Báo cáo Hoạt động kinh doanh của Công ty Vàng bạc đá quý thành phố Hà nội

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN THỨ NHẤT: Khái quát về công ty Vàng bạc đá quý Tp Hà nội 3

PHẦN THỨ HAI : Hoạt động kinh doanh của Công ty Vàng bạc đá quý Tp Hà nội qua từng thời kỳ 9

PHẦN THỨ BA : Một số định hướng chính cho những năm tới 14

KẾT LUẬN 18

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2380 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Hoạt động kinh doanh của Công ty Vàng bạc đá quý thành phố Hà nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỉ đạo và điều hành trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước -Hà nội. Cũng trong giai đoạn này, mọi hoạt động, mọi quyết định trong việc quản lý và kinh doanh Vàng bạc của Công ty đều phải tuân theo nghị định 38-CP của Hội đồng Chính phủ. Nhiệm vụ chủ yếu của Công ty trong thời kỳ này hầu như chỉ là quản lý vàng bạc theo mệnh lệnh của Ngân hàng Nhà nước Việt nam. - Giai đoạn 1987-1989 : Đây là thời kỳ mở rộng chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Với chỉ thị 40/NH-CT của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc mở rộng kinh doanh vàng bạc đá quý, Công ty đã tiến hành mở rộng quy mô kinh doanh, phát triển mạnh việc mua bán vàng ta nhằm đáp ứng nhu cầu mua vàng dự trữ của nhân dân trong thời kỳ này . Bởi lẽ, đây là thời kỳ nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng, tỉ lệ lạm phát cao, tiền mặt mất giá nghiêm trọng nên nhu cầu về dự trữ vàng được coi như là cứu cánh. Trong thời kỳ này, quy mô kinh doanh của Công ty đã phát triển lên 12 cửa hàng, 1 xưởng sản xuất, doanh số hoạt động tăng lên, lãi bình quân 110 triệu đồng/năm. - Giai đoạn 1990 - 1995: Đây được coi là giai đoạn kinh doanh khó khăn nhất của Công ty với nhiều biến động song đây cũng là thời kỳ hoạt động thành công nhất của Công ty cả về nhiệm vụ chính trị lẫn mục tiêu kinh doanh. Trong thời kỳ này, Công ty hoạt động trong điều kiện môi trường kinh doanh phức tạp, trong một điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết và định hướng của Nhà nước, lúc này Công ty đã mở rộng mặt hàng kinh doanh mới đó là kinh doanh đá quý. Do vậy, tên Công ty được đổi thành Công ty Vàng Bạc Đá quý Hà Nội. + 1990 - 1993 : Đây là giai đoạn mà sự biến động trong kinh doanh được Công ty tập trung khai thác chủ yếu là sự biến động lớn về giá vàng. Bên cạnh đó, Công ty phải hoạt động kinh doanh trên một thị trường đầy tiềm năng song mức độ cạnh tranh vô cùng gay gắt với hàng trăm cửa hàng vàng bạc tư nhân được Nhà nước cho phép hoạt động. Vừa phải kinh doanh theo cơ chế thị trường, vừa phải làm nhiệm vụ chính trị là góp phần thực hiện các chính sách tiền tệ của Nhà nước, bình ổn giá vàng, ổn định lưu thông tiền tệ song Công ty đã đạt được những thành tích đáng kể như đã dập tắt được cơn sốt vàng trong những năm 1992-1993. + Năm 1994, Cửa hàng Vàng Bạc Đá quý số I - 89 Đinh Tiên Hoàng đã được sáp nhập vào phòng kinh doanh của Công ty. Hệ thống các cửa hàng của Công ty đã được củng cố, nâng cấp và mở rộng lên thành 16 cửa hàng . + Năm 1995, Công ty quyết định thành lập Trung tâm Vàng Bạc Đá quý - Hà nội tại địa điểm 89 Đinh Tiên Hoàng trong nỗ lực nhằm đổi mới và làm năng động hơn cơ chế hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời, Công ty cũng quyết định giao vốn giao quyền tự chủ kinh doanh cho các cửa hàng nhằm tạo cho các cửa hàng một cung cách làm ăn mới, có thể khai thác triệt để hơn các thị trường khu vực. - Giai đoạn 1996 - đến nay: nền kinh tế có xu hướng chững lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Tiến độ đầu tư phát triển kinh tế trầm lắng và có những nguy cơ về rủi ro tiềm ẩn. Thu nhập dân cư vẫn tăng nhưng tốc độ tăng chậm hơn những năm trước (thu nhập bình quân đầu người 300USD/người). Sự vượt trội về công nghệ tiên tiến và hiện đại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư 100% của nước ngoài lấn sân. Vì vậy, phương pháp gia công chế tác thủ công truyền thống của ta chưa thể cạnh tranh nổi. Môi trường cạnh tranh thực sự trở nên gay gắt bởi Công ty phải đối đầu với cả hệ thống doanh nghiệp tư nhân đầy năng động. Tình hình kinh doanh của Công ty trở nên hết sức khó khăn. Từ năm 1997 đến nay, Nhà nước không cho phép nhập vàng, toàn bộ hoạt động kinh doanh VBĐQ phải tự vận động từ nguồn trong nước, Nhà nước đã dần kiểm soát được tình hình biến động của thị trường, lạm phát biến động ở mức thấp, giá vàng quốc tế liên tục giảm. Tình hình đó đã dẫn đến thực trạng một số các cửa hàng hoạt động kém hiệu quả thậm chí có nguy cơ lỗ và mất vốn. Công ty đã từng bước thu dần màng lưới nằm rải rác trên địa bàn Thủ đô , tập trung về một vài điểm để nâng cấp thành trung tâm VBĐQ và TMTH nhằm tập trung vốn và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cho đến nay, quy mô kinh doanh của Công ty giảm xuống còn hai cửa hàng, bốn trung tâm VBĐQ với 59 cán bộ công nhân viên thuộc biên chế. Vốn của công ty được cấp cho tới 15/12/1999 là hơn 7,6 tỷ đồng, ngoài ra còn có vốn tín dụng và vốn huy động kỳ phiếu bằng vàng (khoảng 24 tỷ đồng ). Lợi nhuận thuế trước vốn của Công ty là: 246 triệu đồng. II. Chức năng, nhiệm vụ và điều kiện kinh doanh của Công ty 2.1. Chức năng và nhệm vụ của Công ty Công ty VBĐQ Hà Nội , có chức năng như một đơn vị kinh doanh tổng hợp bao gồm cả kinh doanh thương mại, dịch vụ, xuất khẩu, sản xuất, gia công . . . Do đó, các chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty hiện nay là : - Tổ chức mua bán VBĐQ với mọi thành phần kinh tế. - Xuất nhập khẩu VBĐQ, tiến hành kinh doanh VBĐQ với các tổ chức nước ngoài. - Tiến hành các hoạt động dịch vụ như cầm đồ, gửi vàng két sắt, gia công sản xuất, sửa chữa và làm mới các trang sức bằng vàng bạc . . . - Kiểm định chất lượng vàng bạc, đá quý. - Đào tạo thợ kim hoàn. - Liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước về lĩnh vực VBĐQ theo đúng pháp luật hiện hành. Tuỳ theo yêu cầu của tình hình mà có thể thành lập các chi nhánh đại diện tại nước ngoài để xuất khẩu, nhập khẩu các loại đá quý đã chế tác và các loại trang sức vàng bạc. - Tiến hành các hoạt động can thiệp thị trường vàng khi cần theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước. - Thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, chấp hành tốt các chế độ, chính sách về quản lý kinh tế, tài sản của Nhà nước, sử dụng có hiệu quả các tài sản vật chất, nguồn vốn, đóng góp và làm tròn nghĩa vụ thuế với Nhà nước. - Hoàn thiện bộ máy tổ chức và cơ chế quản lý kinh doanh của Công ty. 2.2. Về mặt hàng vàng bạc đá quý Hiện nay, Công ty đang kinh doanh các mặt hàng bao gồm vàng, bạc, các loại đá quý trong đó vàng là mặt hàng mang lại doanh thu chủ yếu cho Công ty. Mặt hàng vàng của Công ty được mua bán dưới 2 dạng : Vàng nguyên liệu và vàng trang sức. Vàng nguyên liệu : gồm có vàng bìa , vàng lá, nhẫn tròn. - Vàng bìa là loại vàng nhập khẩu còn nguyên dạng tiêu chuẩn quốct tế với trọng lượng 1kg/bìa. - Vàng lá GOSICO được Công ty tung ra thị trường từ năm 1994 với trọng lượng là 37,5 gram/lá (1lượng ). - Vàng nhẫn tròn : Vẫn thường được nhân dân ta quen dùng vừa làm đồ trang sức vừa với mục đích dự trữ và tích luỹ của cải. Vàng trang sức : Gồm các loại nhẫn, lắc, kiềng cổ, dây chyền, hoa tai... được gia công chế tác từ các loại vàng từ 18 K đến 24 K, có gắn hoặc không có gắn đá quý. Hiện nay, Công ty đang kinh doanh chủ yếu là vàng 18K và vàng 24K. - Vàng 24K : Với nguồn hàng từ các xưởng gia công chế tác trong nước và xưởng sản xuất của Công ty nên nguồn hàng cũng như chủng loại mẫu mã đều rất đa dạng và phong phú. - Vàng 18K : Là vàng 24K có pha thêm 1 số kim loại quý nhằm làm tăng vẻ đẹp của mặt hàng. Loại vàng trang sức 18K này trong nước có thể sản xuất được song mẫu mã kém đa dạng, chất lượng không đồng đều, hiện nay nguồn hàng này vẫn phần lớn được sản xuất tại các xí nghiệp thuộc hệ thống Tổng Công ty hoặc các đơn vị sản xuất trong nước, ngoài ra còn có các hàng nữ trang cao cấp18K của nước ngoài như Italy, Nga , Pháp, Hàn Quốc, Thái Lan. . Các loại khác : - Bạc : Thực tế cho thấy doanh thu và lợi nhuận từ bạc mang lại rất nhỏ trong cơ cấu tổng doanh thu của Công ty nên đây được coi như mặt hàng bình dân và hàng bán kèm. - Đá quý và các loại ngọc: Hiện nay, nhu cầu mặt hàng này đã tăng lên đáng kể so với vài năm trước. Tuy nhiên, Công ty chỉ tiến hành kinh doanh đá quý và ngọc đã qua sơ chế, đã được chế tác hay kinh doanh cùng trang sức vàng nhằm đảm bảo mức lợi nhuận. 2.3. Vốn kinh doanh Tổng số vốn Công ty được cấp cùng với phần Công ty tự bổ sung và tính đến 15/12/1999 đạt gần 8 tỷ đồng, trong đó vốn lưu động hơn 7,2 tỷ chiếm 95%. Với số vốn trên, Công ty phải kiêm 2 nghĩa vụ : + Nộp thuế sử dụng vốn 0,5% + Trích bảo toàn vốn hàng tháng 1% bằng vàng (nếu giá vàng tăng lên) và bằng tiền (nếu giá vàng hạ). Nguồn vốn vay chiếm tỷ trọng khá cao 71% (hơn 23 tỷ đồng), đặc biệt là nguồn vốn huy động trong dân (gần 21 tỷ đồng). III. Tổ chức bộ máy quản lý và kinh doanh của Công ty Vàng bạc đá quý thành phố Hà nội 1.Cơ cấu tổ chức Giám đốc vừa là đại diện Nhà nước vừa đại diện cho CBCNV, quản lý Công ty theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc có quyền quyết định việc điều hành hoạt động của Công ty theo đúng chính sách pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của Đại hội CNVC, chịu trách nhiệm giữa Nhà nước và tập thể người lao động về kết quả kinh doanh của Công ty. Giám đốc có quyền tổ chức bộ máy quản lý của Công ty phù hợp với yêu cầu kinh doanh theo nguyên tắc gọn, nhẹ và hiêụ quả cao. Giúp việc cho giám đốc có các phó giám đốc, các trưởng phòng. Khi vắng mặt, giám đốc có thể uỷ quyền cho phó giám đốc thay mặt mình để điều hành công việc. Phòng hành chính tổ chức Tổ chức bộ máy đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ quản lý của Công ty nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu được giao. Quản lý nhân sự, vận dụng thực hiện các chế độ chính sách trong cơ quan. Xử lý, giải quyết công tác thanh tra, kiểm tra cho Công ty, tổng hợp thi đua khen thưởng. Phòng kinh doanh tổng hợp Nghiên cứu thị trường, dự đoán nhu cầu của thị trường một cách khoa học trên cơ sở đó để lập phương án kinh doanh có hiệu quả nhất. Khai thác nguồn hàng, nghiên cứu tạo nguồn hàng ngày càng phong phú đa dạng. Tìm kiếm khách hàng, ký kết các hợp đồng, tổ chức thực hiện tốt các hợp đồng. Quản lý và tổ chức các trung tâm, cửa hàng bán lẻ phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Phòng kế toán tài chính Xây dựng, theo dõi việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của Công ty, báo cáo với giám đốc việc thực hiện mọi hoạt động của Công ty bằng tiền thông qua việc thực hiện đúng, đầy đủ chế độ kế toán thống kê của Nhà nước ban hành. Thống kê, phân tích các chỉ tiêu chủ yếu làm cơ sở để vạch phương án đẩy mạnh hoạt động kinh doanh . Quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo thêm nguồn vốn, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh. Giám sát sử dụng vốn. Giám đốc Phó Giám đốc Phó Giám đốc Phòng hành chính tổ chức Phòng kinh doanh tổng hợp Phòng tài chính kế toán Trung tâm 1 Trung tâm 2 Trung tâm 4 Trung tâm 5 Cửa hàng 12 Cửa hàng 22 - Phần thứ hai - ****** hoạt động kinh doanh của Công ty Vàng bạc đá quý thành phố Hà nội qua từng thời kỳ ở những năm1988 - 1990, thời kỳ cả nước bước sang cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh của Công ty thời kỳ này còn hết sức chập chững, chưa làm chủ được thị trường do mới chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, với sức cạnh tranh của hàng trăm doanh nghiệp tư nhân với cơ chế linh hoạt, việc quản lý thị trường lỏng lẻo đã phần nào làm cho hoạt động kinh doanh của Công ty khó khăn, lúng túng. Bước sang năm 1991 nhất là với sự ra đời của hệ thống Tổng Công ty Vàng bạc đá quý Việt nam đã tạo ra những bước ngoặt lớn cả về chất và lượng trong hoạt động kinh doanh của Công ty, tạo được vị thế vững chắc cho Công ty trên thị trường. Trong giai đoạn này, Công ty thực hiện hai chức năng chính là can thiệp thị trường khi Nhà nước yêu cầu và tiến hành hoạt động kinh doanh VBĐQ. Chức năng can thiệp thị trường của Công ty trong giai đoạn này được đặt lên hàng đầu do giá cả tăng với tốc độ phi mã tạo ra các cơn sốt vàng làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt tại thị trường Hà nội. Do đó, nhiệm vụ của Công ty được Thành uỷ, UBNDTP, NHNNVN giao cho hết sức nặng nề - thực hiện chính sách ổn định và phát triển kinh tế Thủ đô. Cụ thể, Công ty đã trực tiếp can thiệp nhiều đợt sốt vàng, trong đó có 2 đợt sốt vàng lớn nhất là: Đợt 1 từ 10/91 đến 5/92: sở dĩ kéo dài 7 tháng là do lượng vàng can thiệp đưa ra thị trường chưa đủ, Công ty đã bán 12.933 lạng (485kg), bình quân một tháng bán ra 69kg trong khi nhu cầu thị trường cần từ 150kg đến 200kg/tháng. Đợt 2 đúng dịp xuân Quý dậu 1993, Công ty bán 15.010 lạng (563kg, bình quân 188kg/tháng). Qua hai đợt can thiệp cho thấy muốn đạt hiệu quả thì ngay từ những ngày đầu phải có sự kế hoạch chu đáo, số lượng đưa ra đủ mạnh để cắt “cơn sốt” giả tạo. Thực tế, trong đợt Tết Quý dậu có ngày Công ty bán ra từ 40 đến 50kg. Trong 10 ngày đầu chiến dịch, Công ty đã bán hơn 300kg, nhờ vậy đã cắt được cơn sốt thị trường. Trong những ngày này, toàn bộ CBCNV Công ty được huy động làm việc từ sáng đến tối cộng với sự hỗ trợ thu tiền của NHNN Tp Hà nội nên kết quả hết sức khả quan. Đây là đợt tập dượt lớn nhất trong kinh doanh, đối mặt thật sự với thị trường. Chính qua kinh nghiệm này, Công ty đã nắm bắt được điểm chủ yếu của thị trường vàng tư nhân tạo điều kiện cho hoà nhập và có vị thế trên thương trường. Đội ngũ CBCNVđã trưởng thành nhiều mặt cả về nhận thức cũng như thao tác nghiệp vụ cụ thể. Ngoài chức năng can thiệp, về mặt tổ chức kinh doanh, Công ty cũng đã có nhiều đổi mới: tăng cường xúc tiến tiếp thị, quảng cáo dưới nhiều hình thức, tham gia các kỳ hội chợ triển lãm, xây dựng cơ chế linh hoạt hơn, cải tiến quy trình mua bán hàng đơn giản thuận tiện nhằm phục vụ khách hàng cao nhất, thay đổi cơ cấu hàng hoá kinh doanh theo từng thời kỳ để thu lợi nhuận cao nhất (khi vàng ít lãi chuyển sang kinh doanh bạc năm 1992, 1993 bán gần 9 tấn). Mở rộng kinh doanh tổng hợp, dịch vụ cầm đồ và các dịch vụ thu tiền khác. Bảng kinh doanh tổng hợp Năm 1993 Đơn vị :triệu đồng Tiêu thức Kế hoạch Thực hiện I. Tổng doanh số mua: 59751 12970 Trong đó: - Vàng (kg) 460 949.8 - Bạc (kg) 4000 9120 II. Tổng doanh số bán: 61502 140129 Trong đó: - Vàng (kg) 460 1013 - Bạc (kg) 3000 8889 III. Kết quả kinh doanh: -57 Kết qủa kinh doanh năm 1995 đạt 270 triệu lãi ròng và năm 1996 đạt 517,4 triệu là một con số đầy khích lệ sau hai năm 93 - 94 kinh doanh không hiệu quả. Biểu kinh doanh tổng hợp Năm 1994 - 1996 Đơn vị :triệu đồng Chỉ tiêu 1994 1995 1996 I. Doanh số mua 107.683 105.324 145.237 Trong đó: - Vàng (kg) 768 751 1.046,44 - Bạc (kg) 1.423 II.Doanh số bán 104.134 105.864 150.751 Trong đó : - Vàng (kg) 783 751,2 1.040,06 - Bạc (kg) 1.322 III.Kết quả kinh doanh: - Tổng thu 108.503 7365 7280,4 - Tổng chi 108.503 7099 6762,8 - Lãi ròng 0 266 517,6 Giai đoạn từ 1996 đến nay, môi trường kinh doanh trong và ngoài nước không thuận lợi buộc Công ty phải tập trung triển khai các chương trình hành động mang tính nội lực cao như: Hướng về đổi mới tổ chức phù hợp với tình hình mới. Hướng về chiến lược kinh doanh táo bạo nhưng có tính toán. Tự thâm canh phát triển trên chính mảnh đất của mình. Với 3 chương trình đó, đến nay, Công ty đã thu được những kết quả đáng kể: 1.Về mặt tổ chức cán bộ Đã giải thể cửa hàng kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ tập trung về các đại điểm có điều kiện kinh doanh nâng cấp thành các Trung tâm lớn, có đủ sức mạnh về vốn để cạnh tranh với thương trường, đến thời điểm 31/6/98 toàn Công ty còn lại 4 Trung tâm và 3 cửa hàng. Đây là vấn đề then chốt và cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp đồng thời là yểu tố đảm bảo tức thì cho sự tồn tại và phát triển của Công ty. Bên cạnh việc điều chỉnh về tổ chức mạng lưới cửa hàng, Công ty thực hiện đồng bộ một loạt các biện pháp khác như: * Ký hợp đồng trách nhiệm với các cán bộ có liên quan trực tiếp đến tiền - hàng và quản lý tài sản vốn nhằm nâng cao trách nhiệm đối với tài sản đơn vị. * Tập trung đào tạo và đào tạo lại có trọng điểm đối với một số cán bộ chủ chốt, soạn thảo nội quy, quy chế, quy trình nghiệp vụ, hoàn thiện hồ sơ pháp lý về tổ chức và các nghiệp vụ cho các Trung tâm, cửa hàng; tổ chức tập huấn nghiệp vụ kế toán, kỹ thuật chế độ; tăng cường kiểm tra, kiểm soát... Tính đến ngày 30/6/98 Công ty đã có 21 ccán bộ đạt trình độ đại học, 19 cán bộ đạt trình độ trung cấp. Đã tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho hơn 90 lượt người. Bên cạnh công tác chuyên môn, Công ty đã chú trọng đến việc xây dựng và phát triển tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể: Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ... tạo nên khí thế mới, phát huy sức mạnh nội lực tập thể người lao động góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Công ty. Kết quả đã kết nạp được 10 Đảng viên, tổ chức phát thẻ ĐVCĐ cho 132 ĐVLĐ. 2.Về vốn Đây là vấn đề bức xúc nhất đối với doanh nghiệp, từ số vốn ít ỏi 383 triệu (1988) cho đến thời điểm chuyển sang hệ thống Tổng Công ty Vàng bạc đá quý Việt nam đã được cấp bổ sung VLĐ lên 4 tỷ 897 (1992), cho đến nay để có đủ vốn thực hiện các hoạt động kinh doanh có hiệu quả, Công ty đã bằng nhiều giải pháp: xin cấp bổ sung VLĐ, xin được huy động kỳ phiếu bằng vàng và vay các tổ chức tín dụng. Tính đến 15/12/99, nguồn vốn phục cho hoạt động kinh doanh của Công ty là 32.835.939 triệu đồng trong đó vốn cấp: 7.697.157 triệu đồng; vốn tự bổ sung: 130.792 triệu đồng; vốn vay: 23.254.187 triệu đồng; vốn khác: 576.675 triệu đồng. Chính từ nguồn vốn tạo lập được đã góp phần thực hiện các đề án phát triển hoạt động liên doanh liên kết, kinh doanh tổng hợp tạo thêm doanh lợi cho Công ty. Mục tiêu đặt ra cho năm 2000, Công ty cố gắng duy trì và tăng mức vốn lên trên 33 tỷ. 3.Về chiến lược kinh doanh Công ty đã nhanh chóng lập lại vị thế của mmột doanh nghiệp Nhà nước, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kinh doanh VBĐQ thông qua các Trung tâm lớn, Công ty còn chủ động phối hợp với Hội đồng vàng thế giới và tranh thủ sự tài trợ ủng hộ để mở các đợt hội chợ hàng nữ trang ngay tại Trung tâm 89 Đinh Tiên Hoàng vào các ngày lễ lớn như Quốc khánh 2/9, dịp lễ Noel, Tết tây... Đặc biệt là hội chợ tháng 12/97 đã quy tụ hơn 40 doanh nghiệp tham gia với trên 65 quầy hàng trong đó chủ yếu vẫn là của Công ty và các doanh nghiệp lớn trong 2 thị trường Hà nội - Tp Hồ Chí Minh. Việc tổ chức hội chợ là một thắng lợi về kinh tế và có ý nghĩa về chính trị xã hội rất lớn, tạo ra cho Công ty một sức mạnh tổng hợp và đã chiếm được vị thế của một doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Thủ đô, cũng như thị trường phía Bắc. Sau đợt hội chợ này, Công ty tiếp tục duy trì “Chợ nữ trang” thường xuyên tại 89 Đinh Tiên Hoàng, tạo ra một thị trường nữ trang sôi động ngay tại Trung tâm Thủ đô. Về dịch vụ cầm đồ, trong giai đoạn 1995 - 1996, do quản lý lỏng lẻo một số cửa hàng không chấp hành đúng quy trình nghiệp vụ nên đã xảy ra thất thoát, gây ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của đơn vị. Tuy nhiên, bước sang 1997 và nhất là năm 1998, Công ty đã kiên quyết chấn chỉnh, tăng cường kiểm tra, kiểm soát và bằng nhiều biện pháp đã đưa các cơ sở thực hiện theo đúng quy trình nghiệp vụ, bảo đảm an toàn vốn vay và tiếp tục gia tăng dư nợ để tạo thêm lợi đáng kể cho Công ty. Ngoài các hoạt động kinh doanh chính, Công ty còn mở rộng các hoạt động dịch vụ thu tiền như: đại lý ký gửi hàng hoá, sửa chữa gia công, kiểm định, cho thuê quầy... Đồng thời tăng cường các khả năng hợp tác kinh doanh đa ngành với các doanh nghiệp. Do viêc thu gom mạng lưới, đầu tư nâng cấp thành các Trung tâm, đồng thời tập trung khai thác tối đa các mặt bằng có vị trí kinh doanh thuận lợi như 89 Đinh Tiên Hoàng, 61 Hàng Ngang. Hình thành “Chợ nữ trang” tổ chức thường xuyên các kỳ hội chợ, triển lãm, cho thuê mặt bằng... bảng tổng kết kinh doanh tổng hợp năm 1999 Chỉ tiêu Thực hiện Khối lượng (kg ) Giá trị ( triệu đồng ) *Tổng doanh số mua 43.000 Trong đó : - Vàng 330 42.000 *Tổng doanh số bán 54.000 Trong đó : - Vàng 328 43.000 Doanh số cầm đồ 1.900 món 155.000 Số dư trong hạn 25.000 *Kết qủa kinh doanh - Tổng thu nhập 4.560 Thu nhập từ VBĐQ và TN 1.610 - Tổng chi phí 2.835,292 - Lãi ròng 28,996 - phần thứ ba - ***** một số định hướng chính cho những năm tới Năm 2000 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, năm bản lề bước sang thiên niên kỷ mới, năm kết thúc việc thực hiện chiến lược 10 năm 1991 - 2000 và kế hoach 5 năm 1996 - 2000 cũng là năm có nhiều ngày lễ kỷ niệm lớn của dân tộc. Bên cạnh những khó khăn yếu kém nêu trên chưa phải đã khắc phục được ngay, nhất là các hậu quả của thiên tai lũ lụt. Đối với các hoạt động của ngành VBĐQ, nhìn chung chưa có lối ra vững chắc, chiến lược phát triển chưa rõ ràng, cơ chế điều hành còn nhiều vấn đề bất cập, thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn, dân chủ và tập trung chưa cao, năng lực cán bộ nói chung yếu nên chưa tạo được sức bật toàn ngành. Những điều kiện thuận lợi tạo môi trường kinh doanh tốt hơn cho doanh nghiệp là hệ thống luật pháp kinh tế và các cơ chế chính sách từng bứơc đước đồng bộ hoá theo tinh thần đổi mới. Về phía ngành nếu mở rộng quyền tự chủ và chịu trách nhiệm chủ đạo điều hành thông thoáng kịp thời như tinh thần khuyến cáo của Chính phủ, gắn với kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hoạt động ở cơ sở trong mấy năm qua nhất là từ năm 1996 ddến nay, tin chắc rằng tình hình sẽ được cải thiện tốt hơn trên cả hai mặt kinh doanh và quản lý. I. mục tiêu Từ những khó khăn thuận lợi đó, mục tiêu tổng quát của chúng ta trong những năm tới là: 1. Nâng cao hơn nữa chất lượng và mức độ những thành tích đã phấn đấu đạt được trong năm 1999, tập tung khắc phục dứt điểm những tồn tại do các năm cũ để lại, hạn chế tối đa các rỉu ro phát sinh, tăng hiệu quả kinh doanh sau thuế vốn đối với các đơn vị cơ sở và tăng lãi trước thuế vốn toàn Công ty, đảm bảo thu nhập kể cả ba lợi ích đều tăng hơn trước, phấn đấu dần từng bước để có phúc lợi. Mục tiêu cụ thể: Tăng dần tỷ trọng kinh doanh VBĐQ phù hợp với tính chất ngành nghề trong đó mua vào phấn đấu tăng 23,8%, bán ra tăng 18,7%, nâng tồn kho chủ yếu là vàng lên khoảng từ 5 đến 7 tỷ nhằm chủ động nguồn hàng trong các trường hợp cần thiết. Duy trì dịch vụ cầm đồ với số dư khoảng tư 25 đến 27 tỷ, tăng 8% và mở rộng các hoạt động khác khá hơn trước. Giảm chi phí dịch vụ và chi phí khác từ 12 - 19% nhằm nâng cao thu nhập thuần tuý 4,2% trong đó thu nhập của người lao động tăng 8,5%và nghĩa vụ ngân sách tăng 4% so với năm 1999. II. Các giải pháp Để đạt được các mục tiêu nêu trên, giải pháp cần tập truung trong giai đoạn tới là: 1.Hoàn thiện cơ sở vật chất hạ tầng nhằm khai thác triệt để kinh doanh bao gồm xây dựng mới khu vực 6 Láng Hạ, chuyển một số cơ sở kinh doanh đang phải thuê ngoài, chuyển văn phòng Công ty và một số yêu cầu khác của Tổng Công ty với phát triển lâu dài và ổn định. Cải tạo 40 Bùi Thị Xuân và 89 Đinh Tiên Hoàng trở thành Trung tâm bán lẻ VBĐQ và TMTH lớn của ngành ở Hà nội và khu vực phía Bắc như ý tưởng đã có lâu nay. Đồng thời cũng cần nghiên cứu để sớm ra đời thêm một Trung tâm chuyên trưng bày giới thiệu và cung ứng sản phẩm của các cơ sở chuyên sản xuất, gia công, chế tác VBĐQ trong và ngoài hệ thống cho khu vực tiêu dùng phía bắc tại một trong ba điểm 516 Bạch Mai, 40 Bùi Thị Xuân hoặc số 6 Láng Hạ. 2.Về vốn: Qua phân tích cho thấy ngoài vốn cấp, vốn điều hoà của Tổng Công ty năm qua đã pháy huy tốt nhưng chưa đáp ứng được kịp thời đầy đủ. Vốn vay của các NHTM dễ sử dụng nhưng không có hiệu quả, không riêng gì Hà nội mà trên hầu hết các tỉnh phía Bắc. Do đó, giải pháp vốn vay bằng vàng và bằng tiền trong nội bộ và trong các tầng lớp dân cư cần sớm được tiếp tục triển khai theo tinh thần của Nghị quyết của Hội đồng Quản trị cũng như kế hoạch vốn cho năm 2000 của Công ty bao gồm: vốn cấp tăng thêm 2 tỷ, vốn điều hoà luôn luôn bảo đảm 2 tỷ thì vốn huy động tăng thêm khoảng 5 tỷ. Nếu tình hình diễn ra đúng với kế hoạch thì vốn huy động phải có khoảng trên 8 tỷ nữa mới có thể đạt được các mục tiêu nêu trên với thực trạng như hiện nay. 3.Về kinh doanh vẫn tiếp tục duy trì các giải pháp: - Liên kết kinh doanh với các thành phần kinh tế khác, nhằm khai thác triệt để mặt bằng, vốn hàng hoá, kinh nhiệm kinh doanh tại các điểm 89 Đinh Tiên Hoàng, 61 Hàng Ngang và 516 Bạch Mai v.v... đang được cải tạo nâng cấp thành những quần thể kinh doanh VBĐQ lớn của Thủ đô như ý tưởng đã nêu trên, vừa thu hút khách hàng vừa hướng dẫn họ đi dần vào quỹ đạo quản lý của Nhà nước. - Bổ sung các điều kiện theo quy chế để nâng cấp hai cửa hàng còn lại thành Trung tâm VBĐQ và TMTH như các Trung tâm hiện có nhằm phát huy thế mạnh cả về kinh doanh và quản lý đồng đều. - Nâng dần việc kinh doanh có tính chất hỗ trợ tại Văn phòng Công ty thành một phận kinh doanh có hạch toán về hiệu quả riêng biệt, vừa tạo thêm thu nhập, vừa có kinh nghiệm thực tiễn để chỉ đạo cơ sở, vừa rút ngắn khoảng cách giữa lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Đây cũng là những vấn đề nhạy cảm trong thực tiễn hiện nay không những đối với Công ty mà ngay cả với ba tổ chức của Tổng Công ty trên địa bàn Hà nội bao gồm Văn phòng điều hành, Công ty Hà nội và Công ty chế tác I cũng cần được thiết kế cho phù hợp với đặc trưng kinh doanh hơn. - Từ việc quản lý thu nhập, chi phí và tính hiệu quả từng quầy kinh doanh vàng bạc, tiến tới khảo sát chuẩn hoá các tiêu thức để áp dụng chế độ khoán doanh thu vàng bạc, mở rộng dần khoán sang các nội dung khác. Đây cũng là tiền đề để các Trung tâm cửa hàng tính lương cho từng người theo kết quả lao động (phần mềm). - Khuyến khích mở rộng các dịch vụ đi kèm và kinh doanh tổng hợp trong khuôn khổ của phá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35034.DOC