Báo cáo Đánh giá một số công tác thực hiện chiến lược ở công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí

Khi nói đến lĩnh vực thị trường cần phải hiểu rõ là bao gồm cả hoạt động mua và hoạt động bán. Hoạt động mua, được hiểu là quá trình tìm kiếm các nguồn đầu vào cho hoạt động sản xuất hoặc đơn giản chỉ là hoạt động mua để bán.Với ELMACO, trong hoạt động này nó bao hàm đầy đủ ý nghĩa tức là công ty vừa mua các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất vừa mua chỉ để bán đều có thể diễn ra trên cả hai thị trường TLSX lẫn TLTD.

Trong ELMACO thương mại được coi là hoạt động kinh doanh chính, hiểu đơn thuần chỉ là hoạt động mua vào để bán ra nhằm thu một khoản chênh lệch mà người ta gọi nó là lợi nhuận.

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Đánh giá một số công tác thực hiện chiến lược ở công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ban (phòng kế hoạch và đầu tư, phòng Tài chính kế toán,phòng tổ chức hành chính), hệ thống các xí nghiệp kinh doanh, các nhà máy sản xuất và các chi nhánh của công ty. Chức năng-Nhiệm vụ của giám đốc, phó giám đốc, các phòng ban chức năng khác có liên quan. Giám đốc là người đứng đầu trong công ty do bộ trưởng bộ Thương mại bổ nhiệm, là người đại diện cho toàn công ty trước ban quản lý cấp trên và toàn quyền quyết định trong phạm vi doanh nghiệp.Theo cơ cấu tổ chức này, giám đốc trực tiếp chỉ đạo hoạt động của các phòng ban (phòng kế hoạch và đầu tư; phòng Tài chính kế toán; phòng tổ chức tổng hợp);11 xí nghiệp kinh doanh; 2 nhà máy sản xuất và 6 chi nhánh tại các tỉnh và thành phố khác nhau. Các phó giám đốc có nhiệm vụ giúp giám đốc chuẩn bị các quyết định hướng dẫn,kiểm tra và giám sát việc thực hiện các quyết định của các đơn vị cấp dưới. Các phó giám đốc không ra lênh trực tiếp cho những người thừa hành ở các đơn vị cấp dưới mà việc truyền mệnh lệnh vẫn theo trực tuyến quy định, tức là do giám đốc trực tiếp ra lệnh. Phó giám đốc 1: Chịu trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra các hoạt động của 8 đơn vị,bao gồm 7 xí nghiệp kinh doanh (xí nghiệp kinh doanh cao su; Xí nghiệp kinh doanh vòng bi, xí nghiệp kinh doanh hoá chất, xí nghiệp kinh doanh xuất khẩu; xí nghiệp kinh doanh vật tư cơ điện,xí nghiệp thiết bị truyền tải điện, xí nghiệp kinh doanh kim khí) và một nhà máy sản xuất dây và cáp điện. Phó giám đốc 2: Chịu trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của 11 đơn vị,bao gồm: 4 xí nghiệp kinh doanh (Xí nghiệp kinh doanh thiết bị và dụng cụ đo lường; xí nghiệp kinh doanh điên dân dụng; xí nghiệp kho vận và dịch vụ; xí nghiệp kinh doanh tổng hợp) 1 nhà máy cơ điện và 6 chi nhánh tại TPHCM; Đà Nẵng; Quảng trị; Hà nam; Thái Nguyên và Quảng Ninh. Nhiệm vụ của các phòng ban: Phòng Kế hoạch và đầu tư: Trên cơ sở các số liệu của phòng Tài chính kế toán cung cấp và căn cứ kế hoạch của các đơn vị trực thuộc và các phòng kinh doanh,chi nhánh gửi lên để lập kế hoạch tổng hợp giúp ban giám đốc có kế hoạch chỉ đạo chung hợp lý.Đó là những kế hoạch về sản xuất, về xuất nhập khẩu, về mặt hàng,về thị trường…,để thực hiện mục tiêu và chiến lược của công ty đề ra. Phòng Tài chính kế toán: Có nhiệm vụ ghi chép và theo dõi tình hình tài chính của công ty,lập báo cáo tài chính, xây dựng kế hoạch tài chính và cung cấp thông tin về tài chính cho ban giám đốc.Thực hiện các kế hoạch chi trong nội bộ và bên ngoài công ty về các khoản vay nợ cũng như thạnh toán hợp đồng. Phòng Tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ sắp xếp tổ chức lực lượng lao động, tuyển dụng, đào tạo cán bộ, giải quyết các chế độ chính sách về tiền lương,bảo hiểm xã hội cho người lao động.Đồng thời tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết các đơn thư khiếu nại và đề xuất biện pháp xử lý lên giám đốc. - Hệ thống các xí nghiệp kinh doanh, các nhà máy sản xuất và các chi nhánh của công ty,tổ chức thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh theo lệnh và các quyết định của giám đốc. Đồng thời chịu sự kiểm tra giám sát của các phó giám đốc. Đ ặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí (ELMACO) Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một công ty làm ăn tốt hay sấu,ta có thể căn cứ vào một số chỉ tiêu nhất định dùng nó để đánh giá chung. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty được phản ánh qua 3 chỉ tiêu: Doanh thu; sản lượng và lợi nhuận. Sản lượng: Các chỉ tiêu phản ánh khối lượng sản xuất thường được đánh giá bởi 3 loại thước đo: Thước đo hiện vật (số lượng sản phẩm, số tấm, cái, chiếc…);Thước đo bằng giờ lao động (số giờ lao động định mức để hoàn thành kế hoạch cho một đơn vị sản phẩm…) và cuối cùng là thước đo giá trị (bằng tiến) Trong 3 loại thước đo trên thì thuớc đo giá trị được sử dụng nhiều hơn cả,nếu đo bằng giá trị thì: Giá trị tổng sản lượng là chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền, phản ánh toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh trực tiếp hưu ích của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).Sau đây là kết quả thực hiện chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng ở công ty ELMACO qua 3 năm 2000,2001,2002 Bảng Tốc độ tăng giá trị tổng Sản lượng Đơn vị tính:1000 VNĐ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch 2001/2000 2002/2001 Số tiền % Số tiền % Giá tị tổng sản lượng 14.466 16.600 28.000 2134 14.75 11.400 68.67 Nguồn: Báo cáo tiêu thụ lỗ lãi, Phòng Tài chính kế toán Có thể thấy chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng của công ty năm sau đều cao hơn năm trước cả về số tương đối và tuyệt đối.Đặc biệt năm 2002,giá trị tổng sản lượng của công ty tăng rất nhanh,tăng 68.67% so với năm 2001 tương ứng với số tương đối là 11.400 triệu đồng, do thị trường của công ty có nhiều thuận lợi, sản xuất được mở rộng nên tổng giá trị tổng sản lượng tăng cao so với năm 2001. 1. Doanh thu: Doanh thu là một chỉ tiêu phản ánh kết quả thu được của doanh nghiệp, dựa trên mức sản lượng tiêu thụ và giá bán. Doanh thu=sản lượng tiêu thụ*giá bán Trong vài năm qua,với chiến lược đa dạng hoá kinh doanh tăng cường mở rộng thị trường dựa trên mục tiêu thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng. Dưới đây là kết quả mà công ty đã đạt được về mặt doanh thu. Bảng kết quả doanh thu của công ty ELMACO qua một số năm gần đây Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Chênh lệch 2001/2000 2002/2001 Số tiền % Số tiến % Tổng DT 148.789 244.997 323.710 96208 64,67 78713 32,12 DT nội bộ 5424,1 6490,5 228.863 1066,3 19,66 222372 3426 DT xuất khẩu 780,2 3776,7 14764,7 2996,5 384,1 10987,9 290,9 DT thuần 148568,3 244805,5 321904,1 96237,2 64,78 77098,6 31,19 Thu nhập TC 935.3 1507,5 1083 572,2 61,18 -424,5 -28,16 Thu nhập BT 143,4 19,3 1273,8 -124.2 -86,5 1254.5 6493,8 Nguồn: Báo cáo tiêu thụ lỗ, lãi-Phòng Tài chính kế toán Qua số liệu trên ta thấy tổng doanh thu của công ty ELMACO tăng đều qua các năm. Đặc biệt năm 2002 doanh thu nội bộ và doanh thu xuất khẩu đều tăng nhanh rất nhiều so với năm 2001 và 2001, cụ thể năm 2002 doanh thu nội bộ của công ty tăng 3426% so với năm 2001,tương ứng với số tuyệt đối là 222.372 triệu đồng, doanh thu xuất khẩu tăng 290,9%, tương ứng với số tuyệt đối là10.987,9 triệu đồng so với năm 2001.Điều này chứng tỏ thị phần của công ty ngày càng được mở rộng, sản phẩm chính của công ty có sức cạnh tranh cao và ngày càng đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước. Tổng doanh thu tăng dẫn đến doanh thu thuần cũng tăng cả về số tương đối lẫn tuyệt đối. Nhưng so sánh giữa số tương đối của tổng doanh thu và doanh thu thuần giữa năm 2002 với 2001 thì tốc độ tăng của doanh thu thuần lại thấp hơn tổng doanh thu. Nguyên nhân chính là do khâu quản lý tiêu thụ sản phẩm còn lỏng lẻo, mặt khác là do giá cả hàng hoá lên xuống thất thường… Các khoản thu nhập tài chính và thu nhập bất thường không phải là lĩnh vực mà công ty chú trọng. Cho nên sự biến động của hai khoản thu nhập này là rất lớn,mặc dù vậy sự biến động của hai khoản thu nhập này không làm ảnh hưởng nhiều đến tổng doanh thu của công ty. 2. Tình hình Lợi nhuận qua một số năm: Chúng ta đã biết công thức đơn giản là: Lợi nhuận =Doanh thu-Chi phí Điều này cho thấy rõ ràng lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc cả hai yếu tố doanh thu và chi phí. Nhưng không thể khẳng định rằng, khi doanh thu tăng hay chi phí giảm thì lợi nhuận tăng. Để thấy được mức độ hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, đứng trên góc độ lợi nhuận ta cần so sánh giữa tốc độ gia tăng doanh thu với tốc độ gia tăng chi phí cùng với việc xem xét mức độ hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ về lợi nhuận. Cũng giống như các đơn vị sản xuất kinh doanh khác, mục tiêu hoạt động của công ty cũng là lợi nhuận. Đây là căn cứ để đánh giá khả năng phát triên và trình độ quản lý kinh doanh của công ty. Bảng Lợi nhuận của công ty ELMACO Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Chênh lệch 2001/2000 2002/2001 Số tiền % Số tiền % Tổng DT 148789,7 244996,9 323710,2 96207,2 64,7 78713,4 32,1 Lãi gộp 8720,3 12124,8 1555,1 3404,5 39,04 3830,2 31,6 Lãi thuần KD -1659,4 5513,8 4907,6 7173,2 432,3 -606,2 -11 Lãi HĐ TC 931,6 -4825,8 -907 -5757,4 -618 -1081,3 -22,41 Lãi HĐ BT 18,8 21,7 1263,5 2,9 15,75 1241,8 57,17 Tổng lãi 709 71 264,1 1418,8 200 -445,7 62,8 Nguồn: Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh; Phòng: Kinh doanh tổng hợp Qua bảng số liệu trên ta thấy tổng doanh thu và lãi gộp của công ty đều tăng cả về số tương đối lẫn tuyệt đối. Nhưng trong cơ cấu tổng lãi của công ty thì lãi thuần từ hoạt động kinh doanh là bộ phận quan trong nhất,năm 2001,lãI thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 432,3% so với năm 2000, so với số tuyệt đối tăng 7173,2 triệu đồng,nhưng đến năm 2002 lãi thuần từ hoạt động kinh doanh lại giảm 11% so với năm 2001, tuơng ứng với số tuyệt đối giảm 606,2 triệu đồng. Bên cạnh đó mức biến động của bộ phận lãi hoạt động tài chính và lãi hoạt động bất thường lại tăng, giảm không đều đặn giữa các năm làm ảnh huởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu ta đem so sánh giữa tổng doanh thu và tổng lãi thì ta thấy tổng doanh thu của năm 2002 cao hơn tổng doanh thu của năm 2001 nhưng tổng lãi lại thấp hơn (cụ thể, tổng lãi năm 2002 giảm 62,8% so với năm 2001,tương ứng với số tuyệt đối giảm 445,7 triệu đồng). Điều này chứng tỏ không phải lúc nào lợi nhuận cũng vận động cùng chiều với doanh thu và như vậy nếu không tìm ra biện pháp cải thiện tình hình giá thành thì rất có thể công ty sẽ gặp phải những khó khăn. Doanh thu tăng theo số liệu của các năm thì điều này cũng đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh nên vấn đề về chi phí cho nó là không thể tránh khỏi. Lúc này nảy sinh nhiều câu hỏi như việc công ty tìm nguồn chi phí bổ sung thêm như thế nào? ở đâu ra? phân phối, quản lý và sử dụng nó như thế nào? Báo cáo tài chính của công ty hàng năm đều nêu rõ nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên là vốn vay ngân hàng cộng với huy động khác, nghĩa là chắc chắn công ty phải chịu một khoản chi phí vay nhất định nào đó. Trong bối cảnh nguồn tài trợ chủ yếu là ngân hàng như ở ELMACO thì họ buộc chấp nhận một khoản chi phí rất cao. Năm 2001, công ty vay ngắn hạn bình quân là 77,5% trên tổng vốn dẫn đến chi phí trả lãi vay là 6.776.199.327 VNĐ, bằng 2,1% trên tổng doanh thu thuần. Ngoài ra, chi phí tăng mạnh còn do đặc thù hoạt động của công ty, là một công ty có phạm vi kinh doanh rộng với nhiều chi nhánh trên khắp cả nước và các nguồn nhiên liệu đầu vào phân bố rải rác ảnh hưởng đến công tác vận chuyển và bảo quản… Đơn vị tính: VNĐ Yếu tố về chi phí Số tiền Chi phí nguyên vật liệu 34.302.997.440 Chi phí về nhân công 1.938.306.480 Chi phí khấu hao TSCĐ 1.010.889.197 Chi phí dịch vụ mua ngoài 300.403.608 Chi phí khác bằng tiền 1.980.787.170 Tổng cộng 39.669.884.123 Nguồn: Phòng Tài chính kế toán 3. Tình hình nộp ngân sách Nhà nước. Bảng Tình hình nộp ngân sách của ELMACO một số năm Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Thực hiện 2001 Ước TH 2002 Thực hiện 2002 Thuế GTGT 10.504 11.500 12.047 Thuế XNK 11.052 10.260 10.231 Thuế TNDN 15.021 51.2 49.6 Thuế khác 215.4 183.0 230.3 Tổng nộp 21.787 22.000 22.416 Nguồn: phòng Tài chính kế toán Sau những giai đoạn đầy rẫy những khó khăn, trở ngại, ELMACO đã tự nhận thức được rằng họ phải làm thế nào để vượt qua bằng chính năng lực thực sự của mình, bằng sự cố gắng, nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, từ năm 2000 trở đi hoạt động sản xuất kinh doanh đã bắt đầu trở lại thế phát triển, biểu hiện qua mức thực nộp ngân sách trung bình hàng năm là 22 tỷ/năm, mức nộp năm sau cao hơn năm trước và luôn hoàn thành vượt định mức. Doanh thu hàng năm tăng, cùng kỳ mức nộp ngân sách cũng tăng đã phần nào cho thấy sự hợp lý, lành mạnh, ổn định và tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh và sản xuất tại công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí. 4. Thị phần của công ty Bảng: Thị phần của công ty Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2001/2000 2002/2001 Số tiến % Số tiền % DT của công ty 148.789 244.997 323.710 96.207 64.66 78.713 32.12 DT thị trường 801.680 867.870 1.004.85 66.190 108.26 136.880 115.78 Thịphần công ty 18.03 28.23 31.22 10.20 156.57 2.99 110.59 Nguồn: Phòng Tài chính kế toán Như vậy, doanh thu của công ty và doanh thu thị trường qua các năm đều tăng,tuy nhiên,tốc độ tăng doanh thu của công ty cao hơn tốc độ tăng doanh thu của thị trường,do đó thị phần của công ty ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn. Nếu phân chia tình hình hoạt động của công ty theo từng khu vực thị trường cụ thể thì thấy rằng doanh thu tại những thị trường này đều tăng hàng năm. Mỗi một khu vực thị trường đều đóng góp quan trọng cho thành tích chung của công ty là thị phần của ELMACO vẫn đang tiếp tục gia tăng trong lúc doanh thu thị trường chung cũng trong giai đoạn khả quan. 5. Lĩnh vực thị trường Khi nói đến lĩnh vực thị trường cần phải hiểu rõ là bao gồm cả hoạt động mua và hoạt động bán. Hoạt động mua, được hiểu là quá trình tìm kiếm các nguồn đầu vào cho hoạt động sản xuất hoặc đơn giản chỉ là hoạt động mua để bán.Với ELMACO, trong hoạt động này nó bao hàm đầy đủ ý nghĩa tức là công ty vừa mua các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất vừa mua chỉ để bán đều có thể diễn ra trên cả hai thị trường TLSX lẫn TLTD. Trong ELMACO thương mại được coi là hoạt động kinh doanh chính, hiểu đơn thuần chỉ là hoạt động mua vào để bán ra nhằm thu một khoản chênh lệch mà người ta gọi nó là lợi nhuận. Nói đến thị trường có thể chia ra làm 2 loại: Thị trường đầu vào và thị trường đầu ra.Thị trường đầu vào của ELMACO chủ yếu thông qua con đường nhập khẩu, bởi vì hàng năm có tới 60% đến 70% hàng hoá được nhập khẩu trên tổng hàng hoá mà công ty có được. Ngoài ra, do đặc điểm là một doanh nghiệp thương mại mang tính chất công nghiệp, nghĩa là có trực tiếp sản xuất, chế biến một số sản phẩm, do đó ELMACO còn sử dụng các nguồn đầu vào một số địa phương trong nước chủ yếu phục vụ cho hoạt động sản xuất. Song,thị trường đầu vào chủ yếu của ELMACO là thị trường ngoài nước, nhiều điều phức tạp hơn. Công ty cần phải nghiên cứu kỹ thị trường về phương thức thanh toán,về các đIều khoản hợp đồng kiểm tra chặt chẽ chất lượng sản phẩm, chú ý tới phong tục tập quán, chính sách của các nước sở tại, cần thường xuyên theo dõi sự biến động của giá cả,sự thay đổi tỷ giá để đưa ra các giải pháp hợp lý như mua một lần hay mua nhiều lần, mua với số lượng bao nhiêu, vận chuyển như thế nào?… Thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung quốc, Hàn quốc, Đài loan, Italia… Thị trường xuất khẩu chủ yếu là:Trung quốc,Hàn quốc, TháI Lan,… Trong khi hoạt động mua chủ yếu bằng con đường nhập khẩu thì hoạt động bán ở công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí lại có chung tình trạng như hầu hết ở các doanh nghiệp nội địa khác: Đó là khả năng cạnh tranh không đủ tầm để có thể xuất khẩu một cách ồ ạt và thậm chí nhiều doanh nghiệp không muốn chấp nhận một cuộc phiêu lưu có thể phải trả giá đắt là hướng ra xuất khẩu đành vật lộn với thị trường trong nước vốn đỗi quen thuộc.Trong một vài năm gần đây đã rất chú trọng tới thị trường xuất khẩu và đã gặt hái được khá nhiều thành công, tuy nhiên thị trường tiêu thu chính của họ vẫn là nội địa. 6. Sản phẩm của công ty Sản phẩm của công tyVật liệu điện và Dụng cụ cơ khí đa phần là những tư liệu sản xuất như vật liệu điện, hoá chất, kim khí,….Những sản phẩm này hầu hết không có định mức tiêu dùng cụ thể, một số mặt hàng kinh doanh của ELMACO không có trong danh mục quản lý của Nhà nước mà do các đơn vị tự mày mò nghiên cứu, cân đối thông qua nhu cầu và hợp đồng mua bán, sau đó đăng ký với các cơ quan chủ quản và được chấp nhận. Để tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, trong hệ thống tổ chức kinh doanh của ELMACO được chia thành nhiều trung tâm kinh doanh, thành các xí nghiệp kinh doanh, nhà máy trực tiếp sản xuất và các chi nhánh thực hiện một số chức năng nhất định. Chẳng hạn, đối với trung tâm kinh doanh vật liệu điện và dụng cụ cơ khí trụ sở 240-Tôn Đức Thắng có nhiệm vụ tổ chức kinh doanh các mặt hàng chủ yếu của ELMACO, ngoài việc tổ chức tiếp thị để cung cấp đến thẳng tay khách hàng và bán buôn là chủ yếu, trung tâm còn tổ chức một số quầy hàng giới thiệu và bán lẻ một số mặt hàng mang tính chất tiêu dùng nhỏ lẻ…. Một số sản phẩm nhập khẩu chủ yếu của công ty là:Sản phẩm cáp điện,Sản phẩm dây điện từ, Sản phẩm carton cách điện, Sản phẩm đồng, Nhôm, kẽm, Sản phẩm lốp ô tô, Sản phẩm que hàn và lưỡi cưa vòng… Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty: Cao su tự nhiên; Quặng rutile; Tùng hương; Quặng sắt; Nhựa thông; Quặng kẽm… Sản phẩm của công ty là sản phẩm đồng nhất, do đó bị cạnh tranh gay gắt cả thị trường trong và ngoài nước.Như vậy để sản phẩm của mình có thể trụ vững và cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước thì nhất định họ phải có một chiến lựơc thật cụ thể cùng với những sản phẩm có chất lượng mang tính cạnh tranh cao, có được như vậy thì những sản phẩm của công ty mới thực sự đi sâu vào thị trường, đến tay người tiêu dùng một cách tốt nhất. Phần hai Đánh giá một số công tác thực hiện chiến lược ở công ty Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí. 1. Nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh Đối với ELMACO, chưa khi nào nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp và vốn tự bổ xung có thể đủ để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà quy mô hoạt động của công ty tăng trưởng không ngừng và đang quyết tâm thực hiện mô hình kinh doanh”lợi nhuận chuyên doanh theo hướng đa dạng hoá mặt hàng”, đồng thời đẩy mạnh việc thay đổi cơ cấu kinh doanh từ kinh doanh thương mại thuần tuý sang sản xuất và kinh doanh thương mại, cải tiến phương thức kinh doanh mở rộng mạng lưới kinh doanh, đặc biệt chú trọng phát triển hoạt động xuất khẩu nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường và nhu cầu xã hội. Trước tình hình này, vẫn như trước đây, vốn kinh doanh chủ yếu của công ty có được do vay vốn từ các ngân hàng thương mại, chấp nhận trả lãi vay ở mức cao, và do là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại nên công ty ELMACO có những điều kiện thuận lợi để giải ngân, họ không cần có tài sản thế chấp, và được ưu tiên giải quyết, tuy nhiên họ phải chịu một khoản chi phí vay tương đối cao nên ít nhiều làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh (bảng trang trước) Bảng tình hình tăng giảm vốn và nguồn vốn một số năm cho thấy: nợ ngắn hạn (chủ yếu là nợn ngân hàng và một phần của phải trả khách hàng) tăng lên từ 2000 đến 2002 và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trên tổng nguồn vốn. Năm 2000 là 85,2% thì đến năm 2002 đã là 91,0%,trong khi đó nợ dài hạn và nợ khác tăng giảm không đáng kể nên làm cho nợ phải trả hàng năm tăng lên.Việc sử dụng vốn ngắn hạn ngân hàng dùng chủ yếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh,với một mức chi phí vay không nhỏ chắc chắn sẽ có tác động đến kết quả kinh doanh của công ty. Theo báo cáo giải trình của công ty ELMACO gửi bộ Thương mại năm 2001 thì vốn vay ngắn hạn bình quân là 83,49% trên tổng nguồn vốn, dẫn đến chi phí trả lãi vay vốn lớn bằng 6.776.199.327 VNĐ bằng 2,1% so với doanh thu thuần.Trong hoàn cảnh đó thì vốn chủ sở hữu mà thực tế là nguồn vốn và quỹ của doanh nghiệp thì lại tăng giảm không đều và không lớn. Rõ ràng, cơ cấu nguồn vốn như thế này chưa được coi là tối ưu, sẽ ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận và vấn đề phân phối. 2. Tài sản cố định và tài sản lưu động Xem xét tình hình nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn tại một thời điểm và sự biến động của nó trong một thời kỳ nhất định cho phép chúng ta đánh giá được quy mô và cơ cấu tài sản.Trong cơ cấu tài sản của ELMACO, tài sản lưu động luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn kinh doanh khoảng trên 70%, nó phản ánh chức năng kinh doanh chính là kinh doanh thương mại của công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí. Nhu cầu lớn về tài sản lưu động cũng chính là một lý do chính dẫn đến nhu cầu nguồn vay ngắn hạn cao mà ta đã đề cặp đến ở phần trước. Trong bảng về tình hình tăng giảm về vốn và nguồn vốn thấy rõ nhu cầu về tài sản lưu động qua các năm tăng lên là hoàn toàn phù hợp với mục đích của công ty theo xu hướng mở rộng quy mô hoạt động. Tuy nhiên cơ cấu của tài sản lưu động lại tỏ ra chưa hợp lý, lượng tiền mặt chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản, trong khi đó các khoản phải thu là hàng tồn kho chiếm một tỷ lệ lớn và có xu hướng tăng lên.Thực tế này dẫn đến khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty bị giảm sút, trong khi nguồn vốn vay ngắn hạn càng tăng. Song sở dĩ các khoản phải thu của khách hàng từ năm 2000 đến năm 2002 đều tăng là do đặc điểm hàng hoá tiêu thụ của công ty chủ yếu vào thầu các công trình xây dựng, cải tạo hệ thống điện, công trình xây lắp và các dự án, cho nên hàng hoá kinh doanh hoạt động của công ty thường sau khi hoàn tất giao hàng, cơ bản nghiệm thu mới được thanh toán tiền hàng (thể hiện trong hợp đồng kinh tế), đồng thời đa số các nhà máy, xí nghiệp là bạn hàng truyền thống của công ty, thường xuyên mua vật tư là nguyên liệu cho đầu vào của sản xuất thực hiện nhận hàng kỳ sau thanh toán tiền hàng kỳ trước tạo thành công nợ luân chuyển nên công nợ phải thu của công ty cao. Đặc điểm này cùng với việc quy mô hoạt động tăng trưởng không ngừng nên dễ hiểu vì sao các khoản phải thu tăng theo thời gian. Như nếu đem toàn bộ số công nợ phải thu tính trên đầu mỗi đơn vị (công ty có tổng cộng 26 đơn vị nằm tại các tỉnh và thành phố lớn) thì con số này không cao. Hơn nữa,hầu hết các khoản công nợ này đều được bảo đảm bằng tài sản và hợp đồng kinh tế, do đó không phải thuộc dạng nợ phải thu khó đòi hoặc không đòi được…Vì vậy, trên thực tế tài sản lưu động vẫn là yếu tố đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục. Đơn vị tính: VNĐ Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 So sánh Doanh thu thuần 244.996.859.000 323.710.266.000 Vốn lưu động bq 91.658,5 122.199,5 30.541,0 Vòng quay vốn lưu động 3,512 3,592 0.08 Số ngày một vòng quay vố lưu động 102,51 100,22 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Đối với ELMACO thì tài sản cố định chỉ là thứ yếu, nhưng nó đóng một vai trò quan trọng để thực hiện mục tiêu chiến lược”phát triển ELMACO thành một tập đoàn sản xuất-thương mại dịch vụ đa sở hữu”mà công ty đã triển khai từ vài năm nay. Năm 2000, là năm đánh dấu những nỗ lực của công ty quyết tâm khắc phục khó khăn để đưa doanh thu tăng trở lại. Năm này, giá trị tài sản cố định đã đạt được ở mức 15.031 triệu đồng, đến năm 2001 do phải thanh lý quá nhiều tài sản cố định đã cũ kỹ từ thời trước để lại nên giá trị tài sản cố định đã giảm xuống là 14.425 triệu đồng. Đến năm 2002, khi mà việc thay đổi cơ cấu từ kinh doanh thương mại thuần tuý sang sản xuất kinh doanh thương mại được nhấn mạnh lần nữa thì giá trị tài sản cố định đã tăng lên 16.319 triệu đồng. Được biết hiện nay công ty đang triển khai khá nhiều dự án thành lập các nhà máy sản xuất sắn, sản xuất thức ăn gia súc,…,nên chắc chắn cần đòi hỏi một lượng máy móc, trang thiết bị hiện đại nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra. 3 .Hoạt động xuất khẩu Mặc dù không phải là một doanh nghiệp chuyên thực hiện chức năng xuất nhập khẩu nhưng ELMACO được quyền xuất nhập khẩu bằng con đường trực tiếp và nhận xuất khẩu uỷ thác. Nhìn chung thị trường xuất khẩu chủ yếu nà thường xuyên của công ty là: Thái lan; Trung quốc và Hàn quốc. Năm 2002, sau khi đã ổn định thị trường nguyên liệu và mở rộng quy mô hoạt động, thị trường xuất khẩu của công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí đã xuất hiện một số tên mới như Myanmar; ấn độ; Bangladét,…Đây là những thị trường tiềm năng vẫn đang được công ty khai thác và có thể những năm tới vẫn là các bạn hàng có ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của công ty. So sánh năm 2001 và năm 2002,ta thấy rằng về mặt tổng giá trị xuất khẩu (tính =USD) thì năm 2001 lớn hơn năm 2002 một lượng là 55.996,95.Tuy nhiên xem kỹ số liệu nhận thấy một dấu hiệu khả quan là giá trị xuất khẩu trực tiếp là hoạt động chủ yếu của và thường xuyên của ELMACO trong khi xuất khẩu uỷ thác mang tính chất không ổn định và điều đó không phải là lợi thế của ELMACO. Năm 2002 cũng là năm ghi nhận sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí trong việc giữ vững, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Hiện tại, không những chỉ có các bạn hàng ở các nước Châu á lân cận, công ty đã thiết lập được thêm nhiều bạn hàng mới ở Châu âu, Nam mỹ,…trong khi thị trường xuất khẩu được mở rộng thì đồng thời cơ cấu các mặt hàng cũng gia tăng. Năm 2001 chỉ xuất khẩu trực tiếp được 2 mặt hàng chủ yếu là Cao su tự nhiên và Tùng hương thì đến năm 2002 có thêm các mặt hàng chủ yếu là Nhựa thông ,Quạt điện,…,tham gia vào các lô hàng xuất bán thu ngoại tệ cho công ty. Chính điều này đã đóng góp phần không nhỏ vào việc làm tăng doanh thu toàn công ty. Như vậy, với việc mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đồng thời mở rộng mối quan hệ làm ăn buôn bán với nứơc bạn, ELMACO đã hoàn toàn vững tin vào chính mình trên con đường cạnh tranh, đáp ứng và cung cấp hàng loạt những sản phẩm mang tính chất chọn lựa của những khách hàng khó tính nhất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc592.Doc
Tài liệu liên quan