trên tháp là "Quy Sơn tháp" tức tháp núi Rùa. Tháp xây trên gò Rùa nơi xưa từ thời vua Lê Thánh Tông đã dựng Điếu Đài ở đó để nhà vua ra câu cá Sang thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ 17-thế kỷ 18) thì chúa Trịnh cho xây đình Tả Vọng trên gò nhưng sang thời nhà Nguyễn thì không còn dấu tích gì nữa. Sau khi Pháp hạ thành Hà Nội năm 1883 thì dân vùng ven hồ xiêu tán cả. Các quan Việt cũng bỏ sở nhiệm. Riêng có Nguyễn Ngọc Kim chức dịch làng Tự Tháp được cử làm trung gian giữa quân Pháp và người Việt, lại được chính quyền mới tín nhiệm nên ít lâu trở thành bá hộ, tục gọi là Bá hộ Kim. Năm 1886 thấy huyệt đất trên gò Rùa hợp phong thủy ông xuất tiền xây tháp trên gò với ý định chôn hài cốt của cha vào đó. Việc không thành nhưng ngọn tháp ba tầng vẫn được hoàn tất. Vì vậy nên ban đầu Tháp này có tên là Tháp Bá hộ Kim. Vì vị trí đẹp giữa hồ, tháp nghiễm nhiên biến thành thắng tích Hà Nội. Ngọn tháp kết hợp phong cách kiến trúc Âu châu với hàng cửa cuốn gô-tích hai tầng dưới nhưng phần mái cong giữ quy thức kiến trúc Việt Nam. Thời Pháp thuộc, trên đỉnh Tháp Rùa có dựng một phiên bản của tượng Nữ Thần Tự Do (1890-1896) (hay còn được gọi là tượng Đầm Xòe). Sang thập niên 1950 tượng này đã bị phá bỏ khi chính phủ Đế quốc Việt Nam của thủ tướng Trần Trọng Kim nắm chính quyền thay cho quân Pháp. Tháp Rùa đã đứng ở đây dư một thế kỷ nên cũng đã rất thân thuộc, gần gũi với mọi người dân Hà Nội. Như thi sĩ Nguyễn Đình Thi đã nói trong thơ: " Hà Nội chiều nay mưa tầm tã Ta lại về đây giữa phố xưa Nước Hồ Gươm sao xanh dịu quá Tháp Rùa roi lệ cười trong mưa." Trở lại đình Trấn Ba mà chúng ta đang đứng trước mặt đây, bốn cây cột cái bằng gỗ và bốn cây cột góc bằng đá đỡ lấy hai lớp mái thanh thoát. Đình Trấn Ba (hay còn gọi là đình chắn sóng) có tác dụng ngăn chặn những luồng văn hoá không lành mạnh vào văn hoá Việt Nam đương thời. Đình có hình vuông, được dựng cùng với Tháp Bút, Đìa Nghiên, tức là khoảng năm 1865 - 1866. Nhưng trong những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc chúng tôi (1947), đạn đã phá tan ngôi đình. Đến 1951 - 1952, một số nhà hảo tâm từ thiện đãđóng góp công và của cho dưng lại đình giống như nguyên mẫu. Có những câu đối hay khắc trên cột đá cũng được phục chế lại nguyên văn như: - " Miếu mạo sơn dung tương ẩn nước Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi." Nghĩa: ( Dáng miếu hình non cũng thấp thoáng Bóng mây ánh nắng quyện bồi hồi) Đó là cảnh sắc trước đình rất trong trẻo và nên thơ. - " Kiếm hữu dư linh quang nhược thuỷ Văn tòng đại khối thọ như sơn." Nghĩa: ( Gươm rớt khí thiêng ngời tựa nước Văn hòa trời đất thọ tày non ) Đó là cảm tưởng trước đình, nghĩ về một thời thanh gươm cứu nước ngời ngời sáng và cùng một thời văn chương có sức nặng như đá núi. Đối diện với đình Trấn Ba là ba nếp đền ẩn hiện dưới những tán cây cổ thụ um tùm. Đây là khu trung tâm của cả quần thể di tích đền Ngọc Sơn, về mặt kiến trúc cũng như về mặt thờ phụng. Nào, chúng ta hãy vào thăm nếp nhà thứ nhất, hay còn gọi là nhà tiền tế. Đền được xây theo hình chữ Tam. Nếp nhà ngoài cùng này gồm ba gian xây kiểu tường hồi bít đốc, dạng hai tầng bốn mái. Đỡ mái là bộ vì kèo có kết cấu chồng rường, hạ bẩy." Các con hoành của hai mái dưói được đặt trên một kẻ cong dài. nền nhà cao 0,3m so với mặt sân. Nhà tièn tế này có tàn, có tán, có hương án và đôi chim anh vũ tức là chim vẹt, có thếp vàng, tạo hình khá đẹp mắt. Ngoài ra còn có hế thống các bức hoành phi như ở giữa quý vị có thể nhìn thấy, đó là "Hồi thiên đội thế", ở bên tay phải của mọi người là "Mặc tướng quần sinh ", và phía bên trái là "Phồn hy vĩnh tích". Đối diện với bức hoành phi ở giữa là bức "Cảm huệ lĩnh phương"( Năm Nhâm Tý 1912). Mời quý vị đi tiếp để thăm gian trung đường. Nếp nhà thứ hai này cũng có ba gian, tường hồi bít đốc nhưng lòng nhà rộng hơn. Bộ khung đỡ mái theo kiểu "thượng rường hạ kẻ". Nền cao hơn so với nền nhà tiền tế. Hệ thống các bức bàn chạm khắc cầu kỳ hơn, con dơi, con rồng, phượng, long mã chở Hà đồ, thần rùa mang Lạc thư. Ở gian chính giữa đặt hương án, đồ thờ và sập thờ. Quý khách có thể quan sát thấy ba lớp tượng. Lớp ngoài cùng là tượng Quan Vũ cùng hai tuỳ tướng là Châu Xương và Quan Bình.Tượng Quan Vũ cao 1,35m trong tư thế ngồi trên bệ, mặt đỏ, râu dài, nũi có vạt phủ xuống lưng, trên chỏm có buộc dây lụa, trong mặc áo giáp, ngoài khoác áo choàng xanh, hộ tâm kính có hình rồng, tay phải úp trên đùi, tay trái giơ ngang ra phía trước, chân đi hài. Tượng Châu Xương cao 0,9m, râu quai nón, mũ bó có chóp, đứng hầu bên phải tượng Quan Vũ, áo chẽn màu đỏ và xanh, cầm thanh long đao. Còn tượng Quân Bình cao 0,88m, nho nhã, áo thụng vũ võ sinh, áo bào đỏ, đứng bên trái tượng Quan Vũ. Tôi xin giới thiệu đôi nét về nhân vật Quan Vũ để mọi người được biết. Quan Vũ (162 - 219) là nhân vật lịch sử Trung Quốc đời Thục Hán, tên tự của ông là Vân Trường nổi tiếng là một dũng tướng, trung thành và giữ tín nghĩa. Ông người đất Giải Lương, Hà Đông, nay thuộc tỉnh Sơn Tây - Trung Quốc, là tướng thân cận và anh em kết nghĩa với vua Thục là Lưu Bị. Ông là dũng tướng tài ba đánh thắng nhiều trận chiến, song cuối cùng do chủ quan bị tưưóng Ngô bắt, đem chém. Tương truyền ông đã hiểu thánh, được nhân dân Trung Quốc ở khắp nơi thờ phụng. Đời Tống Tuyền Gia ông được phong là Vũ An vương. Đời Minh Vạn Lịch được phong là Hiệp thiên hộ quốc trung nghĩa đại đế. Theo bước chân di cư của người Hoa, Quan Vũ được lập đền thờ ở nhiều nơi trên đất nước ta. Dân ta thường gọi là Quan Đế, Quan Công hoặc Quan Thánh đế quân, Đức Thánh Quan. Người Việt cũng thờ ông, ngay ở Hà Nội cũng có một số nơi thờ như Đền Quan Đế ở 28 Hàng Buồm do người Hoa kiều lập ra, đình Tây Luông ở phố Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình,…Tuy nhiên, ở Việt Nam, ông được thờ dường như không phải hoàn toàn với tư cách dũng tướng mà là do tấm lòng trọng tín nghĩa và sự nghiêm minh của ông. Cho nên bà con buôn bán thờ ông là chính, mỗi khi có khúc mắc trong giao dịch hoặc có sự bội tín, họ đưa nhau đến đền thờ ông, thề bồi mong được phân xử, kẻ xấu bị trừng trị. Và thường chỉ có những nơi đô thị buôn bán tấp nập mới có đền thờ ông, chú ở nông thôn Việt Nam hầu như không có đền Quan Đế. Tiếp đến là lớp giữa với tượng Lã Tổ, hai bên có tưọng Thiên Khôi và Thiên Việt. Tượng Lã Tổ tạc người trên bệ, cao 1,35m đội mũ đạo sĩ, mặc áo vàng, dáng đĩnh đạc, tay trái đặt trên đùi, tay phải giơ ngang tay đang bắt quyết,có vẻ là quyết Chuẩn đề. Tượng Thiên Việt cao 1,1m có hình dáng một ông lão đạo mạo, mũ nhị cấp áo thụng có hình rồng lân. Tượng khá nho nhã, trắng trẻo vì cũng là ngôi sao về văn cương. Thiên Khôi mang hình dáng là một tiểu quỷ, mặt xanh, có sừng, mình trần, quần ngắn, cổ tay cổ chân đeo vòng, thắt lưng đỏ, tay trái cầm sách, tay phải cầm bút giơ ngang đầu, một chân đứng trên lưng con giao long, một chân giơ lên như hình chữ đẩu. Sao Thiên Khôi phụ trách về khoa cử. Bút và sách cầm ở tay là ghi tên những người sẽ thi đỗ đầu nói riêng và thi đỗ nói chung. Về Lã Tổ thì cũng giống như Quan Vũ, ông là người khá nổi tiếng sống ở đời Đường. Lã Tổ tên tự là Động Tân. Khi ông đang làm quan huyện lệnh thì gặp loạn Hoàng Sào, Lã Động Tân bỏ quan, về ở ẩn ở núi Chung Nam. Sau ông tu theo Đạo giáo lấy hiệu là Thuần Dương Tử. Từ đó Lã Động Tân đi vào huyền thoại, trở thành một trong tám vị tiên nổi tiếng của thần điện Đạo giáo. Lớp trong cùng là tượng Văn Xương cao 1,44m, ngồi trên long ngai trên khám thờ. Mặt tượng hơi dài, đội mũ cánh chuồn, mình mặc áo bào xanh trang trí hình rồng mây suốt từ ngực xuống, gấu áo hình sóng nước. tay phải úp trên đùi, tay trái ngửa, có ngón hơi khép lại để giữ một quyển sách. hai bên có tượng thị nữ đứng hầu. Khám thừo Văn Xương là một khám đẹp, diềm trên trang trí lưỡng long chầu nguyệt, phía dưới chạm thủng cúc dây. Diềm cửa trang trí rồng mây. Giá đỡ phía dưới có hàng lan can hình con tiện, đế khám dạng chân quỳ. Văn Xương ngay ở Trung Quốc cũng có nhiều cách giải thích khác nhau. Văn Xương là tên vùng đất, tên sao, tên vị thần. Vùng đất là huyện Văn Xương ở phía nam tỉnh Quảng Đông. Chòm sao có tên là Văn Xương cung gồm các sao Đẩu, Khôi, Dực, Khuông,…Văn Xương còn là tên một vị thần mà người ta quen gọi tôn là Văn Xương đế quân hoặc Tử Đồng đế quân. Về lai lịch của vị thần này cũng có nhiều sách nói khác nhau. Những người theo đạo giáo thì cho rằng Tử Đồng được thượng đế giao cho làm chủ cung Văn Xương và giữ lộc tịch (tức là sổ lộc ban phát cho trần gian). Triều Nguyên thì phong lên làm Đế quân và cho thở các trường học trong nước. Lai lịch rối ren như vậy song ông vẫn được coi là người tựu nghĩa, giữ lộc tịch ở cung Văn Xương, lại được thờ ở các trường học nên từ bao giờ rồi Văn Xương đã được các nhà nho ở nước chúng tôi coi như vị thần về học hành văn chương và công danh khoa cử. Như vậy, Văn Xương cũng là vị thần đa nhân cách vừa của Đạo giáo vừa của Nho giáo. Ngoài ra, ở gian trung đường này, ai bên tường hồi có hai ban thờ để thờ những vị góp công của tôn tạo đền miếu. bài vị to trên viết dòng chữ: "Tiền hậu công đức tả ban liệt vị" và "Tiền hậu công đức hữu ban liệt vị". Bây giờ xin mời du khách tiếp tục tham quan nếp nhà thứ ba, thường được gọi là cung cấm hoặc hậu cung. Giữa nếp thứ hai và thứ ba có một nhà cầu để khách nghỉ chân, đồng thời là chỗ đứng lễ. Hậu cung hệp lòng nhưng cao hơn hẳn, là nơi hiện nay thờ Đức thánh Trần của dân tộc chúng tôi - đó là Trần Hưng Đạo. Tượng cao 1,1m, ngồi trong khám thờ đặt trên bệ gạch xây cao đến 1m, hai bên có hai bậc tam cấp bằng đá. Tượng được thể hiện trong tư thế ngồi, đội mũ có ba vành trang trí, ở giữa chạm mặt nguyệt, hai cánh chuồn đứng. Tượng có khuôn mặt vuông vức, tô đỏ thắm, mắt nhìn thẳng, tai dài có thành có quách. Áo đại trào trang trí rồng mây, tay trái đặt trên đùi, tay phải cầm sách.bên ngoài khám trên có hai pho tượng văn ban, võ ban đứng hầu. Ở hai bên khám hậu có hai ban thờ, bên phía đông là ban thờ chung "bản địa sơn thuỷ tôn thần" (tức thần núi và thần nước) và Táo quân cùng các vị khai sáng ra chùa. Bên phía tây là bài vị đức Thánh: "Trần triều thượng phụ Hưng đạo đại vương." Việc thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn ở hậu cung nơi thiêng liêng nhất chứng tỏ tính trội của tín ngưỡng bản địa so với các vị thần của Trung Quốc. Trần Quốc Tuấn là một nhân vật lịch sử rất nổi tiếng của nước chúng tôi, từng là Tiết chế (tổng chỉ huy quân đội) đập tan các lần giặc Nguyên xâm lược nước Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIII. Trong tâm linh mỗi người con đất Việt chúng tôi, Người có hai tư cách: Thứ nhất là vị anh hùng dân tộc với nhiều chiến công lẫy lừng, điển hình là trận Bạch Đằng vĩ đại lưu danh thiên cổ và thứ hai là đức Thánh Trần đầy tài trí uy lực diệt được mọi ma quỷ, như khi sống, Người từng diệt con tà Phạm Nhan, một loại quỷ chuyên bức hại phụ nữ. Thêm vào đó với tước phong rất trọng thị là Thượng phụ thượng trật thượng tướng quân, bình Bắc đại nguyên soái Hưng Đạo đại vương, Trần Hưng Đạo càng trở thành đối tượng được nhân dân nhiều đời nối tiếp thần thánh hoá và phụng thờ. Trong cung cấm này hiện có những bức hoành phi câu đối ca ngợi đức Thánh Trần: như hoành phi "Hạp khí lăng tiêu" (Hạo khí ngất trời) hay "Thiên cổ vĩ nhân" (vĩ nhân của muôn đời). Bây giờ chúng ta sẽ sang tham quan gian bên cạnh để mọi người có thể được chiêm ngưỡng Cụ Rùa. Đây là Cụ Rùa đã hơn 900 năm tuổi được trưng bày trong tủ kính như quý khách đã nhìn thấy. Rùa hồ Gươm thường là loài rùa khổng lồ hiện sinh sống trong. Ngày trước rùa sống trong lòng Hồ Gươm rất hiếm khi nổi lên mặt nước, truyền rằng mỗi lần rùa nổi đều liên quan đến việc quốc gia đại sự. Nhưng thời gian gần đây rùa nổi lên nhiều hơn, có lẽ vì nước hồ ô nhiễm nên rùa phải thường xuyên nổi lên để thở. Trong đền Ngọc Sơn có trưng bày tiêu bản một cá thể rùa Hồ Gươm. Hình ảnh của rùa cũng gắn liền với hồ, thông qua tên gọi tháp Rùa ở giữa hồ và truyền thuyết Lê Lợi trả gươm cho thần Kim Quy, một truyền thuyết mang lại tên gọi cho bản thân hồ. Các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu để tìm ra được chính xác phân loại của rùa Hồ Gươm. Phía trong gian trưng bày Cụ Rùa là cửa hàng bán đồ lưu niệm và thủ công mỹ nghệ. Mọi người có thể vào tham quan và xem có món quà nào thích hợp cho người thân và bạn bè của mình không để mua về làm quà kỷ niệm về đất nước và con người Việt Nam chúng tôi. Đối với nhiều người dân Hà Nội, nếu không là tất cả, đền Ngọc Sơn trong lòng Hồ Gươm là một quần thể kiến trúc phong cảnh có nước, có non, có tháp, có đài, có cầu, có đình, có cây cổ thụ và hoa bốn mùa, có cả văn chương, tín ngưỡng, có cả huyền thoại lịch sử và những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc chúng tôi. Như vậy, tôi cùng quý vị đã tham quan hết toàn bộ khu di tích đền Ngọc Sơn. Có vị khách nào còn thắc mắc điều gì cần hỏi không ạ?... Nếu không có ai còn thắc mắc gì, tôi sẽ dành cho quý vị khoảng 10phút để mua quà lưu niệm. Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục đi tham quan điểm du lịch tiếp theo trong lịch trình ngày hôm nay. Mời quý khách đi theo tôi ạ! Chúng ta đi bộ khoảng 5phút là sẽ tới điểm tiếp theo. Qúy khách có nhìn thấy cách chúng ta khoảng 30m có một cái tháp nhỏ mà những bạn thanh niên đang đứng chụp hình không ạ? Người ta gọi nó là Tháp Hoà Phong. Đây là một ngôi tháp mang vẻ rêu phong cổ kính cùng với thời gian. Toà tháp mang vẻ đẹp tâm hồn của người Hà Nội đã tồn tại hơn 200 năm, nhưng có lẽ ít người biết về lịch sử gắn liền với một ngôi chùa bên bờ hồ Hoàn Kiếm mà nay đã vang bóng một thời... Tôi xin được kể với quý vị về lịch sử của ngôi tháp này. Dải đất Bưu điện Hà Nội bên bờ hồ Hoàn Kiếm bây giờ là thôn Cựu Lâu xưa. Những năm đầu niên hiệu Thiệu Trị nhà Nguyễn, Tổng đốc Ninh Thái là Nguyễn Đăng Giai chủ hưng công cho dựng ngôi chùa Liên Trì Hải Hội trên nền cũ lầu Ngũ Long với quy mô to lớn nhất chốn kinh kỳ. Ngôi chùa hoàn thành vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), gồm 36 nóc, gần 200 gian, vô cùng lộng lẫy. Chùa dựng xong Hoà thượng Phúc Điền trụ trì và cho ấn tống rất nhiều kinh sách trong công cuộc hoằng dương Phật pháp mà còn ghi nơi tàng bản. Chùa Liên Trì Hải Hội có rất nhiều tên gọi như chùa Liên Trì,chùa Báo Ân, chùa Đại sứ quán Hà Nội (Hà Nội Đại sứ quán tự)...người Pháp gọi là chùa Thụ Hình vì dựa trên cảnh xử tội trong tranh Thập điện Diêm vương treo trên tường Phật điện. Nhưng chùa tên là Liên Trì Hải Hội và được gọi tắt là Liên Trì (ao sen). Chùa Liên Trì được xây dựng trên ý tưởng tôn giáo đạo Phật. Toàn bộ ngôi chùa là một tổng thể kiến trúc đồ sộ mà ngày nay chỉ còn lại những hình vẻ của người Pháp cũng như mô tả rất sơ lược của sử sách. Chùa Liên Trì Hải Hội với dụng ý được chiết xuất từ bài kệ trong kinh A Di Đà, một cõi Niết bàn ngay chốn trần gian, thể hiện toàn bộ ngôi chùa là một đoá sen lớn, ý nghĩa tầng thế giới siêu thoát trên đài sen tụ hội với đủ các chư vị Bồ tát và Phật Di Lặc. Theo hình vẽ và mô tả thì chùa cách biệt thế giới bên ngoài bởi sự bao bọc các ngòi nước trồng sen và chỉ có một lối đi là chiếc cầu đá trước chùa nối tiếp ra tận tháp Hoà Phong làm cổng. Qua cầu là Tam quan đồ sộ, phía sau hai bên là hai tháp lớn, sau đó là toàn bộ ngôi chùa đồ sộ nguy nga. Vào khoảng năm 1889, người Pháp dựng xây khu nhượng địa bên bờ Đông Nam hồ Hoàn Kiếm và cho phá bỏ chùa Liên Trì, đến nay chỉ còn dấu tích vang bóng mà thôi. Dấu tích của chùa còn lại tới nay là tháp Hoà Phong, với vẻ đẹp cổ kính, lặng lẽ bên hồ và thời gian. Tháp cao ba tầng, cửa tháp theo bốn hướng Đông Tây Nam Bắc, các cửa đều có chữ Hán làm ngạch nêu tên như: Báo Đức môn, Báo Ân môn, Hoà Phong tháp, Báo Thiên tháp... tầng trên còn hình bát quái và chữ Phạn. Chùa xưa đã mất chỉ còn lại giai thoại về vị quan Thượng "làm cho tổn Bắc lại hao Đoài" mà đến nay chỉ còn lại tháp Hoà Phong cũ kính rêu phong. Những hàng liễu rủ bóng như tôn vinh thêm cho vẻ đẹp của tháp cổ. Người người sáng chiều qua lại đã bao đời bên tháp. Thời gian cứ trôi và ngôi tháp vĩnh hằng làm một chứng tích cho tâm hồn và lịch sử của đất và người Hà Nội. Bây giờ chúng ta sẽ sang bên kia đường, đi theo lối này là đến Bắc Bộ phủ. Quý khách hãy nhìn sang phía bên trái đi ạ! Vâng, thưa quý khách! Đó được gọi là Tượng đài Lý Thái Tổ. Tượng đài đặt trên vườn hoa Chí Linh - một vị trí rất đẹp, nhìn thẳng ra hồ Hoàn Kiếm và được khánh thành vào ngày 7.10.2004 do nhà điêu khắc Vi Thị Hoa sáng tác, Công ti Trách nhiệm hữu hạn Mĩ nghệ Đoàn Kết tỉnh Nam Định thực hiện bằng đồng nguyên chất, đúc liền khối, nặng 32 tấn (tượng 12 tấn, bệ 20 tấn), cao 10,1 m (tượng cao 6,8 m, bệ cao 3,3 m). Là một công trình kiến trúc văn hoá đẹp; nhằm tôn vinh vị vua Lý Thái Tổ (974 - 1028), người khởi lập và tạo dựng nên mảnh đất ngàn năm văn hiến, đồng thời là công trình chào mừng 50 năm giải phóng Thủ đô (10.10.1954 - 10.10.2004), tiến tới kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội (1010 - 2010). Đằng sau tượng đài là một khoảng đất khá rộng để người dân có thể nghỉ ngơi và giải trí tại đây. Ở giữa có một ngôi nhà hình Bát giác trông khá bắt mắt được gọi với cái tên là nhà Kèn. Sở dĩ có cái tên như vậy là vì theo những người lớn tuổi kể lại thì nơi đây, thời thực dân Pháp đô hộ, cứ mỗi Chủ nhật đến lại có một đội kèn đến đây chơi nhạc. Từ đó người ta quen gọi ngôi nhà đó là nhà Kèn. Thưa quý khách, chúng ta đang đi trên đường mang cái tên Lê Thạch. Cuối con đường này, nhìn thẳng sang bên kia đường, quý khách có thấy một toà nhà khá lớn mang kiến trúc cổ kính không ạ? Đó chính là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đây là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại Việt Nam. Đây là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn thảo các dự thảo luật về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức tính dụng, xem xét việc thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng, quản lý các ngân hàng thương mại nhà nước... Xung quanh khu vực này có rất nhiều toà nhà mang dấu ấn Pháp và điển hình phải kể đến là Bắc Bộ phủ. Nằm cuối con đường Lê Thạch này, cắt ngang với đường Ngô Quyền, ngôi nhà mang số 12 chính là Bắc Bộ phủ. Đây đã từng là nơi đặt trụ sở chính quyền Bắc kỳ, và là một di tích lịch sử của Việt Nam. Thời thuộc Pháp, tòa nhà này là Phủ thống sứ Bắc Kỳ. Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3 năm 1945), tòa nhà được đổi thành Phủ khâm sai Bắc Kỳ. Trong Cách mạng tháng Tám, ngày tổng khởi nghĩa ở Hà Nội (19 tháng 8 năm 1945), lực lượng Việt Minh cùng nhân dân Hà Nội đã tiến công và chiếm giữ tòa nhà này. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về làm việc tại đây cho đến ngày toàn quốc kháng chiến. Trong thời gian này, tòa nhà được đổi tên thành Bắc Bộ phủ. Trong sáu mươi ngày đêm chiến đấu kìm giữ chân thực dân Pháp trong thành phố (19-12-1946 – 19-2-1947), nhiều trận đánh ác liệt giữa quân và dân Thủ đô với quân Pháp đã diễn ra, tiêu biểu là trận chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ Phủ trong hai ngày 19 và 20-12-1946. Bảo vệ Bắc Bộ Phủ, ta có Đại đội 1 (Tiểu đoàn 101 vệ quốc đoàn) do Đại đội trưởng Mộng Hùng và Chính trị viên Lê Gia Định chỉ huy. Đại đội đã tổ chức các các trận địa chiến đấu tại Nha Thương mại, Bộ Bưu điện, rạp chiếu bóng Ê đen và khách sạn Gà Trống Vàng. Lực lượng trực tiếp bảo vệ ngôi nhà Bắc Bộ Phủ có hai trung đội. Trung đội 1 do đồng chí Bích chỉ huy, tổ chức phòng ngự vòng ngoài. Trung đội 2 bảo vệ ngôi nhà Bắc Bộ Phủ. Ngoài vũ khí cá nhân, ta còn có hai tổ bom ba càng và hai quả bom 150kg đặt ở hai đầu cầu thang. Một mục tiêu chủ yếu trong âm mưu đánh úp Hà Nội của quân Pháp là phải nhanh chóng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ. Bởi thế, nhiều ngày trước khi chiến tranh bùng nổ, Bộ chỉ huy Pháp đã điều hơn 200 lính đến đóng trên gác hai khách sạn Metropol đối diện với Bắc Bộ Phủ. 24 giờ đêm 19-12, cánh quân Pháp từ trong thành kéo đến phối hợp với lính Pháp ở khu vực này tiến công Bắc Bộ Phủ. Trong đợt tiến công thứ nhất, chúng cho xe tăng dùng hoả lực mạnh yểm trợ cho bộ binh tiến công chính diện vào Bắc Bộ Phủ. Từ hào giao thông, ụ chiến đấu bảo vệ vòng ngoài và từ các tầng gác cao, các chiến sĩ ta chống trả quyết liệt. Nhiều lính Pháp trúng đạn bắn thẳng của ta đổ gục trước khách sạn Gà Trống Vàng và cửa hàng công nghệ phẩm của hãng Sáp-phăng-giông. Sau khi tổ chức lại lực lượng, địch lại tiến công lần thứ hai vào Bắc Bộ Phủ. Hai xe tăng địch hạ nòng pháo bắn yểm hộ cho bộ binh địch xung phong. Ngay lập tức, một chiến sĩ quyết tử ôm bom ba càng khéo léo tiếp cận và đâm thẳng bom vào xe địch. Chiếc xe đứng khựng lại bốc cháy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài thuyết trình nhóm 3.doc
Tài liệu liên quan