Báo cáo Thực tập tại Vụ Xuất nhập khẩu thuộc Bộ Công thương

MỤC LỤC

 Trang

Lời mở đầu 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BỘ CÔNG THƯƠNG VÀ VỤ XUẤT NHẬP KHẨU. 2

I. Những nét chính về Bộ Công thương 2

1. Quá trình hình thành và phát triển của Bộ Công thương 2

2. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Công thương 3

2.1. Vị trí và chức năng. 3

2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn 3

3. Cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương 4

3.1 Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước 4

3.2 Các đơn vị sự nghiệp nhà nước thuộc Bộ 5

3.3. Các Thương vụ, Sở Công thương và Văn phòng Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. 6

II. Tổng quan về vụ Xuất nhập khẩu 6

1. Quá trình hình thành và phát triển của Vụ Xuất nhập khẩu 6

2. Vị trí và chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Vụ xuất nhập khẩu 7

2.1 Vị trí và chức năng của Vụ Xuất nhập khẩu 7

2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ Xuất nhập khẩu 8

3. Tổ chức bộ máy quản lý và các mối quan hệ của Vụ trong quá trình hoạt động .10

3.1. Cơ cấu tổ chức 10

3.2. Các mối quan hệ của Vụ trong quá trình hoạt động 11

CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG THỜI GIAN QUA (2001-2008) 12

I. Tình hình hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn (2001-2005) 12

1. Xuất khẩu giai đoạn (2001-2005) 12

1.1. Kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển xuất khẩu 12

1.2. Đánh giá hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2001-2005 18

2. Đánh giá hoạt động nhập khẩu giai đoạn 2001-2005 20

3. Cán cân thương mại giai đoạn 2001-2005 21

II.Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2006 –2008 22

1. Những khó khăn và thuận lợi 22

1.1. Thuận lợi 22

1.2. Khó khăn 23

2. Xuất khẩu giai đoạn 2006-2008 23

2.1. Những kết quả đạt được 23

2.2 Đánh giá những kết quả đạt được 25

3. Nhập khẩu giai đoạn 2006-2008 26

3.1 Tình hình nhập khẩu giai đoạn 2006-2010 26

3.2 Một số tồn tại và hạn chế trong hoạt động nhập khẩu giai đoạn 2006-2008 31

III. Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2008 32

1. Đánh giá tình hình xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 32

1.1. Những thành tựu cơ bản 32

1.2. Những hạn chế cơ bản 33

2. Đánh giá tình hình nhập khẩu giai đoạn 2001-2008 33

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀ KIỀM CHẾ NHẬP SIÊU GIAI ĐOẠN 2009-2010 34

I. Mục tiêu, phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu giai đoạn 2009-2010 34

1. Mục tiêu tổng quát. 34

2. Phương hướng chính đẩy mạnh xuất khẩu 35

2.1. Về hàng hoá xuất khẩu 36

2.2. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu 38

2.3. Phương hướng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực 39

2.4. Phương hướng xuất khẩu vào các thị trường chủ lực 39

II. Mục tiêu và phương hướng kiềm chế nhập siêu giai đoạn 2009-2010 46

1. Mục tiêu 46

2. Phương hướng 46

III. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu giai đoạn 2009-2010 47

1. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu 47

1.1. Xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu 47

1.2. Thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan 48

1.3. Đẩy mạnh đàm phán với các nước 48

1.4. Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu 48

1.5. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu 50

1.6. Hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu 50

1.7. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng 51

2. Giải pháp kiềm chế nhập siêu 51

2.1.Các giải pháp ngắn hạn 51

2.2. Các giải pháp trung hạn và dài hạn 53

 

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Thực tập tại Vụ Xuất nhập khẩu thuộc Bộ Công thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i với tất cả các châu lục khác. Quy mô xuất khẩu liên tục tăng và năm 2007 đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Mặt hàng xuất khẩu được mở rộng về danh mục chủng loại, tăng quy mô về lượng và thay đổi cơ cấu tích cực, chất lượng hàng xuất khẩu được nâng cao. Nhiều mặt hàng chủ lực của Việt Nam đã có danh tiếng và thuộc hàng đầu trên thị trường quốc tế. Được sự chỉ đạo chặt chẽ, quyết liệt của Chính phủ trong việc thực hiện kế hoạch; duy trì thường xuyên tổ chức giao ban hàng tháng về sản xuất, đầu tư, xuất nhập khẩu để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện kế hoạch, do đó, Vụ Xuất Nhập khẩu đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của Bộ Thương mại (trước đây) và Bộ Công Thương : + Năm 2006, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, nhập khẩu và thâm hụt cán cân thương mại được kiểm soát. + Năm 2007 là năm đầu tiên nước ta được hưởng quy chế thành viên của WTO, các hàng rào bảo hộ phi thuế sẽ dỡ bỏ dần, thuế suất nhập khẩu theo lộ trình cam kết được cắt giảm. Việc công khai minh bạch mọi chính sách cơ chế quản lý cũng là điều kiện tạo ra thị trường cạnh tranh, giảm giá thành và chi phí giao dịch cho doanh nghiệp sẽ tác động làm giảm chi số giá tiêu dụng. Điều này cũng tạo cơ hội cho hàng xuất khẩu tiếp cận với nhiều thị trường hơn, với mức thuế thấp hơn với một số mặt hàng … là cơ hội góp phần tăng kim ngạch xuất nhập  khẩu. + 6 tháng đầu năm 2008 xuất khẩu tăng cao, nhập siêu giảm và mục tiêu đặt ra cho năm 2008 nhiều khả năng thực hiện được. 1.2. Khó khăn Trong bối cảnh chung của ngành Công Thương trong hơn hai năm qua, bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản cũng có không ít khó khăn thách thức, ảnh hưởng đến tình hình thực hiện nhiệm vụ của Chi bộ, đó là: + Tình hình kinh tế thế giới trong tình trạng khó khăn, có nhiều biến động phức tạp và khó dự báo. + Nền kinh tế Mỹ vẫn tiếp tục suy yếu do những tác động tiêu cực của khủng hoảng tín dụng, nhiều doanh nghiệp thua lỗ và đang trên bờ vực phá sản… + Tỷ lệ lạm phát tăng cao tại hầu hết các khu vực trên thế giới, lạm phát tăng cao là thách thức gay gắt nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Bên cạnh những biến động bất lợi của nền kinh tế toàn cầu, nên kinh tế trong nước cũng gặp nhiều khó khăn như lạm phát tăng cao, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, thiên tai, dịch bệnh … đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người dân. Xuất khẩu giai đoạn 2006-2008 2.1. Những kết quả đạt được Trong giai đoạn qua, hoạt động xuất khẩu đạt được một số kết quả thể hiện trên những mặt chủ yếu như sau. a. Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu: Giai đoạn 2006-2008, quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá đều đạt và vượt các chỉ tiêu đặt ra cho giai đoạn 5 năm 2006-2010. Trong đó, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trung bình giai đoạn 2006-2010 đạt 26,2%/năm vượt 10,2% so với chỉ tiêu đặt ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng X là 16%/năm. Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2006-2008 đạt khoảng 153,4 tỷ USD, vượt hơn 53 tỷ USD so với kim ngạch cả giai đoạn 2001-2005 là 110,8 tỷ USD. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trong giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 54% năm 2005 lên 86% năm 2008. b. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng trong giai đoạn 2006-2008: Đơn vị tính: kim ngạch (triệu USD); tỷ trọng (%) Nội dung Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 KN Tỷ trọng KN Tỷ trọng KN Tỷ trọng Tổng trị giá xuất khẩu 39.826 100 48.560 100 61.200 100 1. Nhóm nông lâm thuỷ sản 8.201 20,6 9.920 20,4 11.680 19,9 2. Nhóm nhiên liệu, khoáng sản 9.366 23,5 9.726 20,0 13.305 21,0 3. Nhóm chế biến, CN và TCMN 22.259 55,9 28.914 59,5 36.215 59,1 (Nguồn: Bộ Công thương) Nhìn chung, sự chuyển dịch trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006-2008 vẫn còn chậm và chưa ổn định qua các năm, trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản giảm dần từ 20,6% năm 2006 xuống còn 20,1% năm 2008; nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản đã giảm mạnh từ 23,1% năm 2006 xuống 19,5% năm 2007 nhưng đã tăng trở lại trong năm 2008 và chiếm tỷ trọng 21,5% năm 2008; nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ có xu hướng tăng nhẹ nhưng không đều qua các năm và chiếm tỷ trọng 58,4% trong cơ cấu hàng xuất khẩu năm 2008 2.2. Đánh giá những kết quả đạt được Trên cơ sở những kết quả đạt được trong hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2006-2008, có thể rút ra một số nhận định cơ bản như sau: a. Những thành tựu chủ yếu: - Quy mô và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu đã được mở rộng và tăng trưởng ở mức độ cao. - Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô. Nhiều mặt hàng xuất đã mở rộng được quy mô sản xuất, nâng cao giá trị xuất khẩu như dệt may, giày dép, thuỷ sản, gạo... - Công tác phát triển thị trường xuất khẩu đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vừa mở ra những thị trường mới, vừa thâm nhập và khai thác tốt hơn những thị trường đang có. b. Những hạn chế cơ bản: - Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài. - Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý. Xuất khẩu chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản (dầu thô, than đá), nông, lâm, thủy, hải sản, trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, gia giày, điện tử và linh kiến máy tính.. chủ yếu vẫn mang tính chất gia công. - Năng lực cạnh tranh còn yếu kém ở cả 3 cấp độ (nền kinh tế, doanh nghiệp và mặt hàng xuất khẩu). - Nhập siêu ở mức cao và chưa có giải pháp kiềm chế hiệu quả, triệt để, đã ảnh hưởng tiêu cực đến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tế, nguồn lực đầu tư... 3. Nhập khẩu giai đoạn 2006-2008 3.1 Tình hình nhập khẩu giai đoạn 2006-2008 Kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 62,68 tỷ USD, tăng 39,6% so với năm 2006, trong đó, các doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 40,96 tỷ USD, tăng 144,2%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,7 tỷ USD, tăng 131,7%. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng cần nhập khẩu tăng 41,4%, nhóm hàng nhập khẩu cần phải kiểm soát tăng 28,1% và nhóm hàng hạn chế nhập khẩu tăng 49,6%. Bảng 8: Kim ngạch nhập khẩu theo nhóm hàng năm 2007 (Đơn vị tính: kim ngạch triệu USD; tỷ trọng % ; Nguồn: Bộ Công thương) Nhóm hàng Năm 2006 Năm 2007 % Tăng KN tỷ trọng KN tỷ trọng Tổng trị giá nhập khẩu 44.891 100 62.682 100 39,6 1. Nhóm hàng cần nhập khẩu 34.692 77,3 49.057 78,3 41,4 2. Nhóm hàng nhập khẩu cần kiểm soát 7.604 16,9 9.743 15,5 28,1 3.Nhóm hàng hạn chế nhập khẩu 2.595 5,8 3.882 7,9 49,6 Bước sang năm 2008, tốc độ nhập khẩu vẫn tăng ở mức cao, cả về số lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2007, nguyên nhân chủ yếu là: Trước hết, chủ yếu vẫn là những nguyên nhân tương tự dẫn đến tình hình nhập siêu tương đối cao của năm 2007, trong đó đặc biệt là yếu tố giá tăng cao nhưng tác động sâu hơn do giá tiếp tục tăng cao hơn nhiều, do đầu tư cho sản xuất và tăng trưởng kinh tế, hiệu quả đầu tư chưa cao, ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế sau khi gia nhập WTO và nhu cầu tiêu dùng, sức mua trong nước tăng, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tuy đã đạt mức cao nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng nhập khẩu. Ngoài ra còn một số nguyên nhân đặc trưng cho đầu năm 2008 là: Nhiều mặt hàng nhập khẩu được giảm thuế so với năm 2007 và các năm trước đó nên phần lớn các mặt hàng nhập khẩu đều tăng mạnh về số lượng so với cùng kỳ năm 2007. Do đồng đô la Mỹ mất giá kể cả so với đồng tiền Việt Nam trong 4 tháng đầu năm nên một số nhà nhập khẩu tích cực đẩy mạnh nhập khẩu với mục đích đề phòng tiếp tục tăng giá và không loại trừ cả mục đích hy vọng thu được lợi nhuận cao. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và đầu tư tăng, theo đó, nhập khẩu cho đầu tư và nguyên nhiên phụ liệu cho sản xuất đều tăng. Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đã tăng 46% trong 6 tháng 2008 so với cùng kỳ năm ngoái, chất dẻo nguyên liệu tăng 39,8%, điện tử, máy tính và linh kiện tăng 42,8%.... Một số dự án đầu tư sản xuất các sản phẩm, hàng hóa thay hàng nhập như lọc hóa dầu, phôi thép, phân bón, nguyên phụ liệu ngành dệt may đang trong quá trình xây dựng, chưa đi vào hoạt động; công nghiệp phụ trợ còn kém phát triển... cũng là nguyên nhân dẫn đến phải nhập khẩu từ bên ngoài. Do đời sống được cải thiện, một bộ phận dân cư xuất hiện tâm lý chuộng hàng ngoại (trong khi hàng sản xuất trong nước không kém hơn về chất lượng, mẫu mã) cũng là yếu tố kích thích nhập khẩu. Xuất hiện tình trạng nhập khẩu chờ giá tăng để thu lợi (như thép và phôi thép)… Kim ngạch nhập khẩu tháng 6 ước đạt 7,27 tỷ USD, tăng 42,9% so với cùng kỳ 2007, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2008 lên 45,1 tỷ USD, (bình quân mỗi tháng nhập khẩu 7,5 tỷ USD), tăng 62,6% so với cùng kỳ năm 2007. Có thể thấy một tín hiệu đáng mừng, đó là kim ngạch nhập khẩu và nhập siêu đã giảm dần trong các tháng vừa qua (nhập khẩu tháng 4 là 8,23 tỷ USD với nhập siêu 3,2 tỷ USD, tháng 5 là 7,67 tỷ USD với nhập siêu là 1,9 tỷ USD và đến tháng 6 nhập siêu chỉ còn 1,14 tỷ USD). Với kết quả như vậy, nhập siêu 6 tháng 2008 đã giảm hơn nhiều so với dự kiến, chỉ còn 14,8 tỷ USD, bằng 48,8% so với xuất khẩu. Bảng 9: Kim ngạch nhập khẩu theo nhóm hàng 6 tháng đầu năm 2008 ( Đơn vị tính: kim ngạch triệu USD; tỷ trọng %; Nguồn Bộ Công thương) Nhóm hàng 6 tháng 2007 6T 2008 % Tăng KN tỷ trọng KN tỷ trọng Tổng trị giá nhập khẩu 27.735 100 45.105 100 62,6 1. Nhóm hàng cần nhập khẩu 21.791 78,6 34.221 75,9 57,0 2. Nhóm hàng nhập khẩu cần kiểm soát 4.111 14,8 8.013 17,8 94,9 3.Nhóm hàng hạn chế nhập khẩu 1.833 6,6 2.871 6,4 56,6 Theo đánh giá của Bộ Công Thương, nhập khẩu và qua đó nhập siêu năm nay tăng chủ yếu là do giá cả hàng hoá và nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng mạnh, nhu cầu trong nước tuy cũng tăng nhưng không phải là nguyên nhân chính, cụ thể: kim ngạch nhập khẩu tăng 17,37 tỷ USD so với cùng kỳ 2007, trong đó, tăng do giá trên 4,6 tỷ USD, tăng do lượng là 3,6 tỷ USD và tăng do cả giá và lượng (không xác định cụ thể tăng do giá hay lượng) là 9,1 tỷ USD. Ước tính chung nhập khẩu tăng do giá chiếm khoảng 70% và tăng do khối lượng chỉ khoảng 30%. Đánh giá tình hình nhập khẩu theo nhóm hàng: Nhóm 1: Nhóm mặt hàng cần thiết phải nhập khẩu. Nhóm này gồm các mặt hàng: thép, phôi thép, phân bón, xăng dầu, chất dẻo, sợi, bông, hóa chất nguyên liệu, máy móc, thiết bị, phụ tùng, tân dược, điện tử, máy tính và linh kiện, vải, nguyên phụ liệu dệt may, da, clinker, nguyên liệu dược phẩm, sản phẩm hóa chất, thuốc trừ sâu và nguyên liệu, kim loại thường khác, gỗ nguyên liệu, thức ăn gia súc và nguyên liệu, lúa mỳ, bột giấy, cao su các loại, kính xây dựng. Đây là nhóm mặt hàng thiết yếu, là đầu vào cho sản xuất và xuất khẩu, do đó phải đảm bảo nhập khẩu để ổn định sản xuất và xuất khẩu. Hiện, nhóm này đang chiếm tỷ trọng 76% trên tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong 6 tháng 2008, kim ngạch nhập khẩu của nhóm này đạt 34,2 tỷ USD, tăng 57% so với cùng kỳ năm 2007. Một số mặt hàng có khối lượng và kim ngạch tăng đột biến so với cùng kỳ 2007 là: thép thành phẩm tăng 61,5% về lượng và 102% về trị giá; phôi thép tăng 81,8% về lượng và 174,8% về trị giá; Phân bón tăng 16,8% về lượng và 126,9% về trị giá; Xăng dầu tăng 11,4% về lượng và 86% về trị giá; Máy móc, thiết bị phụ tùng tăng 46% về trị giá; Thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 85% về trị giá; Bột giấy tăng 117,9% về lượng và 89% về trị giá.... Tuy nhiên, tốc độ nhập khẩu 6 tháng đã bắt đầu có xu hướng giảm (từ 71% trong 4 tháng xuống 66,3% trong 5 tháng và xuống còn 62,6% trong 6 tháng) phù hợp với dự báo của Bộ Công Thương. Cụ thể, nhiều mặt hàng lượng và trị giá nhập khẩu trong tháng 6 đã giảm đáng kể so với bình quân 5 tháng đầu năm 2008 như: sắt thép giảm 49% về lượng và 35,3% về giá trị, phôi thép giảm 80,2% về lượng và 75,6 về giá trị, phân bón giảm 57% về lượng và 46% về giá trị. Nhóm 2: Nhóm mặt hàng nhập khẩu tuy vẫn cần thiết nhưng cần phải kiểm soát. Nhóm này gồm các mặt hàng: sản phẩm chế tạo từ gang thép, than cốc và các sản phẩm hóa dầu, hàng hóa khác (trong đó có đá quý và vàng bạc kim cương...), chiếm tỷ trọng 18% trên tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong 6 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu nhóm này ước đạt 8 tỷ USD, tăng 95% so với cùng kỳ năm 2007. Trong nhóm hàng hoá này thì đáng chú ý là mặt hàng vàng có tốc độ tăng trưởng mạnh so với năm 2007 (6 tháng đầu năm 2008, lượng nhập khẩu đạt trên 90 tấn với kim ngạch khoảng 2,8 tỷ USD). Nhóm 3: Nhóm mặt hàng cần hạn chế nhập khẩu gồm: nguyên phụ liệu thuốc lá, hàng tiêu dùng, ô tô nguyên chiếc, linh kiện ô tô, linh kiện và phụ tùng xe gắn máy. Tỷ trọng nhóm này ở mức thấp nhất so với 2 nhóm trên, chiếm khoảng 6% trên tổng kim ngạch nhập khẩu. Trong các tháng đầu năm 2008, nhất là quý I, một số mặt hàng có số lượng và kim ngạch tăng đột biến so với cùng kỳ 2007 là: Ô tô nguyên chiếc dưới 12 chỗ và linh kiện ô tô …. Tuy nhiên, tốc độ nhập khẩu ô tô nguyên chiếc trong tháng 6 đã bắt đầu có xu hướng giảm mạnh, giảm 60,6% về lượng và 59% về giá trị so với bình quân 5 tháng đầu năm. Những thành tựu về xuất khẩu thời gian qua là rõ ràng và to lớn, song Việt Nam vẫn là một nước nhập siêu. Xét theo thị trường nhập khẩu, Việt Nam có thâm hụt thương mại duy nhất với Châu Á và thặng dư thương mại với tất cả các châu lục khác. Năm 2007, thâm hụt thương mại với châu lục này lên trên 29 tỷ USD, tăng gấp 1,6 lần so với năm 2006. Trong đó, nhập siêu với Trung Quốc là 9,1 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm ngoái; nhập siêu với Đài Loan là 5,8 tỷ USD, tăng 50%; Singapore là 5,4 tỷ USD, tăng 16,5%; Hàn Quốc 4,1 tỷ USD, tăng 34,8%; Thái Lan 2,7 tỷ USD, tăng 26,5%. Việt Nam nhập siêu lớn từ các nước này do hàng hoá của các nước này có sức cạnh tranh cao hơn và phù hợp về cơ cấu mặt hàng tiêu dùng, sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Mặt khác, ngay cả đối với những thị trường Việt Nam vốn xuất siêu như Hoa Kỳ, EU thì năm 2007 nhập khẩu của Việt Nam từ những thị trường này cũng tăng cao (Hoa Kỳ 73%, EU 66%) do thực hiện các cam kết giảm thuế và tác động của việc tăng giá đồng Euro. Và điều này đã tác động đến sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng xấu tới cán cân thanh toán, tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế với bên ngoài và làm giảm hiệu quả xuất khẩu, giảm nguồn thu từ xuất khẩu. Nhìn chung, tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam năm 2007 và 6 tháng đầu năm 2008 có sự tăng đột  biến ảnh hưởng xấu đến cán cân thương mại. 3.2. Một số tồn tại và hạn chế trong nhập khẩu giai đoạn 2006-2008 - Tỷ trọng nguyên, nhiên vật liệu trong các mặt hàng nhập khẩu còn cao, máy móc thiết bị còn thấp như hiện nay cho thấy mức độ đổi mới công nghệ nước ta rất chậm. Xét về dài hạn, yếu kém về công nghệ sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá thay thế nhập khẩu. - Tính gia công của sản xuất, tính đại lý của thương mại ở nước ta còn rất lớn. Tỷ trọng nguyên liệu nhập siêu cao cho thấy ngành công nghiệp phụ trợ nước ta đang còn kém phát triển, công nghiệp chế biến tăng trưởng chậm, các ngành sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu. - Tỷ trọng nguyên liệu, phụ liệu nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu cao thể hiện giá trị gia tăng thấp của nhiều mặt hàng xuất khẩu như dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử. Nhập khẩu chưa kích thích xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao giá trị gia tăng. - Muốn hạn chế nhập siêu, lành mạnh hoá cán cân thương mại đang trong tình trạng thâm hụt, về nguyên tắc có thể hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, đang đẩy mạnh hội nhập, nới lỏng rào cản để thực hiện tự do hoá thương mại thì nhập khẩu thiết bị máy móc, nguyên, nhiên, vật liệu có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. III. Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2008 Đánh giá tình hình xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 Những thành tựu cơ bản Một là qui mô và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu đã được mở rộng và tăng trưởng ở mức độ khá cao Hai là cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô Ba là công tác phát triển thị trường xuất khẩu đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vừa mở ra những thị trường mới, vừa thâm nhập và khai thác tốt hơn những thị trường đang có. Trong đó thị trường Châu Phi và Trung Đông là 2 thị trường tiềm năng, đang được khai thác, tiếp tục được Chính phủ lựa chọn là thị trường trọng điểm 2009 Bốn là các chủ thể tham gia xuất khẩu không ngừng được mở rộng, đa dạng hoá và hoạt động ngày càng hiệu quả. Những hạn chế cơ bản - Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài. - Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý. Xuất khẩu chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản (dầu thô, than đá), nông, lâm, thủy, hải sản, trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, gia giày, điện tử và linh kiến máy tính.. chủ yếu vẫn mang tính chất gia công. - Năng lực cạnh tranh còn yếu kém ở cả 3 cấp độ (nền kinh tế, doanh nghiệp và mặt hàng xuất khẩu). - Nhập siêu ở mức cao và chưa có giải pháp kiềm chế hiệu quả, triệt để, đã ảnh hưởng tiêu cực đến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tế, nguồn lực đầu tư... 2. Đánh giá tình hình nhập khẩu giai đoạn 2001-2008 - Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực, nhóm hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng chiếm khoảng 36%, nhóm nguyên, nhiên vật liệu chiếm khoảng 61%, hàng tiêu dùng và các mặt hàng nhập khẩu khác chiếm khoảng 2.7% - Tuy nhiên tỷ trọng nguyên, nhiên vật liệu trong các mặt hàng nhập khẩu còn cao, máy móc thiết bị còn thấp như hiện nay cho thấy mức độ đổi mới công nghệ nước ta rất chậm. Xét về dài hạn, yếu kém về công nghệ sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá thay thế nhập khẩu. - Tính gia công của sản xuất, tính đại lý của thương mại ở nước ta còn rất lớn. Tỷ trọng nguyên liệu nhập siêu cao cho thấy ngành công nghiệp phụ trợ nước ta đang còn kém phát triển, công nghiệp chế biến tăng trưởng chậm, các ngành sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu. - Tỷ trọng nguyên liệu, phụ liệu nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu cao thể hiện giá trị gia tăng thấp của nhiều mặt hàng xuất khẩu như dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử. Nhập khẩu chưa kích thích xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao giá trị gia tăng. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀ KIỀM CHẾ NHẬP SIÊU GIAI ĐOẠN 2009-2010 Mục tiêu, phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu giai đoạn 2009- 2010 Mục tiêu tổng quát. Mục tiêu tổng quát của hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2008-2010 là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP, giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô. Phương hướng chính đẩy mạnh xuất khẩu Để đạt được các mục tiêu trên, các phương hướng chính đẩy mạnh xuất khẩu cần triển khai thực hiện là: Một là, thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng tăng giá trị hàng hóa xuất khẩu đối với các mặt hàng truyền thống, các mặt hàng sản xuất do bị hạn chế về cơ cấu (diện tích, năng suất, thời tiết…) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng, trong đó đặc biệt chú ý đến các mặt hàng nông, lâm, thủy sản. Hai là, tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, chú trọng đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng cho việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng như giải quyết nhiều công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội như các sản phẩm chế biến, công nghiệp chế biến: dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh kiện điện tử, sản phẩm nhựa, dây cáp điện… Ba là, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến doanh nghiệp, tìm kiếm và mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng phát triển không bị hạn chế về khả năng sản xuất, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước như: hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm cao su, hàng thực phẩm chế biến, hoá mỹ phẩm, sản phẩm cơ khí, dịch vụ phần mềm… Bốn là, tập trung khai thác theo chiều sâu, chiều rộng đối với các thị trường xuất khẩu truyền thống, thị trường xuất khẩu trọng điểm đi đôi với việc phát triển các thị trường có chung đường biên giới với Việt Nam thông qua việc xem xét điều chỉnh những quy định không phù hợp hạn chế xuất khẩu thời gian qua. Năm là, tận dụng các lợi thế từ các hiệp định thương mại song phương (FTA); gắn thị trường xuất khẩu với thị trường nhập khẩu, thông qua đó đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu ở các thị trường hiện có mức nhập siêu lớn nhằm giảm nhập siêu của cả nước; xây dựng và thực hiện lộ trình giảm nhập siêu trong giai đoạn 2008 - 2010 Sáu là, rà soát và phát hiện các mặt hàng có khả năng sản xuất nhưng không hoặc chưa bị hạn chế về thị trường như đồ nhựa các loại, sản phẩm cơ khí và vali, túi xách, mũ ô dù… Trên cơ sở các đánh giá, dự báo về khả năng sản xuất, diễn biến giá cả xuất khẩu, thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới, Bộ Công thương đưa ra chỉ tiêu phấn đấu tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt mức 26% và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình cả giai đoạn 2008-2010 đạt mức 19,6%/năm. Cụ thể: Về hàng hoá xuất khẩu Bảng 10: Dự báo kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2008-2010 Đơn vị tính: kim ngạch triệu USD; tăng % Nội dung 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 2008-2010 KN KN Tăng KN Tăng KN Tăng KN Tăng Tổng số 48.560 61.200 26,0 70.600 15,4 82.900 17,4 214.700 19,6 - Nhóm nông, lâm, thuỷ sản 9.920 11.680 17,7 12.760 9,2 14.000 9,7 38.440 12,2 - Nhóm nhiên liệu, khoáng sản 9.726 13.305 36,8 11.240 -15,5 9.700 -13,7 34.245 2,5 - Nhóm chế biến, CN và TCMN 28.914 36.215 25,3 46.600 28,7 59.200 27,0 142.015 27,0 (Nguồn: Bộ công thương) Những chỉ tiêu trên thể hiện rõ quan điểm “Coi việc tập trung đầu tư vào nhóm hàng công nghiệp để mở rộng sản xuất, khai thác thêm những mặt hàng mới, thị trường mới và đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao giá trị gia tăng của nhóm hàng nông sản là hai khâu trọng tâm để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2009-2010”. Quan điểm này dựa trên những nhận định quan trọng sau: Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu sẽ có xu hướng giảm dần do tác động của sự sụt giảm lượng xuất khẩu dầu thô và than đá theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tới; đặc biệt là kể từ năm 2009, khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất dự kiến bắt đầu đi vào hoạt động và sẽ sử dụng nguồn dầu thô trong nước. Thứ hai, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản sẽ có xu hướng giảm dần do gặp phải nhiều hạn chế về khả năng mở rộng qui mô nuôi, trồng và chủ yếu phải dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu. Thứ ba, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng mạnh do có nhiều điều kiện để mở rộng qui mô sản xuất (đặc biệt là thông qua hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bắt đầu đi vào hoạt động trong giai đoạn này), phát triển thị trường mới, mặt hàng mới, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng nhờ đổi mới công nghệ. Thứ tư, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng khác sẽ có xu hướng tăng do nhiều mặt hàng mới được phát hiện, có tiềm năng phát triển, chưa bị hạn chế về sản xuất và thị trường. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu Bảng 11: Dự báo cơ cấu thị trường xuất khẩu giai đoạn 2009-2010 Đơn vị tính: kim ngạch triệu USD; cơ cấu % Khu vực thị trường Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 % Tăng KN bq 2008-2010 KN Cơ cấu KN Cơ cấu KN Cơ cấu KN Cơ cấu  Tổng KN 48.560 100 61.200 100 70.600 100 82.900 100 119,6 - Châu Á: 21.000 43,8 26.000 42,5 29.900 42,4 35.300 42,6 119,0 Nhật bản 5.700 11,9 6.600 10,8 7.600 10,8 9.000 10,9 116,5 Trung Quốc 3.200 6,7 4.100 6,7 5.000 7,1 6.200 7,5 124,7 ASEAN 7.800 16,3 10.000 15 11.000 15,6 12.800 15,4 118,2 Hàn Quốc 1.200 2,5 1.600 2,6 2.000 2,8 2.500 3,0 127,8 Đài Loan 1.100 2,3 1.400 2,3 1.700 2,4 2.100 2,5 124,1 - Ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31658.doc