Báo cáo Mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường ở Việt Nam

Mục lục

LỜI CẢM ƠN. 2

TỪVIẾT TẮT. 3

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VÀ THÔNG TIN CƠSỞ. 8

A. Giới thiệu . 8

B. Thông tin cơsở. 9

1. Tiến trình đưa ra khái niệm vềmối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường . 9

2. Mối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường trong bối cảnh Việt Nam . 11

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP LUẬN. 13

A. Định nghĩa các khái niệm cơbản. 13

1. Môi trường. 13

2. Nghèo đói . 13

3. Chính sách: . 14

4. Mối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường (PEL): . 17

B. Quá trình và phương pháp nghiên cứu. 17

1. Quá trình nghiên cứu: . 17

2. Phương pháp . 17

CHƯƠNG 3: CÁC KẾT QUẢCHÍNH . 19

A. Các chính sách, chương trình và dựán quan trọng vè xoá đói giảm nghèo và môi

trường. 19

1. Chiến lược phát triển kinh tếxã hội giai đoạn 2001- 2010 (SEDS). 19

2. Các chính sách và chương trình phục vụxoá đói giảm nghèo . 20

a. Chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo toàn diện (CPRGS). 20

b. Các chương trình quốc gia vềxoá đói giảm nghèo. 21

c.Dựán xoá bỏtận gốc và thay thếcây thuốc phiện. 22

3. Các chính sách và chương trình vê môi trường. 22

a. Chương trình nghịsự21. 22

b. Chiến lược quốc gia vềbảo vệmôi trường đến năm 2010 và tầm nhìn đến

năm 2020. 23

4. Thảo luận vềmối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường (PELs) . 24

B. Vấn đềgiới và dân di cư được phản ánh trong các dựán, chương trình và chính

sách . 25

1. Vấn đềgiới và dân di cưthểhiện trong các chính sách . 25

2.Vấn đềgiới và di cưtrong các dựán và chương trình quốc gia. 25

3. Thảo luận . 26

C. Tài nguyên thiên nhiên và nghèo đói. 28

1. Lâm nghiệp . 29

a. Mối liên hệgiữa nghèo đói và lâm nghiệp trong chính sách. 29

(1). Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 . 29

(2). Luật bảo vệvà phát triển rừng . 30

(3). Các chính sách khác. 30

b. Các chương trình quốc gia vềmối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường. 31

(1). Chương trình bảo tồn rừng và lâm nghiệp . 31

(2). Các chương trình khác . 32

c. Mối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường thểhiện trong các dựán, chương

trình quốc gia. 32

d. Thảo luận vềcác vấn đềnổi cộm trong mối liên hệgiữa nghèo đói và môi

trường và lỗhổng trong lâm nghiệp. 34

(1). Các chính sách được xây dựng tốt nhưng thực thi kém. 34

Thiếu giáo dục cho người nghèo (đặc biệt vềcác chương trình, dựán). . 34

(2). Quy hoạch yếu . 35

(3). Quản lý rừng bền vững . 37

2. Quản lý đất . 38

a. Những thay đổi trong chính sách đất đai và những tác động của nó đến người

nghèo. 38

b. Giao đất - sựthoảhiệp giữa mục tiêu bảo vệmôi trường và xoá đói giảm

nghèo. 39

c. Quản lý dựa vào cộng đồng đểquản lý đất bền vững. 40

d. Thảo luận vềmối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường và lỗhổng trong công

tác quản lý đất. 41

3. Biển. 42

a. Chính sách biển. 42

(1). Luật thuỷsản. 43

(2). Chiến lược phát triển kinh tếbiển và ven biển đến năm 2020. 43

(3). Các chính sách quan trọng khác. 43

b. Các chương trình quốc gia vềbiển. 44

c. Các dựán biển. 45

(1). Dựán “Tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học biểnViệt Nam đến năm

2020” . 45

(2). Dựán “Sinh kếbền vững trong và quanh khu vực biển được bảo vệ” do tổ

chức tài trợvà Bộthuỷsản quản lý. . 45

(3). Dựán phát triển và bảo vệ đất ngập nước ven biển (2000-2005). 46

(4). Quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICZM) . 46

d. Thảo luận vềmối liên hệgiữa Nghèo đói và Môi trường. 46

4. Năng lượng tái tạo . 48

a. Năng lượng tái sinh – các chính sách liên quan. 48

b. Các chương trình năng lượng tái tạo. 49

c. Các dựán năng lượng tái tạo. 50

d. Thảo luận vềmối liên hệnghèo đói và môi trường. 52

D. Ô nhiễm, nước sạch, sức khoẻvà hệthống vệsinh. 53

1. Ô nhiễm và nghèo đói. 54

a. Vấn đềô nhiễm được thểhiện trong các chính sách. 54

b. Các dựán Đánh giá tác động môi trường (EIA). 55

c. Thảo luận vềmối liên hệgiữa nghèo đói và ô nhiễm. 55

2. Nước sạch, sức khoẻvà vệsinh môi trường. 57

a. Nước, sức khoẻvà vệsinh môi trường trong các chính sách. 57

b. Các chương trình quốc gia. 58

c. Các dựán. 58

d. Thảo luận vềmối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường. 59

CHƯƠNG 4. TỔNG HỢP VÀ KHUYẾN NGHỊ. 61

A. Lỗhổng kiến thức vềmối liên hệgiữa nghèo đói và môi trường (PEL). 61

B. Khuyến nghịnhững vấn đềcần nghiên cứu thêm. 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 67

PHỤLỤC . 74

pdf96 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2570 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng và nông lâm nghiệp bền vững (CBNRM). Việc thiết lập các làng sinh thái là một trong những hợp phần quan trọng của các dự án này để cải thiện điều kiện môi trường nhằm tăng năng lực sản xuất và cải thiện sinh kế người dân. Một số ví dụ về làng sinh thái được xây dựng bởi các dự án ở một số vùng sinh thái ở Việt nam được giới thiệu dưới đây. Các dự án đều nhằm mục tiêu là xoá đói giảm nghèo, đa dạng sinh học và phát triển bền vững ( Làng sinh thái ở vùng đồi núi • Làng sinh thái ở vùng đồi núi thuộc huyện Ba Vì, Hà Tây, nhằm giúp đồng bào thiểu số người Dao phục hồi lại cân bằng sinh thái để tăng đa dạng sinh học và xóa bỏ canh tác nương rẫy, là nguyên nhân dẫn đến phá rừng của vường quốc gia Ba Vì (dự án CCFD,1993– 1997). • Làng sinh thái ở vùng đồi núi huyện Ba Trại, tỉnh Hà Tây, nhằm giúp đồng bào thiểu số người Mường thay đổi từ độc canh che sang nông nghiệp sinh thái, với đa dạng hóa cây con để nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình, và phục hồi môi trường (dự án IUCN-Hà Lan, 1995 – 1998). 40 Làng sinh thái ở vùng cát • Từ năm 2001, từ thành quả của việc xây dựng sau làng sinh thái ở vùng sinh thái ven biển ở Vĩnh Hoa, Triệu Vân, Triệu Phong, Quảng Trị, UBND huyện Triệu Phong đã đầu tư them kinh phí để nhân kết quả đạt được ra diện rộng. Dự án nhằm giúp các hộ nông dân nghèo sống ở vùng cát đang bị xa mạc hoá do nắng và gió biển, bằng cách cải tạo môi trường nhằm tăng sản xuất lương thực và khí hậu (dự án của bộ khoa học và môi trường, 1993-1997). • Làng sinh thái ở vùng cat tỉnh Quảng Bình, nhằm giúp ngư dân ở đây xây dựng vườn gia đình để cải tạo cảnh quan và thức ăn hàng ngày (dự án Sida, 1996- 1998) Làng sinh thái ở vùng ngập nước • Dự án ở Nam Sách, tỉnh Hải Dương ở đồng bằng song Hồng (dự án CCFD, 1998-2000). • Dự án ở vùng xa mạc hoá và nhiễm măn ven biển ở huyện Tĩnh Gia, tinh Thanh Hoa (dự án CIDA, 1996-1999). Tại đầm phá Tam Giang của tỉnh Thừa Thiên Huế, một nghiên cứu CBNRM do IDRC Canada tài trợ đã được tiến hành trong vòng 10 năm. Tại đây tình trạng khai thác quá mưứ và suy thoái nguồn lợi thuỷ sản đã làm cho đời sống người dân trở nên khó khăn hơn. Ví dụ, việc mở rộng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản không theo quy hoạch tại đầm phá Tam Giang cùng với nhiều hình thức giao và sử dụng diện tích mặt nươớ và đất khác nhau nên đã làm giảm đáng kể diện tích mặt nước nói chung và dòng chảy, đe doạ và phá huỷ môi trường đầm phá Tam Giang. Các nhóm hộ nghèo không còn cơ hội tiếp cận diện tích mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản và tài nguyên thuỷ sản từ bao đời nay. Dự án nghiên cứu CBNRM tại đầm phá Tam Giang của tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy cải tiến công tác quản lý trong bối cảnh này cần phải hiểu được mối liên hệ giữa các hệ sinh thái và xã hội với việc cải thiện năng lực địa phương về phát triển hướng nghèo. Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng (CBNRM) được thực hiện ở nhiều địa phương và cho kết quả khả quan về các mặt như lập kế hoạch địa phương, xây dựng năng lực và phát triển đời sống người dân. d. Thảo luận về mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường và lỗ hổng trong công tác quản lý đất Theo con số thống kê, đã có nhiều chính sách mới được xây dựng gần đây có thể thúc đẩy quá trình xoá đói giảm nghèo thông qua giao đất lâm nghiệp. Để đưa người nông dân thoát nghèo thì bản thân hoạt động giao đất lâm nghiệp là chưa đủ. Cần thiết lập lại rừng và đồng thời tạo công ăn việc làm và đa dạng hoá cơ cấu kinh tế cho các vùng miền núi để tạo thu nhập cho người dân từ việc trồng rừng (Dao The Anh 1999:111). Vấn đề giao đất có thể có tác động lớn đến việc cải thiện sinh kế người dân nông thôn chỉ khi họ có cơ hội tiếp cận vốn vay tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật cho sản xuất nông lâm nghiệp vì bản thân họ không có năng lực tài chính hoặc thậm chí không có tiền (Vu Long et al 1996:19). Ngoài ra, cũng cần cải tiến các hoạt động khuyến khích người dân (như: thông qua hệ thống chia sẻ nguồn lợi) và thị trườn cho các mặt hàng lâm sản. Tran Duc Vien (1999: 169) đưa ra trường hợp là việc giao đất lâm nghiệp chỉ có thể có tác động tích cực tại các khu vực đã ổn định lương thực. Nếu vấn đề này là 41 đúng thì cần lồng ghép tốt hơn vấn đề giao đất lâm nghiệp với các chính sách xoá đói giảm nghèo khác. Hơn nữa, với chính sách đất đai và hoạt động giao đất như hiện này thì chuyện đất đai được giao một cách manh mún là khó tránh khỏi. Diện tích đất giao cho một hộ dân khác nhau giữa các địa phương. Bình quân mỗi hộ vùng cao được nhận khoảng từ 2 đến 7 ha đất nhưng chia ra làm từ 3 đến 8 mảnh nằm rải rác (Bùi Thế Dũng, 2003; Lê Trọng Cúc, 2003). Để giải quyết vấn đề này gần đây Chính phủ đã khuyến khích các hộ tự thoả thuận với nhau để đổi ruộng. Kết quả dự kiến là mỗi hộ sẽ ít mảnh hơn và diện tích từng mạnh rộng hơn. Làm thế nào để vấn đề này sẽ tác động đến người nghèo là một câu hỏi cần được trả lời. Cuối cùng là mối quan hệ hữu cơ giữa nghèo đói, chia đất manh mún và địa điểm hoặc mất tài nguyên rừng. Vấn đề này phần lớn phụ thuộc vào các cộng đồng dân cư vùng cao có tỷ lệ hộ nghèo lớn. Vấn đề này có chỉ ra rằng người nghèo thiếu nguồn tài nguyên thay thế để sinh kế (i) hay không và an ninh lương thực của họ (ii)? Quản lý dựa vào cộng đồng nghe có vẻ là cách phù hợp để quản lý đất bền vững. Vấn đề thể chế về việc làm thế nào để lôi kéo sự tham gia của nhiều bên, làm thế nào để trao quyền cho người nghèo trong quá trình hiệp thương ở các cấp vẫn còn là câu hỏi. Tuy nhiên, vấn đề này cần được nghiên cứu thêm. Bài học có được từ CBNRM tại đầm phá Tam Giang cần được xem xét để xác định các mô hình thực nghiệm phù hợp. Câu hỏi về việc cách quản lý dựa vào cộng đồng sẽ giúp gì cho công tác bảo vệ môi trường từ lâu vẫn chưa được lý giải thoả đáng. Điều này có thể lý giải nếu ta nhìn lại trước khi khi chưa có phương pháp giám sát môi trường phù hợp như đã đề cập trung phần 1.3.5. 3. Biển Vùng bờ biển Việt Nam đi qua một số khu sinh thái và địa lý khác nhau nên mức độ đa dạng sinh học rất phong phú. Do đó, nguồn lợi hải sản đã và sẽ rất quan trọng đối với sinh kế người dân ven biển Việt Nam, nó đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nguồn lợi thuỷ sản, tính đa dạng sinh học và môi trường biển hiện nay đang mất cân bằng, bị tác động hàng ngày do người dân thiếu kiến thức (Bộ Thuỷ sản 2006). Trong khi sản lượng đánh bắt thuỷ sản ven biển tối đa cho phép để đạt độ ổn định là khoảng 600.000 tấn nhưng thực tế con số này lớn hơn rất nhiều (Vietnam news 2005). Sản lượng đánh bắt thực tế cao hơn sản lượng đánh bắt cho phép đã diễn ra hơn 7 năm nay. Do đó, áp lực lên nguồn lợi thuỷ sản là quá cao và điều này đã được dẫn chứng bằng con số thống kê là sản lượng đánh bắt/mã lực giảm từ 0,6 tấn năm 1994 xuống còn dưới 0,4 tấn năm 2004. Duy trì môi trường biển và ven biển tốt là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững các ngành này. Bảo tồn biển và phát triển kinh tế biển là hai vấn đề phụ thuộc lẫn nhau đối với các khu vực ven biển. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với một số vấn đề về môi trường biển và ven biển, trước hết xuất phát từ hoạt động của con người. Những vấn đề này bao gồm cả huỷ hoại môi trường sống của các loài sinh vật biển, giảm sản lượng đánh bắt, mất đa dạng sinh học và ô nhiễm ven biển (Bộ Thuỷ sản và tổ chức 2005). a. Chính sách biển Các chính sách biển hiện nay tập trung vào phát triển kinh tế, phát triển bền vững, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý vùng bảo vệ biển, quản lý số lượng và chủng loại sinh vật biển, bảo tồn và quản lý đất ngập nước ven biển, kế hoạch đối phó với những vấn đề khẩn cấp liên quan đến tràn dầu và khung pháp lý cho các ngành… thuỷ sản, giao thông biển, phát triển khí và dầu. 42 Luật bảo vệ môi trường (xem chi tiết tại Phụ lục 1.5.) đã tạo ra môi trường thuận lợi để bảo vệ môi trường một , trong đó có bảo vệ môi trường biển. Hệ thống các tiêu chuẩn môi trường đã được công bố và đây được xem là cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm và nhiệm vụ của các bên tham gia bảo vệ môi trường. (1). Luật thuỷ sản Luật thuỷ sản ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 hướng dẫn chung và các quy định về khai thác và bảo vệ nguồn thuỷ sản (Xem phụ lục 1.3.). Luật thuỷ sản, cũng như các văn bản pháp quy khác dưới luật hiện đang được áp dụng, đã cho thấy chủ quyền và quyền tự chủ cũng như nghĩa vụ của Việt Nam, năng lực khai thác, khám phá, bảo tồn và quản lý nguồn sinh vật biển. Thực tế, hầu hết nội dung của Luật này liên quan đến môi trường. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường không được đề cập nhiều trong Luật. Bảo vệ môi trường liên quan đến thuỷ sản được đề cập khá chi tiết nhưng lại không nhắc đến mối liên hệ giữa thuỷ sản và nghèo đói, trong khi đó lại có một nhóm hộ nghèo sinh sống tại các khu vực ven biển và phụ thuộc vào hoạt động đánh bắt thuỷ sản. Luật này hướng dẫn chi tiết việc thực hiện ở các cấp. Luật có nêu lên vấn đề giáo dục và đào tạo kỹ thuật nghề thuỷ sản nhưng vấn đề giáo dục và đào tạo liên quan đến mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường lại chưa được đề cập. Hơn nữa, dường như có các số liệu thống kê được nêu trong Luật nhưng cũng không thấy liên hệ đến mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường vì đó chỉ là danh sách các loài đang có nguy cơ bị đe doạ và vấn đề kỹ thuật. (2). Chiến lược phát triển kinh tế biển và ven biển đến năm 2020 Mục tiêu chính của chiến lược này là: • Tăng trưởng kinh tế biển, cải thiện mối liên hệ xã hội với các vấn đề khác của biển • Thúc đẩy hoạt động điều phối giữa các bên trong công tác quản lý hoạt động biển • Bảo tồn các hệ thống sinh thái biển và ven biển quan trọng • Cải tiến khung quy định hiện nay để đưa phương pháp tiếp cận đa ngành vào • Xác định tính bền vững trong chiến lược phát triển; • Tiến hành xoá đói giảm nghèo cho các cộng đồng dân cư; • Liên kết phát triển kinh tế với an ninh quốc phòng và an toàn cũng như các lợi ích chung của quốc gia. Chiến lược sẽ tạo cơ sở để có các hoạt động can thiệp đến ngành đánh bắt hải sản như: cơ cấu lại hệ thống đăng ký tàu đánh cá, đưa vào một hệ thống giám sát tàu đánh cá, khoanh vùng các khu vực đánh bắt cá và chuẩn bị cho các kế hoạch quản lý hải sản ngoài khơi và đánh đánh bắt cá ven bờ (Vietnam News 2005). (3). Các chính sách quan trọng khác Việt Nam cũng đã chuẩn bị Chương trình nghị sự 21 riêng cho mình, tập trung vào các định hướng chiến lược để phát triển bền vững. Hiện tại, giai đoạn thực thi Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam đang trong giai đoạn thử nghiệm và được triển khai tại 6 tỉnh và 4 ngành ưu tiên, trong đó có ngành thuỷ sản. Ngoài ra, ban hành một số văn bản pháp quy để thực hiện các Luật nêu trên như: Kế hoạch quốc gia về môi 43 trường phát triển bền vững và Môi trường (2000), Kế hoạch hành động về đa dạng sinh học (1995), Chiến lược bảo vệ môi trường (2010). Nhìn chung, luật vẫn có kẽ hở vì luật vẫn thiên về hướng dẫn sử dụng và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Luật chưa xem xét đến mối liên hệ với nghèo đói. Nếu mối liên hệ này chưa được đề cập trong luật thì mục tiêu mà luật đưa ra có thể không được triển khai hiệu quả. b. Các chương trình quốc gia về biển Hệ thống quy hoạch các khu vực biển cần được bảo vệ (MPAs) của Việt Nam sẽ được xây dựng trong thời gian tới. Bên cạnh đó, vấn đề biển đang là ưu tiên cao của Chính phủ và đang nhận được nhiều hỗ trợ từ các nhà tài trợ (xem chi tiết Biểu 1). Bảng 1: Các chương trình quốc gia được liệt kê theo thời gian. Năm Tiến độ 1980- 1985 Kiến thức và hiểu biết về các khu vực biển cần được bảo vệ ở Việt Nam còn chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học biển thông qua các chương trình quốc gia về nghiên cứu khoa học biển 1986- 1990 Các nhà nghiên cứu khoa học biển đưa ra danh sách các điểm bảo tồn tại các khu vực có dải san hô ngầm. Năm 1992, cac khu vực biển cần được bảo vệ tại Côn Đảo và Cát Bà được nằm trong danh sách các khu vực tiêu biểu cần được bảo vệ của thế giới được nêu tại Hội nghị Caracas (Hội nghị bàn về bảo tồn các loài sống hoang dã thông qua Giáo dục) 1991- 2000 Kế hoạch quốc gia về phát triển bền vững và môi trường (NPESD) và kế hoạch hành động đa dạng sinh học (BAP) được Thủ tướng Chính phủ thông qua năm 1991 và 1995, trong đó có đưa ra các giải pháp nhằm thiết lập và quản lý MPA 1993- 1994 Hỗ trợ kỹ thuật Tổ chức WWF cùng với các nhà khoa học Việt Nam đến từ Viện hải dương học tại Hải Phòng và Nha Trang đã tiến hành khảo sát một số dải đá san hô ngầm để đánh giá sự đa dạng sinh học, sử dụng tài nguyên và tiềm năng bảo tồn. Các kết quả này được sử dụng để chuẩn bị hợp phần biển trong kế hoạch hành động về đa dạng sinh học - BAP 1997- 1998 Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã hỗ trợ Viện Hải dương học tại hải Phòng và Nha Trang để thực hiện dự án “Khảo sát khoa học để thiết lập MPA tại Việt Nam”. Thông qua việc đánh giá thông tin hiện có và tiến hành thêm các cuộc khảo sát, dự án đã cho thông tin chi tiết về đa dạng sinh học của mỗi điểm và tiềm năng thiết lập MPA 1998- 1999 Dưới sự chỉ đạo của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Viện Hải dương học Hải Phòng đã tiến hành dự án “Nghiên cứu lập kế hoạch hệ thống MPA của Việt Nam”. Trên cơ sở kết quả của dự án, năm 2000 Bộ đã trình 15 điểm MPA tiêu biểu và quy chế quản lý dự thảo lên Thủ tướng Chính phủ xem xét. Bộ Thuỷ sản được Chính phủ chỉ đạo chuẩn bị “Quy chế quản lý và quy hoạch hệ thống MPA cho Việt Nam đến năm 2010” theo Nghị định số 44 2000 111/CP-KG (02/2/2000). Bộ đã chuẩn bị Quy chế này và trình Thủ tướng phê duyệt tại Văn bản số 2863/TS-KHCN (29/9/2000) 2001 Bộ NN&PTNT cùng với Tổ chức Birdlife International xây dựng cuốn sách thống kê các khu vực cần được bảo về hiện nay và đề xuất các khu vực cần được bảo vệ trong thời gian tới của Việt Nam, gồm 15 điểm như đã nêu ở trên và thêm một số điểm khác tại các khu vực ven biển và hải đảo của Việt Nam. Nguồn: Bộ Thuỷ sản và tổ chức Danida 2005. Có thể thấy danh sách trước đây chỉ chú trọng đến vấn đề kỹ thuật và không quan tâm đến mối liên hệ giữa nghèo đói và môi trường. c. Các dự án biển Nhiều dự án đã được thiết lập trong 5 năm qua, do các nhà tài trợ và tổ chức phi chính phủ quốc tế phối hợp với các cơ quan Chính phủ thực hiện. Các dự án được đánh giá dưới đây là các dự án điển hình nhất vì nó giải quyết vấn đề liên quan đến nhiều bên khác nhau tham gia trong lĩnh vực phát triển bền vững. (1). Dự án “Tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học biểnViệt Nam đến năm 2020” Mục tiêu dự án • Quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học diện tích biển thuộc chủ quyền của Việt Nam • Thiết lập cơ sở khoa học và phát lý để tăng cường công tác quản lý nhà nước • Khai thác và sử dụng đa dạng sinh học hiệu quả • Đề xuất, thiết lập và hoàn tất các hệ thống luật và chính sách • Củng cố hệ thống tổ chức • Nâng cao kiến thức quản lý và khoa học cho cán bộ • Hỗ trợ trang thiết bị kỹ thuật để bảo tồn đa dạng sinh học Theo nội dung dự án, việc sử dụng và quản lý nguồn lợi biển vẫn còn rất phức tạp và không hợp lý và ảnh hưởng đến năng lực phát triển kinh tế biển. Cần tăng cường cải cách công tác quản lý, quy hoạch và phê chuẩn, xây dựng luật về đa dạng sinh học và đây là một phần của quá trình phát triển bền vững kinh tế biển. Bảo vệ, tái sinh và bảo tồn tài nguyên biển không chỉ đặc biệt quan trọng đối với giá trị kinh tế của các loài sinh vật biển mà còn liên quan đến văn hoá và khoa học. (2). Dự án “Sinh kế bền vững trong và quanh khu vực biển được bảo vệ” do tổ chức tài trợ và Bộ thuỷ sản quản lý. Mục tiêu dự án là bảo vệ và phục hồi các loài có giá trị và tính đa dạng sinh học của nó tại các khu vực biển và ven biển Việt Nam không xem xét đến vấn đề sinh kế của cộng động nghèo và dễ bị tổn thương. Dự án này cũng sẽ tiếp tục và mở rộng hỗ trợ của Đan Mạch để giúp Việt Nam tiếp tục xây dựng mạng lưới các khu vực biển cần được bảo vệ (hiện có 15 điểm). Công việc này dựa vào một hệ thống khung pháp lý mạnh ở cấp quốc gia và hệ thống quản lý hiệu quả ở cấp tỉnh và cơ sở, trong đó nhu cầu sinh kế bền vững của các cộng đồng dân cư sinh sống trong và quanh khu vực MPA cần được cân nhắc thận trọng và hỗ trợ đầy đủ (Bộ Thuỷ sản và tổ chức Danida 2005). Hai điểm MPA làm điểm tại Cù Lao Chàm 45 thuộc tỉnh Quảng Nam và Hòn Mun của tỉnh Khánh Hoà sẽ tiếp nhận được hỗ trợ và một trung tâm đào tạo MPA cấp quốc gia sẽ được thiết lập. Dần dần Trung tâm này cũng sẽ đóng vai trò tư vấn MPA cho các tỉnh khác có MPA thuộc mạng lưới quốc gia. Điều này sẽ tạo cơ hội nhận được hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế vào giai đoạn cuối dự án. Dự án này cũng sẽ xem xét đến nghèo đói và các vấn đề đan chéo như: sinh kế bền vững, công bằng giới và mối liên hệ môi trường. (3). Dự án phát triển và bảo vệ đất ngập nước ven biển (2000-2005) Dự án này do Ngân hàng thế giới và Dania tài trợ và Bộ NN&PTNT thực hiện nhằm phục hồi các diện tích rừng ngập mặn tại vùng hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long để bảo vệ ven biển và tăng chức năng chăm sóc thuỷ sản của rừng ngập mặn. Dự án đã khoanh vùng đường ven biển vào một khu gọi là Khu được bảo vệ nghiêm ngặt (FPZ). Tại khu vực này các hoạt động kinh tế hay sinh sống của con người bị cấm triệt để (ngoại trừ hoạt động thu thập các sản phẩm phụ) và một khu vực gọi là Vùng đệm nhằm hỗ trợ hoạt động bảo tồn, hoạt động kinh tế và sinh sống của con người. Dự án cũng tập trung vào việc di rời các hộ sống trong khu vực FPZ ra khu vực vùng đệm và đào tạo cho họ cũng như hỗ trợ kỹ thuật để họ có thể ổn định cuộc sống ở nơi ở mới và sinh kế ổn định, bền vững hơn. Các gia đình tái định cư và một số hộ khác sống trong vùng đệm đã ký hợp đồng bảo vệ rừng ngập mặn FPZ để có thu nhập và đây là một phâầ nỗ lực của Chính phủ để lôi kéo người dân tham gia vào bảo tồn rừng. Rừng ngập mặn cũng là nơi sinh sống quan trọng của nhiều loài tại một số điểm để hình thành nên mạng lưới MPA. (4). Quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICZM) Quản lý tổng hợp ven biển (ICM) là một biện pháp mới. Một biện pháp khác hiện đang được áp dụng tại Việt Nam do các nhà tài trợ quốc tế hỗ trợ (Bộ Thuỷ sản và tổ chức 2005). Các dự án đang triển khai hỗ trợ công tác quản lý tổng ven biển ở Việt Nam gồm: i. Dự án IMO/Bộ TN&MT về ICZM tại Thành phố Đà Nẵng (2001-2003 và có kế hoạch triển khai pha tiếp theo) ii. Dự án NOAA/IUCN/Bộ Thuỷ sản: Khung phát triển toàn diện quần đảo Đông Bắc vịnh Thái Lan: Xây dựng năg lực ICM tại các khu vực ven biển Quảng Ninh - Hải Phòng (2003-2006) iii. Dự án Hà Lan/Bộ TN&MT về ICM có tiến hành nghiên cứu điểm tại Nam ĐỊnh, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa Vũng Tàu (2001-2004). iv. Nghiên cứu quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng (CBNRM) do IDRC của Canada tài trợ được triển khai tại đầm phá Tam Giang của tỉnh Thừa Thiên Huế (1996-2006) cũng là ví dụ điển hình về việc làm thế nào để tiến hành lập kế hoạch có sự tham gia để tránh được tình trạng khai thác quá mức và suy thoái nguồn thuỷ, hải sản từ đó ảnh hưởng xấu đến sinh kế (xem chi tiết Phần II.3 ở trên). d. Thảo luận về mối liên hệ giữa Nghèo đói và Môi trường Có một mối liên hệ rõ ràng giữa thuỷ sản, biển và nghèo đói. Các cộng đồng sống quan khu vực MPA là các làng chài nhỏ và hầu hết họ sống dựa vào hoạt động đánh bắt cá. mặc dù có nhiều gia đình chài không thuộc diện nghèo nhất (theo tiêu chuẩn Việt Nam) nhưng họ lại rất dễ bị tổn thương vì họ sống dựa vào nguồn tài nguyên 46 biển đang cạn kiệt và thứ hai là đặc thù công việc của họ khác so với người sống trong đất liền hay đô thị. Ngoài ra, khi giá cá nhìn chung tăng do cung giảm thì xu thế này không thể kéo dài thêm (Bộ Thuỷ sản và tổ chức Danida 2005). Mặc dù các hộ dân chài nghèo thường nói rằng thu nhập của họ đã được cải thiện trong 5 năm qua nhưng họ phải đối mặt với nguy cơ rơi vào cảnh nghèo. Do đó, sinh kế bền vững trong và quanh MPA và các hệ thống sinh thái đảo nhỏ có mối liên hệ mật thiết với quản lý bền vững nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là ngành thuỷ sản. Đã từng tranh luận rằng phát triển bền vững công nghiệp đánh bắt cá phải dựa vào việc bảo vệ loài sinh vật biển và ven biển để hệ thống sinh thái này có khả năng tạo ra sản phẩm một cách bền vững. Có một số ý kiến lại cho rằng, trên phương diện các sinh vật có nguy cơ, thì cần phải bảo vệ các quần thể sinh vật sống xa bờ. Hơn nữa, để đảm bảo rằng các cá thể chưa trưởng thành có khả năng đáp ứng đủ và duy trì số lượng trong khu vực bảo tồn thì các khu vực được bảo vệ phải đủ lớn và được thông với nhau. Tuy nhiên, khó thực hiện được điều này vì hạn chế về mặt kinh tế khiến khó có thể tạo ra được các khu bảo tồn có quy mô lớn và tránh được xâm hại của dân chài và các đối tượng khác. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu sinh kế của cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng, hầu hết là người nghèo, đạt được. Cần lưu ý rằng các chính sách biển hiện nay tập trung chủ yếu vào phát triển kinh tế và anh ninh quốc gia chứ không đề cập đến mối liên hệ giữa phát triển, bảo vệ và bảo tồn tài nguyên. (Nguyễn Chu Hồi và Hoàng Nộc Giao 2005). Các phương án khác nhau được đưa ra có thể giúp giảm tác động do nguyên nhân không có thu nhập mà không cần thoả hiệp giữa lợi ích bảo tồn và thuỷ sản là rất quan trọng để đạt đợc mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, các phương án này chưa được nghiên cứu và thảo luận chi tiết. Một mối quan tâm khác là sự lớn mạnh của ngành đóng tàu thương mại và du lịch có thể là mối đe doạ đối với tài nguyên biển bền vững. Tác động cơ học từ hoạt động đóng tàu cộng với ô nhiễm biển do chất thải của tàu có thể không nhìn thấy được tại thời điểm hiện nay nhưng Việt Nam hiện không có trang thiết bị thu gom chất thải từ hoạt động cảng biển. Tình trạng thải rác và nước thải ra biển là phổ biến (Bộ Thuỷ sản và tổ chức 2005). Toàn bộ nước thải từ hoạt động của nhân dân đều được đổ ra biển không qua xử lý và rác đang là vấn đề nhức nhối. Ví dụ: gần bãi biển thị trấn Hòn Biển, khu đảo chính của Cù Lao Chàm MPA đã xuất hiện chất thải từ nhựa (Bộ Thuỷ sản và tổ chức Danida 2005). Vấn đề giới cũng có thể được xem là lý do dẫn đến đói nghèo và ngược lại. Khi các hộ nghèo phải bỏ thêm chi phí gửi con đến trường bằng thuyền hoặc hỗ trợ bọn trẻ học thêm hoặc đưa người nhà vào đất liền khám bệnh thì bé gái và phụ nữ ít hơn bé trai và nam giới (Bộ Thuỷ sản và tổ chức Danida 2005). Đặc biệt phụ nữ trẻ rất khó có cơ hội học cao và tìm được việc làm tốt nếu vấn đề này còn liên quan đến chi phí đi vào đất liền (chi phí cao cộng với các yếu tố xã hội khác tác động gián tiếp đến họ). Hậu quả là, nhiều phụ nữ trẻ ở nhà phụ giúp gia đình công việc nhà như: đan lưới, chế biến cá, cho gia súc, gia cầm ăn. Triển vọng lâu dài của họ để có được một việc làm vẫn còn rất mờ mịt. Có thể nhận thấy một điều là các chính sách biển và thuỷ sản không có tính bao quát vì nó chưa đáp ứng được các yêu cầu trên đây. Nguyễn Chu Hội và Hoàng Ngọc Giao (2005) cho rằng Pháp luật về hoạt động biển còn mang mún, mới chỉ dựa vào ngành và chưa thể hiện cam kết quốc tế của Việt Nam về phát triển bền vững biển. Chúng chưa tạo ra được một chính sách biển tổng hợp và toàn diện trên cơ sở khoa học và đáp ứng các nguyên tắc phát triển bền vững. 47 Hạn chế của luật là thiếu điều phối trên phạm vi quốc gia, tỉnh và cộng đồng. Những hạn chế này đã càng cho thấy cần phải quản lý biển và ven biển hiệu quả, mang tính tổng hợp và được điều phối từ trung ương. Công tác quy hoạch và xây dựng chính sách thường được tiến hành từ trên xuống mà không có sự tham gia của các bên (Nguyễn Chu Hồi và Hoàng Ngọc Giao 2005). Ngoài ra, nó không đánh giá đủ tác động về mặt xã hội. Việc thiếu kinh nghiệm và chuyên môn về phân tích và xây dựng chính sách đã nảy sinh nhiều vấn đề trong vấn đề xây dựng năng lực và cập nhật thông tin. Hiểu biết về chính sách biển tổng hợp trên góc độ chính trị và xã hội còn hạn chế. Nhận thức của Chính phủ và người dân về phát triển bền vững biển và ven biển cũng là một vấn đề. 4. Năng lượng tái tạo Năng lượng có mối liên hệ mật thiết với xoá đói giảm nghèo thông qua việc tạo thu nhập cho hộ gia đình, sức khỏe, giáo dục, giới và môi trường. Năng lượng tái tạo là một trong những vấn đề mới gần đây được Chính phủ Việt Nam quan tâm. Đã có nhiều hội thảo bàn về mối liên hệ giữa xoá đói giảm nghèo và môi trường liên quan đến năng lượng tái tạo. Vì thế Chương này sẽ tìm hiểu về tình hình hiện nay của ngành năng lượng tái tạo, đánh giá các chính sách, chương trình, dự án liên quan để đánh giá mối liên hệ giữa năng lượng tái sinh và mối quan hệ giữa nghèo đói và môi trường (nếu có thể). Hy vọng rằng, các cuộc thảo luận trong phần này sẽ cho thấy mặt hạn chế của khung pháp lý và hoạt động hiện nay, ngh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoingheovamoitruong.pdf