Báo cáo thực tập tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội

MỤC LỤC

Phần 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP 2

1. Tổng quan về công ty 2

1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. 2

1.2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty TNHH NN một thành viên Thực phẩm Hà Nội. 3

1.2.1. Các chức năng, nhiệm vụ theo giấy phép kinh doanh. 3

1.2.2. Lĩnh vực kinh doanh 4

1.3. Cơ cấu tổ chức của Công ty. 5

1.3.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức 6

1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của các bộ phận quản lý. 6

1.4. Năng lực của công ty 8

2. Khái quát về phòng kinh tế đối ngoại 9

3. Điều kiện kinh doanh cơ bản 11

3.1. Môi trường kinh tế vĩ mô 11

3.1.1. Môi trường kinh tế 11

3.1.2. Môi trường nhân khẩu 12

3.1.3. Môi trường chính trị, pháp luật 13

3.2. Sơ bộ về cạnh tranh 14

Phần 2: PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA CÔNG TY VÀ CỦA PHÒNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 15

1.Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty 15

2. Những hoạt động marketing 16

2.1 Hoạt động marketing của công ty 16

2.2 Hoạt động marketing của phòng kinh tế - đối ngoại 18

Phần 3: CHÍNH SÁCH MARKETING MIX CỦA PHÒNG 21

1. Sản phẩm 21

2. Phân phối 23

3. Giá 24

4. Xúc tiến hỗn hợp 25

Phần 4: ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ TÀI TỐT NGHIỆP 26

1. Đánh giá chung 26

2. Định hướng đề tài tốt nghiệp 26

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1955 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo thực tập tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch, chương trình đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ định kì cho nhân viên của phòng. Phòng KCS: kiểm tra chất lượng hàng hóa, vật tư đầu vào, đầu ra. Thí nghiệm nhanh để đánh giá chất lượng sản phẩm. Nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới phù hợp nhu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty cũng như thị hiếu người tiêu dùng. 1.4. Năng lực của công ty Công ty có hệ thống cơ sở vật chất- các cửa hàng có địa điểm đẹp, trải rộng trên địa bàn Hà nội, tuy nhiên thì các vị trí này hầu hết là cho thuê, chứng tỏ DN đã không tận dụng hết nguồn lực của mình. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của một số đơn vị còn nghèo nàn, lạc hậu, chưa có sự đầu tư sửa chữa, trang bị lại một số thiết bị; biển hiệu cửa hàng của công ty chưa có, còn treo biển của các hãng khác do công ty tài trợ. Công ty cũng có hệ thống đại lí, bán lẻ rộng, với mối quan hệ lâu dài, bền chặt. Nguồn vốn, là DNNN, Công ty thực phẩm Hà nội được sự trợ giúp của Nhà nước và có ưu thế hơn hẳn các công ty tư nhân về việc vay vốn từ ngân hàng. Về nguồn nhân lực, Công ty đang trẻ hóa nhân viên của mình. Đội ngũ này ngày càng đông đảo và chiếm tỉ lệ lớn trong cơ cấu lao động của công ty. Họ chính là những người tạo ra sức sống mới cho công ty. Bảng trình độ học vấn của lao động trong công ty: Bảng trên cho biết số lượng lao động có trình độ tăng lên cho thấy công ty đã có sự chú trọng đến việc tiếp nhận và đào tạo lao động, nâng cao trình độ. Điều này giúp công ty có được đội ngũ kế thừa đủ năng lực cũng như cho thấy tỷ trọng lao động phổ thông giảm xuống, từng bước hiện đại hóa công ty. 2. Khái quát về phòng kinh tế đối ngoại Phòng kinh tế đối ngoại được thành lập từ 7 năm trước, chuyên trách về mảng xuất nhập khẩu. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng kinh tế đối ngoại là xuất nhập khẩu các mặt hàng phục vụ cho hoạt động sản xuất của công ty. Ngoài ra, Phòng còn có một chức năng khác là hoạt động như một công ty con trực thuộc sự quản lý của công ty Thực phẩm Hà nội. Với vai trò như vậy thì Phòng hiện sở hữu 4 địa điểm để thực hiện công việc kinh doanh. Đó là: 46, 52, 61 Lương Ngọc Quyến và 153 Giảng Võ. Lĩnh vực kinh doanh của Phòng gồm có: Kinh doanh các mặt hàng thực phẩm: bánh kẹo, rượu, bia, thực phẩm đóng hộp, thực phẩm khô, thực phẩm tươi sống, đồ uống, nước hoa quả cô đặc… Làm đại lý cho các công ty khác như là làm đại lý cấp một cho Công ty dầu thực vật Cái Lân, đại lý cho công ty chè Kim Anh. Làm trung gian thương mại, thực hiện việc xuất nhập khẩu các mặt hàng tư liệu sản xuất như dây đồng, inox, máy bơm gia dụng, ống nước theo yêu cầu của khách hàng. Cơ cấu tổ chức của Phòng: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Phòng: TRƯỞNG PHÒNG BỘ PHẬN KẾ TOÁN BỘ PHẬN BÁN HÀNG BỘ PHẬN KINH DOANH Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của các bộ phận: Trưởng phòng: là người đứng đầu Phòng, do công ty bổ nhiệm, chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên; là người quản lý, điều hành hoạt động của Phòng. Trưởng phòng cũng là người thiết lập các mối làm ăn lớn của Phòng, quyết định phát triển sản phẩm mới, loại bỏ những sản phẩm không mang lại lợi nhuận hay có mức sinh lời thấp. Bộ phận kế toán: giải quyết toàn bộ các vấn đề hạch toán tài chính và thực hiện quyết toán hàng năm. Bộ phận bán hàng: phụ trách việc bán hàng ở 2 địa điểm: 61 Lương Ngọc Quyến và 153 Giảng Võ. Ngoài ra, bộ phận này còn chuyên trách việc vận chuyển hàng, giao hàng cho khách. Bộ phận kinh doanh: tìm kiếm, thiết lập kênh phân phối cho sản phẩm của Phòng; thực hiện các hoạt động marketing, xây dựng thương hiệu cho Phòng; thực hiện kí kết các đơn hàng; theo dõi, kiểm soát việc tiêu thụ các sản phẩm của Phòng, đề ra các phương án, nêu kiến nghị với Trưởng phòng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Phòng: Phòng có 4 địa điểm, trong đó đã cho thuê 2 địa điểm (46 Lương Ngọc Quyến cho khách sạn Á Đông thuê và 52 Lương Ngọc Quyến cho Sinh café thuê), như vậy là chỉ còn 2 địa điểm kinh doanh là 61 Lương Ngọc Quyến – vừa kinh doanh hàng tạp hóa, vừa là trụ sở của Phòng - và 153 Giảng Võ kinh doanh cửa hàng ăn QFoods. Hạ tầng của cửa hàng tạp hóa đã cũ vì nó vốn là một ngôi nhà có từ thời bao cấp, nhiều chỗ nay bị tróc sơn, nhưng Phòng không quan tâm lắm tới việc trang trí nơi này vì cho rằng nó không thực sự cần thiết do đóng góp của cửa hàng tạp phẩm vào doanh thu của Phòng không nhiều. Diện tích của cửa hàng QFoods sau khi trừ đi diện tích bếp và công trình phụ thì còn khá nhỏ (42 m2), chỉ để được tối đa 13 bàn đơn, trưng bày chưa có gì đáng kể. Về trang thiết bị: văn phòng được trang bị 4 máy tính, trong đó 2 cái có màn hình tinh thể lỏng; ở cửa hàng QFoods có điều hòa, dàn lạnh để bảo quản sữa, nước hoa quả, có tủ đá để trữ thịt đông lạnh. Phòng cũng trang bị những dụng cụ để tự đóng gói một số sản phẩm như đùi gà Mỹ, mộc nhĩ không chân… Do nguồn lực hạn chế, Phòng không lập kho hàng riêng mà đi thuê để có thể tiết kiệm chi phí. Về nguồn nhân lực: đội ngũ nhân viên của Phòng khá trẻ (2/3 dưới 30 tuổi) năng động và tham vọng. Về chế độ lương, thưởng, làm việc thì Phòng tuân theo qui định của công ty. Kết quả kinh doanh của Phòng: hàng năm tỉ trọng doanh thu của Phòng chiếm một phần lớn trong tổng doanh thu của công ty. Số liệu năm 2006 thì tôi không thể xin được (vì bí mật kinh doanh), còn các năm trước, Phòng hạch toán chung với công ty. Năm 2006 là năm đầu Phòng thực hiện hạch toán riêng và đã có lãi: 20 triệu. Con số này tuy nhỏ, nhưng xét trong hoàn cảnh đa số các đơn vị nhà nước sau khi tách rời khỏi sự trợ giúp của Nhà nước và phải tiến hành hạch toán độc lập đã bị thua lỗ thì đây là một kết quả khá khả quan. 3. Điều kiện kinh doanh cơ bản 3.1. Môi trường kinh tế vĩ mô 3.1.1. Môi trường kinh tế Tỉ lệ tăng trưởng kinh tế của nước ta vào khoảng 8%/năm, thuộc loại cao trong khu vực và trên thế giới, trong đó thì sự đóng góp của ngành dịch vụ đứng thứ hai, sau công nghiệp và xây dựng. Tỉ lệ tăng trưởng kinh tế cao dẫn tới thu nhập của người dân tăng lên, thị trường của công ty cũng được mở rộng. Tỉ lệ tăng trưởng kinh tế cao cũng hứa hẹn tỉ lệ tăng trưởng của Phòng sẽ cao. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng có lợi cho hoạt động kinh doanh của Phòng: tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52%; khu vực dịch vụ tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02% xuống còn 20,40% (số liệu 2006). Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 580,7  nghìn tỷ đồng (tính theo giá thực tế) tăng 20,9% so với năm 2005 và tăng trên 13%, nếu loại trừ yếu tố giá, đây là mức tăng tương đối cao so với mức tăng trưởng, chứng tỏ sức mua tăng và tiêu dùng của dân cư tăng lên. Việt nam gia nhập WTO là một thách thức với Phòng. Thị trường tiêu dùng Việt Nam với hơn 83 triệu dân, dân số trẻ chiếm tỉ lệ cao được giới đầu tư thế giới nhận định là “miếng bánh rưới mỡ” cho các tập đoàn đa quốc gia, trong đó có những tập đoàn kinh doanh thực phẩm. Trong những năm tới, nếu công ty không có thay đổi gì lớn về định hướng hoạt động của Phòng, hay Phòng cũng không tự đổi mới bản thân, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của mình thì e là khó có thể cạnh tranh được với những đại gia này. 3.1.2. Môi trường nhân khẩu Quy mô dân số cả nước năm 2006 ước tính 84,11 triệu người, tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 1,4%/năm, hứa hẹn thị trường của Phòng sẽ không ngừng tăng. Thu nhập người dân cũng tăng lên kéo theo mức sống của họ cũng tăng lên đáng kể và ngân sách dành cho tiêu dùng cũng lớn hơn. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có tỉ lệ chi tiêu trên GDP lớn nhất trong khu vực, chiếm tới trên 70% mà trong đó, chi tiêu cho đời sống chiếm tỉ lệ khá cao; ở đồng bằng sông Hồng, trong đó có Hà nội, người dân chi cho đời sống hơn 80% tổng chi tiêu của họ, trong đó chi cho ăn uống chiếm hơn 50% tổng chi. Đây là một dấu hiệu đáng mừng đối với các đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực này, mà Phòng là một trong số đó. Thu nhập tăng cũng dẫn tới nhu cầu con người tăng cao, thị trường bị phân khúc, người tiêu dùng sành điệu hơn. Đây là một thách thức với Phòng vì nếu không làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn, phù hợp với nhu cầu của khách hàng hơn thì sẽ rất dễ để mất thị trường vào tay đối thủ cạnh tranh. Theo kết quả nghiên cứu của AC Nielsen, Việt Nam còn là thị trường sơ khai của fastfood khi mới có khoảng 8% người tiêu dùng dùng thức ăn nhanh từ 1-3 lần/tháng. Con số này quá ít so với các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, Ấn Độ… có hơn 70% người tiêu dùng ăn thức ăn nhanh ít nhất 1 lần/tháng. Và số lượng khoảng 90% người tiêu dùng Việt Nam chưa quen với thức ăn nhanh sẽ là cơ hội để các nhà kinh doanh khai thác. Hiện tại đã có khá nhiều các quán cơm văn phòng, pizza, mỳ Ý, bánh ngọt nổi lên nhưng không mấy tiếng tăm. Do đó cơ hội cho QFoods phát triển thành một thương hiệu đồ ăn nhanh của Việt nam sánh ngang với các thương hiệu nổi tiếng như KFC, Loterria đang mở rộng như chưa từng có. 3.1.3. Môi trường chính trị, pháp luật Môi trường chính trị ổn định. Từ trước đến nay, Việt nam vẫn được thế giới đánh giá rất cao về khía cạnh này. Đây là một điều đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước trong đó có công ty Thực phẩm Hà nội, và đặc biệt Phòng kinh tế đối ngoại an tâm phát triển. Về hệ thống luật pháp hiện nay thì không có mấy khó khăn từ những qui định, ràng buộc của các bộ luật hiện hành với hoạt động của Phòng trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm, mà trái lại, các qui định này còn góp phần đảm bảo cho Phòng làm ăn thuận lợi hơn. Đồng thời với việc Việt nam chính thức gia nhập WTO, Chính Phủ đã ban hành các bộ luật với định hướng sâu rộng hơn, có lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, để bảo vệ danh tiếng cho doanh nghiệp trong nước cũng như quyền lợi của người tiêu dùng. Ví dụ như để đáp ứng yêu cầu cần phải chỉnh sửa bổ sung các quy định về nhãn hàng hoá, đáp ứng đòi hỏi mới của quá trình hội nhập, vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/9/2006 về nhãn hàng hoá thay thế cho Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ về ghi nhãn hàng hoá lưu thông trong nước và hàng hoá xuất, nhập khẩu; Quyết định số 95/2000/QĐ-TTg ngày 15/8/2000 về việc điều chỉnh bổ sung một số quy định trong Quyết định 178/1999/QĐ-TTg và hơn 20 văn bản hướng dẫn của các ngành. Trong đó, Nghị định 89/2006/NĐ-CP là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, thống nhất quy định nội dung, cách ghi và quản lý Nhà nước về nhãn đối với hàng hoá lưu thông trong nước và đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Nó mang lại cho các doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh nói chung sự chủ động, linh hoạt trong việc quảng cáo, tiếp thị hàng hoá, cũng như cách sắp đặt vị trí, màu sắc của chữ, ngôn ngữ trình bày..., và đề cao tinh thần Việt nam thông qua việc chữ tiếng nước ngoài ghi trên nhãn mác phải nhỏ gấp đôi chữ bằng tiếng Việt. 3.2. Sơ bộ về cạnh tranh Theo thống kê, ngành hàng thực phẩm là ngành hàng phổ biến nhất trên thị trường, do vậy, số lượng đối thủ của Phòng là rất lớn: Chưa kể đến các doanh nghiệp, đơn vị bên ngoài, với cách thức tổ chức của công ty Thực phẩm Hà nội, chia tách các phòng của mình thành các đơn vị kinh doanh riêng, thì ngay lập tức, công ty cũng đã tạo ra các đối thủ cạnh tranh cho mỗi phòng, đó chính là các phòng còn lại. Tuy mỗi phòng đều không công nhận điều này, nhưng thực tế, các phòng đều phải cạnh tranh với nhau về doanh số bán hàng ( đây là một điều tốt vì nó sẽ tăng thu cho công ty), mặt khác phải cạnh tranh với nhau về các mặt hàng kinh doanh giống nhau như bánh kẹo, rượu, bia và các loại đồ uống khác. Bên cạnh đó, Phòng không những phải cạnh tranh với các cửa hàng nằm dưới sự quản lý trực tiếp của công ty mà còn phải cạnh tranh với các đơn vị kinh doanh thuộc các công ty khác và cạnh tranh trực tiếp với các cửa hàng tạp hóa ở trên đường Lương Ngọc Quyến. Đối thủ cạnh tranh của Phòng là bất cứ đơn vị nào kinh doanh về lĩnh vực thực phẩm. Nếu xét theo quan điểm 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter, Phòng sẽ phải cạnh tranh với ngay các đối tác của mình như Viện Công Nghệ Sinh Học để có thể tăng sản lượng mà vẫn giữ nguyên được chất lượng như đợt hàng đầu tiên ( Phòng liên kết với Viện này sản xuất ra một số loại sản phẩm, do khả năng nguồn lực hạn chế, Phòng không thể tự sản xuất mà Viện sẽ sản xuất và thu hoạch và sơ chế, Phòng chịu trách nhiệm đóng gói). Cạnh tranh với hệ thống bán lẻ để đưa sản phẩm của mình vào kệ hàng của họ, cạnh tranh với khách hàng để bán được với mức giá hời ( khách hàng của Phòng phần lớn thuộc những người bán lẻ) Phần 2: PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA CÔNG TY VÀ CỦA PHÒNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 1.Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Nhờ đầu tư có trọng điểm và đúng hướng (không chỉ cho cơ sở vật chất mà cả cho nguồn nhân lực…) nhằm đảm bảo cam kết về chất lượng sản phẩm, đủ sức thoả mãn được cả những đơn đặt hàng khắt khe về chất lượng sản phẩm…công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội đã gặt hái được những kết quả rất khả quan. Cụ thể, doanh thu của công ty không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước: năm 2003: 125.638 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 19.8%, năm 2004: 150.514 tỷ đồng, năm 2005: 182.436 tỷ đồng tương ứng với tốc độ tăng 21.2%, năm 2006: 224.396 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 23%. Điều này cho thấy, công ty đã không ngừng cố gắng để nâng cao tốc độ tăng trưởng. Giá vốn hàng bán có xu hướng giảm dần, từ 88% doanh thu thuần (2003), xuống còn 87.8% (2004) đến 86.9% (2005) chứng tỏ công ty đã cố gắng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên mức giảm này còn thấp, công ty cần thực hiện tốt hơn. Mặc dù trong 3 năm qua, công ty đã mở rộng thị trường sang các tỉnh lân cận và miền Trung, miền Nam, nhưng doanh thu bán hàng tiêu thụ được ở các tỉnh so với thị trường Hà nội vẫn có sự chênh lệch đáng kể. Điều này có thể do công ty chưa thực sự chú trọng đến các thị trường tiềm năng mà chỉ tập trung chủ yếu phục vụ thị trường Hà nội. Hoặc có thể do mức giá bán trên các thị trường mới chưa có sự ưu tiên rõ rệt, dẫn tới không kích thích được sức tiêu dùng của người dân 2. Những hoạt động marketing 2.1 Hoạt động marketing của công ty Do công ty là DNNN với sự bảo thủ nổi tiếng của khối doanh nghiệp này, và được hình thành từ thời bao cấp, nên không hề có hoạt động phân đoạn thị trường hay lựa chọn thị trường mục tiêu. Tuy nhiên, nhìn vào sản phẩm và giá của chúng thì bản thân tôi có vài nhận xét về khách hàng của công ty Thực phẩm Hà nội: họ là những người có thu nhập trung bình, số ít có thể có mối cảm tình với thời bao cấp, những người này không quá kĩ tính về bao bì, quyết định mua của họ không dựa trên sự nổi tiếng của thương hiệu hay bắt mắt của bao bì, họ chọn sản phẩm của công ty đơn giản vì thấy nó có giá rẻ hơn. Như vậy nhóm thị trường mà công ty phục vụ hiện nay là nhóm có thu nhập trung bình, hơi nghiêng về trung bình thấp. Họ sống rải rác, thường mua ở các cửa hàng quen hơn là ở siêu thị, mức độ trung thành không cao. Họ sẵn sàng rời bỏ sản phẩm của doanh nghiệp nếu thấy sản phẩm của công ty khác có giá rẻ hơn, hoặc giá ngang bằng nhưng mang lại cho họ nhiều lợi ích phụ thêm hơn. Từ trước đến giờ, công ty chưa hề nghĩ đến việc áp dụng định hướng marketing vào trong kinh doanh, hoạt động kinh doanh mang tính chủ quan và áp đặt. Định vị cũng như các công việc khác của marketing là điều quá xa vời với công ty. Dù vậy, không cần đợi công ty phải cất công xây dựng, thị trường cũng tự định vị cho sản phẩm của công ty thông qua những gì họ nhận được từ việc mua sản phẩm đó. Khác với Trung Thành – với biểu tượng mặt trời mọc, gợi nên một sự mới lạ trong lĩnh vực rau quả đóng hộp truyền thống – thì cảm nhận về sản phẩm của công ty Thực phẩm Hà nội lại là sự cũ kĩ, lạc lõng và nhàm chán. Hiện không có số liệu để xác định vị trí chính xác của công ty so với các đối thủ cạnh tranh, nhưng có thể nói, trong con mắt người tiêu dùng, sản phẩm của công ty là loại hàng rẻ tiền. Còn về thương hiệu của công ty trong tâm trí khách hàng nói chung rất mờ nhạt, điều này chủ yếu do công ty không có chiến lược định vị. Năm 2006, phòng thị trường (phòng marketing) đã được thành lập, đánh dấu những đổi mới trong cách nhìn nhận về vai trò của marketing trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Một năm là quãng thời gian không nhỏ nhưng thực sự còn ít ỏi đối với phòng thị trường của một doanh nghiệp hoạt động trên nhiều lĩnh vực như Công ty thực phẩm Hà nội để có thể phát huy hết khả năng và hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ của mình. Do đó, dù phòng thị trường đã thành lập được một năm, nhưng việc phân đoạn thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu cũng như định vị sản phẩm vẫn còn nằm trong kế hoạch của những năm sắp tới. Bởi vì, chỉ riêng việc xem xét lại hệ thống phân phối của công ty trên địa bàn Hà nội, và việc xây dựng cửa hàng riêng của phòng thị trường cũng đủ làm cho họ quá bận rộn. Trong năm vừa qua, phòng thị trường đã làm các việc sau: Hệ thống lại mạng lưới phân phối của công ty Lập danh sách khách hàng Tổ chức hàng tuần, hàng tháng, thăm khách hàng theo lịch, xem xét tiềm lực khách hàng để có chế độ hậu mãi phù hợp Lên lịch cung cấp hàng cho khách Xem xét các mặt hàng có khả năng thành công trên thị trường cao, đề xuất ý kiến với bộ phận sản xuất của công ty Vào các ngày lễ thì tham mưu cho các đơn vị lên chương trình khuyến mãi Nghiên cứu thị trường hay về khách hàng thì chưa có, kể cả tự công ty tổ chức hay là mua dữ liệu từ các tổ chức khác, phòng mới chỉ thực hiện việc đánh giá về khách hàng dựa trên sự quan sát trong mỗi lần thăm viếng. Trong những năm tới đây, phòng thị trường sẽ lãnh một trách nhiệm rất quan trọng, đó là xây dựng thương hiệu cho công ty, bao gồm cả việc thiết kế lại logo của công ty, lập khẩu hiệu… và xây dựng trang web cho công ty. 2.2 Hoạt động marketing của phòng kinh tế - đối ngoại Do hoạt động làm trung gian xuất nhập khẩu được coi là công việc làm thêm của Phòng nên tôi sẽ không xét các sản phẩm đó trong mục này. Định hướng của Phòng với công việc này là không hạn chế các đơn hàng nếu nó không vi phạm Pháp luật, hoặc ảnh hưởng tới hoạt động của Phòng. Hoạt động làm đại lý cho một số sản phẩm cũng không được nhắc đến trong mục này vì: thứ nhất, Phòng chỉ là một mắt xích trong chuỗi kênh phân phối củacác doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng này, việc định giá đã do họ ấn định, Phòng không có sự cạnh tranh về giá với các đại lý khác. Thứ hai, các doanh nghiệp này thực hiện chiến lược đẩy rất tốt, mặt hàng của họ rất được người dân ưa chuộng, do đó, việc phân phối nó là khá dễ. Thứ ba, Phòng thực sự cũng không làm marketing trong lĩnh vực này. Như vậy, ở đây, tôi chỉ xét đến các sản phẩm của riêng Phòng và sản phẩm của công ty mà Phòng kinh doanh. Riêng cửa hàng QFoods do loại hình hơi đặc biệt nên sẽ được xét riêng. Phòng có 4 địa điểm để kinh doanh, đã cho thuê hai nơi, hiện chỉ còn lại 2 địa điểm: một ở 61 Lương Ngọc Quyến, vừa bán hàng tạp phẩm, vừa là trụ sở văn phòng; một ở 153 Giảng Võ, kinh doanh cửa hàng ăn QFoods. Phân đoạn và lựa chọn thị trường mục tiêu: Phòng kinh tế đối ngoại là một bộ phận trong công ty Thực phẩm Hà nội, và nó cũng không thoát khỏi tư tưởng bảo thủ của công ty. Do đó, việc thực hiện phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu để đầu tư tập trung khai thác đã không được Phòng chú trọng đến trong những năm trước. Sang năm 2006, cùng với làn gió mới thổi vào công ty, Phòng cũng đã có nhận định khác về việc thực hiện các hoạt động này và lập ra bộ phận kinh doanh kèm luôn công tác marketing. Bước đầu, Phòng đã xác định lại khách hàng hiện tại của mình. Đối với khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng, Phòng xác định họ là những người thuộc tầng lớp trung lưu, ưa chuộng đồ ăn truyền thống nhưng không có đủ thời gian để tự làm nên phải mua đồ làm sẵn, họ là những người mua hàng theo lí trí, không bị những ảnh hưởng hào quang của quảng cáo hay chạy theo số đông, với họ, sản phẩm được chọn lựa sẽ phụ thuộc vào những tiêu chuẩn mà nó đáp ứng được và qua sự tự cảm nhận của bản thân. Giá cũng có thể là một yếu tố trong số những tiêu chuẩn của họ. Nói chung thì về mặt hàng thực phẩm, khách hàng của Phòng cũng khá giống khách hàng của công ty (đã được phân tích ở trên) Đối với khách hàng công nghiệp là những nhà bán lẻ như các cửa hàng bán đồ khô, các siêu thị..., Phòng xác định cần phải thu hút họ càng nhiều càng tốt. Đặc điểm của các đối tượng này là làm việc dựa trên uy tín và sự quen biết, phân bố rải rác trên địa bàn Hà nội, với các cửa hàng thì qui mô tương đối nhỏ, do đó Phòng có chiến lược liên kết với một số nhà bán lẻ lớn, có uy tín ở mỗi khu vực trên địa bàn Hà nội để từ đó có thể thu hút các nhà bán lẻ khác. Định vị của Phòng với các đối tượng này dựa trên 2 yếu tố: là chất lượng (cao) và giá (vừa phải). Mục tiêu định vị của Phòng là trong 5 năm nữa Phòng sẽ trở thành đơn vị kinh doanh mạnh nhất của công ty. Nhắc đến tên công ty Thực phẩm Hà nội là người ta nghĩ ngay đến Phòng kinh tế đối ngoại. Phòng thực hiện chiến lược đẩy, tác động đến các khách hàng nhà bán lẻ, từ đó các khách hàng này sẽ có biện pháp để tác động đến người tiêu dùng cuối cùng. Hiện tại, Phòng đang thực hiện việc xây dựng thương hiệu của phòng gắn liền với sản phẩm đặc trưng như là mộc nhĩ cánh dày không chân, nấm mỡ…. Do phòng không có logo riêng, do đó việc khuếch trương sẽ thông qua địa chỉ của phòng, ghi dưới tên công ty. Đối với cửa hàng QFoods: Phòng xác định khách hàng là những đối tượng có thu nhập trung bình khá trở lên, phần đông là giới văn phòng, ưa sự mới lạ, thích khám phá, dễ chấp nhận các món ăn phương Tây. Họ là những người điển hình của lối sống hiện đại, bận rộn, không có nhiều thời gian để dành cho việc nội chợ, do đó hay mua đồ ăn sẵn, hay đi ăn ngoài. Những người này hay mua đồ làm sẵn trên đường về nhà, quan tâm chủ yếu đến chất lượng của sản phẩm, đặc biệt họ rất chú ý đến hàm lượng chrolesteron trong thức ăn. Nói chung họ là những người khá kĩ tính. Họ cũng thích liên tục thay đổi khẩu vị, đòi hỏi các món ăn mới, lạ, hấp dẫn. Những người này có nhu cầu giao tiếp, đi chơi với bạn bè rất cao, do đó cũng kéo theo nhu cầu ăn ngoài cao. Họ cũng đòi hỏi phải được phục vụ lịch sự, trong một không gian trang nhã phù hợp với tần lớp của họ. Ngoài ra, còn có một nhóm đối tượng khác khá đông đảo, đó là nhóm học sinh, sinh viên. Nhóm này ngoài đặc điểm gia đình khá giả ra, còn là những người hướng ngoại, rất năng động và hay đi chơi ngoài. Đó là thế hệ mới của Việt nam, thích dùng đồ sành điệu, dùng hàng ngoại, chạy theo các xu hướng thời thượng của thế giới và rất nhanh chóng tiếp thu văn hóa phương Tây, trong đó có đồ ăn nhanh. Nhóm này thích có không gian rộng, thích sự nghịch ngợm, trẻ trung, ưa những đồ hiện đại, kiểu cách và độc chiêu. Nói chung, các khách hàng Việt nam của đồ ăn nhanh vẫn thích được phục vụ hơn là phải đứng đợi ở quầy như mô hình của các nhà hàng ăn nhanh trên thế giới. Mục tiêu định vị của Phòng cho cửa hàng QFoods là trong 5 năm tới sẽ là hệ thống cửa hàng ăn nhanh hàng đầu trên địa bàn Hà nội. QFoods là một thương hiệu riêng, Phòng dự định sẽ có chiến lược xây dựng thương hiệu riêng cho nó. Phần 3: CHÍNH SÁCH MARKETING MIX CỦA PHÒNG 1. Sản phẩm Sản phẩm của Phòng có thể chia làm 2 dòng: sản phẩm của công ty và sản phẩm của riêng Phòng phát triển. chiều rộng của danh mục sản phẩm là 8, với chiều dài trung bình của loại sản phẩm là 5.625 và có mật độ cao, chúng đều là hàng tiêu dùng và cùng đi qua những kênh phân phối như nhau. Các sản phẩm của công ty do Phòng kinh doanh: Rau quả đóng hộp: 10 thân non xa lát, hành, sung, cà muối; măng lá dầm dấm, măng lát dầm ớt, măng củ dầm dấm, dưa chuột bao tử, dưa chuột dầm dấm, ớt dầm dấm, ớt xay nguyên chất, vải nước đường Các loại nem: nem thịt, nem cua bể, nem rế, tôm cuốn rế, chả giò, nem gà, nem thủy sản, nem rế gà, nem chay Các loại giò: giò bò, giò gà, giò lụa, giò xào, nem chua đặc biệt tương ớt, ớt sốt chua ngọt, dấm gạo nước mắm: mắm cốt cá cơm Nha Trang thịt tươi sống: thịt lợn Sản phẩm riêng của Phòng: sản phẩm Phòng liên kết với Viện Công Nghệ Sinh học : chủ yếu là các sản phẩm khô như mộc nhĩ, nấm hương, nấm mỡ, nấm rơm sản phẩm Phòng nhập khẩu: thịt đông lạnh: gà Mỹ, thịt bò, thịt cừu; đồ uống: nước hoa quả cô đặc, sữa. Sản phẩm của công ty tiêu thụ kém, không phải do Phòng ưu tiên cho các sản phẩm của mình, mà thực tế là sức cạnh tranh của chúng không cao.Các mặt hàng không được phong phú, còn nhiều lĩnh vực bỏ trống. Về bao gói, nhãn mác: kiểu dáng, kích cỡ bao bì còn nghèo nàn, không sáng tạo, bắt mắt, cách trình bày logo, tên của công ty không được đồng nhất, không tạo nên sự nhận biết rõ ràng. Với trách nhiệm là một bộ phận kinh doanh trong công ty, Phòng nên có những đóng góp cho công ty về mặt này. Ví dụ như thay đổi nắp hộp cho dễ mở hơn, đổi mới kiểu dáng của hộp để tạo khác biệt, cách trình bày nhãn mác, chỗ trống dành cho tên thương hiệu để nhấn mạnh tên thương hiệu hơn. Bao bì là kênh truyền thông quí báu. Trái với quảng cáo là việc quảng bá mà công ty phải thuê mướn, bao bì là việc quảng bá mà công ty sẵn có.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc227.doc
Tài liệu liên quan