Các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam

MỤC LỤC

 

PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ 1

PHẦN B: NỘI DUNG 2

I. PHẦN LÝ LUẬN 2

1- Xã hội là gì? 2

2- Những hoạt động cơ bản của xã hội 3

4- Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lưc lượng sản xuất. 4

5- Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 5

6- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội 6

II. CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TÁC ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 6

1- Đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn trước thời kỳ đổi mới ( Giai đoạn 1979 -1986) 6

2- Thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay) 7

2.1. Về đổi mới cơ chế qua các kỳ đại hội 7

22.Các thành tựu kinh tế kinh tế cơ bản 7

23. Những vấn đề còn tồn tại: 9

3- Vận dụng lý luận về quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong việc vận dụng kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta. 9

31- Đánh giá ảnh hưởng của các chính sách kinh tế và xã hội đối với sự nghiệp xây dựng đất nước từ 1976 đến nay. 10

3.2- Vận dụng lý luận về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong việc kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội của Nhà nước trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta. 12

PHẦN C: PHẦN KẾT LUẬN 18

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế, các yếu tố khác cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng chúng đều bị nhà nước pháp luật chi phối. Trong mỗi chế độ xã hội sự tác động của các bộ phận kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dưng bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, nếu tác động ngựoc lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ tiến bộ để tiếp tục thúc đẩy kinh tế phát triển. 6- Chính sách kinh tế và chính sách xã hội *) Chính sách kinh tế là những chính sách tác động về mặt kinh tế mà chủ yếu tác động đến lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. *) Chính sách xã hội là những chính sách tác động chủ yếu đến kiến trúc thượng tầng Do vậy có mối quan hệ biện chứng với nhau như mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. II. CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TÁC ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn trước thời kỳ đổi mới ( Giai đoạn 1979 -1986) Sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước, cả dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đã tiến vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN trên cơ sở đường lối do Đại hội IV đề ra. Tuy nhiên vẫn mắc phải những sai lầm chủ quan duy ý chí, tiến hành cải tạo công thương ở miền Nam, thực hiện đường lối công nghiệp hóa, xây dựng phát triển đất nước theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Những vấp váp và tổn thất trong công nghiệp hóa, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hóa triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV đã dẫn đến tình trạng kinh tế đất nước hết sức khó khăn, sản xuất bị kìm hãm, sản xuất và đời sống nhân dân đi xuống nhanh chóng, buộc phải xem xét lại tình hình và tìm giải pháp mới. Từ đó Đảng có chủ trương: “làm cho sản xuất bung ra” Thể chế hóa chủ trương đổi mới đó của Đảng, năm 1981 Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 100 về “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động” (khoán 100) tạo ra động lực mới trong phát triển nông nghiệp, không những đem lại hiệu quả kinh tế lớn mà còn mở ra triển vọng cho việc cải tiến nông nghiệp khắc phục đáng kể tình trạng tham ô, lãng phí tồn tại trong thời gian dài trước đó ở hầu hết các hợp tác xã nông nghiệp. Cũng theo chủ trương trên, ngày 21/01/1981 Chính phủ ra quyết định số 25-CP về “Một số chủ trương biện pháp phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh”. Đồng thời với đổi mới trong quản lý nông nghiệp và công nghiệp, trong hai năm 1981,1982, Việt Nam đã bắt đầu cải cách giá và lương: tăng giá, tăng lương, thực hiện chuyển đổi từ cơ chế một giá do Nhà nước quy định sang cơ chế hai giá đối với cả hàng tiêu dùng, vật tư và sản phẩm giao dịch theo hợp đồng, giảm các mặt hàng cung cấp theo tem phiếu, chuyển phần lớn giá cung cấp sang giá kinh doanh thương nghiệp sát giá thị trường, tiền lương thực tế đảm bảo cho ngưòi làm công ăn lương sống chủ yếu bằng lương, xóa bỏ cung cấp hiện vật. Như vậy các nghị quyết của Đảng trong thời kỳ từ 1979 đến 1985 trên thực tế là những nấc thang đầu tiên của quá trình đổi mới tư duy kinh tế, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mô hình tổng quát của Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH. 2- Thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay) 2.1. Về đổi mới cơ chế qua các kỳ đại hội Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 12/1986 đã chính thức thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường; phê phán triệt để cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định phải chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội cũng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp. Đại hội VII nói rõ hơn về việc coi chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là chính sách chiến lược, là con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng đưa ra kết luận rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng” Tuy nhiên Đại hội VIII mới nói đến nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường mà chưa khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến đại hội IX, tháng 4 năm 2001 Đảng mới chính thức đưa ra khái niệm: “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ đi lên CNXH ở Việt Nam. Có thể nói từ năm 1979 đến nay, nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN ngày một nâng cao, đầy đủ và đúng đắn hơn. Như Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Như vậy hai mươi năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, có sự thay đổi căn bản, toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị ổn định. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối của Đảng trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn VN. 22.Các thành tựu kinh tế kinh tế cơ bản Năm 1979 có thể được coi là một mốc quan trọng trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ hơn, các quan hệ thị trường bắt đầu được thiết lập với “kế hoạch ba phần” cho doanh nghiệp nhà nước. Đến năm 1981, nước ta thực hiện chế độ “khoán 100” (khoán sản phẩm), các nông hộ cũng được trao quyền tự chủ hơn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Với việc bãi bỏ hệ thống giá kế hoạch, thay thế hệ thống tiền tệ cũ vào năm 1985, nước ta bắt đầu thực hiện chương trình đổi mới. Từ đây ghi nhận những đột phá trong tư duy phát triển kinh tế. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Năm 1988, Nhà nước ta phê chuẩn liên doanh đầu tiên. Xuất khẩu lần đầu tiên đạt mức 1 tỷ USD. Từ một nước nhập khẩu gạo, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới vào năm 1989. Lạm phát cao cũng đã được kiềm chế. Năm 1990, sản lượng lương thực đạt mốc 20 triệu tấn, sản lượng dầu thô khai thác đạt 2 triệu tấn, tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký đạt 1 tỷ USD. Năm 1991 đánh dấu thành công trong chống lạm phát. Kinh tế - xã hội ổn định và tạo được cơ sở để tăng trưởng cao ở những năm sau. Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đạt 9% Tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký năm 1992 vượt mốc 5 tỷ USD, số doanh nghiệp nhà nước giảm trong khi số doanh nghiệp tư nhân tăng lên. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn là 87% cùng với chương trình xóa đói giảm nghèo. Năm 1993, điện thoại di động đầu tiên đã được đưa vào sử dụng. Mối quan hệ giữa Việt Nam với các nhà tài trợ quốc tế được thiết lập. Lệnh cấm vận của Mỹ được bãi bỏ, Hội nghị CG đầu tiên được tổ chức tại Paris. Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN vào năm 1994. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký vượt mức 10 tỷ USD. Năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên AFTA, xuất khẩu đạt mốc 5 tỷ USD, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9,5%. Đến năm 1996, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký đạt 27 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9,3%. Chỉ sau đó 1 năm, xuất khẩu gạo đạt mức 3 triệu tấn, sản lượng khai thác dầu thô đạt mốc 10 triệu tấn, internet lần đầu tiên được đưa vào sử dụng tại Việt Nam. Đến năm 1998 trên 90% trẻ em được tiêm chủng vắc-xin, tỷ lệ tăng dân số hàng năm dưới 2%. Dựa trên Điều tra mức sống cư dân Việt Nam, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 37% năm 1998. Cũng trong năm này, Việt Nam trở thành thành viên APEC. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn tăng lên 89,4%. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vượt 30 tỷ USD. Năm 1999, Việt Nam xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo. Nước ta đuợc Liên hợp quốc trao giải thưởng về dân số và kế hoạch hóa gia đình. tuổi thọ là 67,8, xếp hạng HiD: 101 trong số 162 nước. Trong thập kỷ 90, kinh tế đã phát triển không ngừng. Tính chung trong 10 năm liên tục, kinh tế tăng trưởng bình quân hơn 7,5%/năm. Năm 2000, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 6,7%, cùng lúc đó là gần 15000 doanh nghiệp tư nhân được thành lập, tỷ lệ biết chữ ở người lớn là 94%. Đến năm 2001, tăng trưởng kinh tế ước khoàng 7% đứng thứ 2 trong khu vực; giữ vững ổn định về chính trị - xã hội. Trong năm này, khoảng 23.000 doanh nghiệp tư nhân được thành lập với số vốn 25.000 tỷ đồng Việt Nam, tạo 500.000 chỗ làm mới (tính đến tháng 9 năm 2001). Chương trình sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiêp nhà nước trong 5 năm (2001 – 2005) ra đời. Quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng Thế giới tiếp tục điều chỉnh cơ cấu cho vay đối với Việt Nam. Năm 1990, mức thu nhập bình quân là khoảng hơn 100 USD thì đến năm 2002 đã đạt thu nhập bình quân trên 400 USD và năm 2003 ước đạt gần 500 USD, đã đưa VN thoát khỏi tình trạng đói nghèo với thu nhập dưới 1 USD/ngày. Còn theo chỉ số phát triển HDI thì VN đã đạt mức của nước phát triển trung bình về nguồn lực con người. Ngay trong giai đoạn có khủng hoảng kinh tế khu vực, nước ta vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1996-2000 là gần 7%/năm. Đó là mức tăng trưởng cao thứ nhì trong khu vực, chỉ sau Trung Quốc. Trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, đã giảm mạnh số hộ trong tình trạng đói nghèo, tăng cường khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. 23. Những vấn đề còn tồn tại: Chúng ta vẫn còn nhiều yếu kém trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế chưa thật vững chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học, công nghệ, năng suất lao động thấp, giá thành nhiều sản phẩm còn cao so với khu vực và thế giới. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước dàn trải, hiệu quả chưa cao, thất thoát nhiều. Lãng phí trong chi tiêu ngân sách Nhà nước và tiêu dùng xã hội còn nghiêm trọng. Môi trường tự nhiên nhiều nơi bị hủy hoại, ô nhiễm nặng. Lĩnh vực dịch vụ phát triển chậm. Nội dung và các biện pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn chưa cụ thể. Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hóa cong nhiều vướng mắc. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, lao động chưa qua đào tạo vẫn là phổ biến, lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao. Hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa đủ sức vượt qua những khó khăn về cạnh tranh và thị trường. Việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc đẩy phát triển và vận hành hệ thống thị trường chưa đồng bộ, một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm, tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để. Cơ chế, chính sách về văn hóa- xã hội chậm đổi mới, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Kết quả xóa đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra. Nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt. Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yếu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật, xu hướng xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo lợi ích vật chất đơn thuần chưa được khắc phục. Quản lý Nhà nước đối với một số lĩnh vực trong giao dục, y tế, thể dục thể thao còn yếu kém. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng. Tai nạn giao thông gây nhiều thiệt hại về người và của. 3- Vận dụng lý luận về quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong việc vận dụng kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội của nhà nước trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta. 31- Đánh giá ảnh hưởng của các chính sách kinh tế và xã hội đối với sự nghiệp xây dựng đất nước từ 1976 đến nay. Từ thực tế nền kinh tế - xã hội giai đoạn trước đổi mới ( năm 1979 -1986) chúng ta thấy rằng do chưa đánh giá đúng về thực trạng nền kinh tế của đất nước: trong giai đoạn đó lực lượng sản xuất mới chỉ tương đương ở phương thức sản xuất phong kiến, chủ yếu là lao động thủ công, giản đơn, ruộng đất manh mún, máy móc cũ kỹ lạc hậu nhưng chúng ta lại xây dựng một quan hệ sản xuất “ tiên tiến” một cách giả tạo so với sự phát triển của lực lượng sản xuất do vậy đã kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất lại là cơ sở để hình thành nên các quan hệ về chính trị và tinh thần của xã hội hay kiến trúc thượng tầng của xã hội. Kiến trúc thượng tầng được sinh ra lại xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Do vậy, cả kiến trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất ( cơ sở hạ tầng) đã kéo tụt hậu sự phát triển kinh tế cũng như của xã hội. Thật vậy, toàn bộ nền kinh tế khi đó là chế độ tem phiếu, sản xuất theo kiểu tập trung bao cấp, xây dựng kế hoạch từ trên và phân bổ chỉ tiêu đến từng xí nghiệp, các xí nghiệp, hợp tác xã không cần phải cạnh tranh lẫn nhau và đến chất lượng sản phẩm chỉ cần sản xuất đủ chỉ tiêu là đạt, nền kinh tế trong nước theo kiểu tự cung tự cấp không giao thương buôn bán với nước ngoài cùng lắm chỉ giao dịch với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa . Chính vì chính sách kinh tế như vậy nên không những làm cho nền kinh tế kiệt quệ mà còn làm cho các mặt khác của đời sống xã hội cũng trở nên nghèo nàn hơn, vấn đề đối với nhân dân ta trong thời kỳ này chỉ là cơm ăn áo mặc còn tất cả các mặt khác không được quan tâm chú trọng như: với giáo dục – do cuộc sống đời thường chi phối nên các thầy cô giáo, học sinh ngoài việc lên lớp giảng bài, học bài còn phải làm thêm để duy trì cuộc sống nên không còn thời gian để nghiên cứu tìm hiểu mở rộng kiến thức. Nhiều học sinh giỏi sau khi đạt những giải thưởng cao quốc tế thì hầu như tìm đường ra nước ngoài vì ở đó họ mới có “đất dụng võ”, đời sống văn hoá thì nghèo nàn, nếu không phải dân thành phố thì chỉ mong đợi những đoàn kịch, đội chiếu phim di động để có thêm hiểu biết về thông tin văn hoá, tình trình chính trị bất ổn, bọn phản động nhân cơ hội tìm mọi cách chống phá Nhà nước còn non trẻ đang trong thời kỳ xây dựng và hoàn thiện cả về kinh tế lẫn chính trị. Nhiều xu hướng mê tín dị đoan trong quần chúng nhân dân, nhằm xoa dịu sự vất vả về mặt thể xác, đói nghèo của cuộc sống hàng ngày. Nhân dân mất lòng tin một cách nghiêm trọng vào chế độ chính trị, hàng loạt làn sóng vượt biên di cư ra nước ngoài. Không chỉ kinh tế tác động đến các mặt khác của đời sống xã hội mà ngược lại chính trị và pháp luật cũng tác động ngựoc trở lại làm kìm hãm thêm tiến trình phát triển kinh tế. Thật vậy, để bảo vệ chế độ phân phối tập trung theo tem phiếu nên tất cả mọi hoạt động kinh tế của cá thể, tư nhân bị cấm đoán và phạt rất nặng chẳng hạn như cấm giao thương hàng hoá từ tỉnh nọ sang tỉnh kia thậm chí chỉ với mục đích tiêu dùng cá nhân, buôn bán nhỏ lẻ, hàng xén cũng bị coi là phạm pháp. Các gia đình của chúng ta thời đó nhiều khi có cũng chẳng dám tiêu dùng, lúc nào cũng ở trong tình trạng lo sợ mình có phạm luật hay không. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận rằng với chính sách kinh tế và xã hội thời kỳ này các tệ nạn xã hội như ma tuý, mãi dâm, buôn lậu rất ít. Có thể nói là người dân sống thuần hơn, trong mỗi gia đình có thể tồn tại nhiều thế hệ và đạo đức con người được đề cao, tình cảm giữa những thành viên trong gia đình được gắn kết chặt chẽ hơn, quan tâm đến nhau hơn Phải thừa nhận rằng: trong giai đoạn đó chúng ta đã chưa đánh giá đúng được bản thân chúng ta và thực sự chưa hiểu hết được những nguyên lý, những lý luận khoa học trong chủ nghĩa Mác để vận dụng vào xây dựng và phát triển kinh tế. Chúng ta mới chỉ xem xét ở từng khía cạnh mà không xét đến quan hệ biện chứng giữa chúng. Chúng ta đã đi ngược lại quy luận vận động của xã hội, do vậy chúng ta đã trở thành nô lệ của tính tất yếu. Nhưng rất may bắt đầu từ năm 1986 đến nay Đảng và nhà nước ta cũng đã nhận thức được thực trạng của đất nước đồng thời cũng trên cơ sở nghiên cứu sự chuyển mình thành công của nước xã hội chủ nghĩa anh em- Trung Quốc cũng như sự sụp đổ không thể cưỡng lại của hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa trong đó bao gồm cả “ anh cả” hệ thống Xô Viết, đã có những chính sách kinh tế và xã hội có thể nói là phù hợp với lực lượng sản xuất vốn có của Việt Nam cũng như những đặc điểm riêng có của chúng ta nên giống như Trung Quốc chúng ta đã gặt hái được những thành công không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị, văn hoá, nhà nước Cụ thể là: với hàng loạt chính sách kinh tế như: +) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. +) Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Đa dạng chế độ sở hữu, cơ cấu kinh tế phải gồm nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. +) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đã làm cho không những nền kinh tế có sự chuyển mình rõ rệt mà tất cả các mặt khác của xã hội cũng vặn mình xoay theo guồng lái của kinh tế cụ thể các mặt là: + Chính trị: ổn định, Việt Nam được thế giới đánh giá là một trong những điểm đến an toàn và được khẳng định bằng việc được đăng cai tổ chức hàng loạt các cuộc họp quốc tế quan trọng như: APEC, cộng đồng các nước nói tiếng Pháp Nhân dân tin tưởng vào thể chế chính trị và nhà nước. + Văn hoá: Chúng ta được tiếp cận với hàng loạt luồng văn hoá tiến bộ từ các nền văn hoá khác nhau, dân trí phát triển, làm biến đổi văn hoá của Việt Nam ta. + Tôn giáo: nhiều loại hình tôn giáo du nhập vào Việt Nam, nhìn chung là tương đối phát triển đặc biệt là đạo Phật + Giáo dục: phát triển mạnh, số học sinh du học nước ngoài tăng cao và hầu hết là quay lại phục vụ đất nước Ngược lại nhờ có chính trị ổn định, dân trí tăng, con ngưòi thông minh nhanh nhậy, đã khuyến khích kinh tế phát triển do thu hút được làn sóng đầu tư mới, Việt kiều các nơi trên thế giới đã về nước để tìm cơ hội làm ăn nhờ đó mà kinh tế lại càng được thúc đẩy ngày một mạnh mẽ. Với những chính sách kinh tế mới, chính sách xã hội phù hợp với quy luật vận động của xã hội kích thích lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên như chúng ta đã nghiên cứu các quy luật xã hội khác với các quy luật tự nhiên là thường biểu hiện ra như những xu hướng, mang tính xu hướng chứ không phải bằng các dữ liệu đã biết ta có thể tính toán, đong, do đếm đựoc. Nên các chính sách của chúng ta nhiều khi chỉ đứng tiếp cận hoặc gần sát với quy luật chứ không thể chắc chắn là hoàn toàn đúng quy luật do vậy chúng ta không thể tránh đựoc những hạn chế do các chính sách đem lại mà chỉ hạn chế nó. Cụ thể chúng ta đã nghiên cứu và nhận thức được những nguyên nhân chủ yếu sau: Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực còn chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành, như các vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, xây dựng nền kinh tế độc lập vững chắc, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kính tế quốc tế, đổi mới chính sách, cơ chế quản lý giáo dục, y tế, văn hóa, đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt. Ba lĩnh vực được coi là ba khâu đột phá: xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đối mới cơ chế, chính sách; tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị và trọng tâm là cải cách hành chính. Ba khâu này cũng như việc xây dựng một số công trình trọng điểm lớn của quốc gia chưa được chỉ đạo tập trung, thực hiện thiếu tinh thần trách nhiệm. Hiệu lực quản lý nhà nước còn thấp trên một số lĩnh vực như quy hoạch, đất đai, xây dựng cơ bản, tài chính, ngân hàng, tài nguyên môi trường, sở hữu trí tuệ Công tác thanh tra, kiểm tra còn thiếu hiệu lực. 3.2- Vận dụng lý luận về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong việc kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội của Nhà nước trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta. Bản thân chúng ta cũng nhận thức rằng: xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Hơn nữa, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nhằm tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đồng thời gắn liền với phát triển kinh tế chúng ta phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dụng và bảo vệ tổ quốc. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cụ thể là nhà nước ta đã có hướng tác động vào kinh tế và xã hội như sau đặc biệt sau sự kiện ra nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO của nước ta: 1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, nhằm hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết. Trước hết tập trung vào: +) Soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực thi các luật mới ban hành, bảo đảm cụ thể, công khai, minh bạch phù hợp với nội dung của luật. +) Xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị trường cho mọi loại hàng hoá và dịch vụ. Đối với những mặt hàng hiện còn áp dụng cơ chế nhà nước định giá, phải xác định lộ trình thực hiện nhanh giá thị trường để các doanh nghiệp tính toán lại phương án sản xuất kinh doanh. +) Đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo đảm cho các ngân hàng thương mại thực sự là các đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các khoản vay và cho vay trên cơ sở hiệu quả, không có sự phân biệt đối xử về hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường đất đai và bất động sản, tạo bước đột phá trong hoạt động của thị trường này. Cải cách chế độ kế toán và tài chính doanh nghiệp theo chuẩn mực quốc tế. +) Xây dựng các biện pháp hỗ trợ đối với một số lĩnh vực, sản phẩm đi  đôi với việc loại bỏ các hình thức trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp gắn với tỷ lệ nội địa hoá phù hợp với các cam kết của ta trong Tổ chức thương mại thế giới. +) Hoàn thiện cơ chế và tổ chức quản lý cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm phù hợp để bảo vệ thị trường nội địa và người tiêu dùng; +) Kết hợp chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ, sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất,  hạn mức tín dụng, tỷ giá ... để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nâng cao chất lượng của công tác thông tin, dự báo về thị trường, giá cả, quan hệ cung c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8986.doc
Tài liệu liên quan