Các giải pháp và đề xuất chính sách để thực hiện mục tiêu kế hoạch thời kì 2006 - 2010

LỜI MỞ ĐẦU 1

Phần I: Lí luận về kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2

1. Cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2

1.1. Cơ cấu ngành kinh tế 2

1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 4

2. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 6

2.1. Khái niệm 6

2.2. Nhiệm vụ 6

2.3. Vai trò trong hệ thống kế hoạch hoá 6

2.4. Nội dung kế hoạch 6

Phần II : Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 13

I.Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 13

1. Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch thời kì 2000-2005 13

2. Các nhân tố tác động đến kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 14

3. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 17

II. Đánh giá sơ bộ tình hình thực hiện kế hoạch qua 2 năm 2006,2007 20

1. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế năm 2006,2007 20

1.1. Năm 2006 20

1.2. Năm 2007 22

2. Phân tích nguyên nhân 23

3. Dự kiến khả năng thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 24

Phần III : Các giải pháp và đề xuất chính sách để thực hiện mục tiêu kế hoạch thời kì 2006-2010 25

I.Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành cho 3 năm còn lại thời kì 2006-2010 25

II.Các giải pháp và đề xuất chính sách 25

KẾT LUẬN 27

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 28

 

 

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp và đề xuất chính sách để thực hiện mục tiêu kế hoạch thời kì 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch cơ cấu ngành kinh tế có vai trò làm cơ sở để định hướng sự phát triển, xác định các chỉ tiêu cụ thể cần đạt được trong thời kì kế hoạch. Từ đó đề ra các giải pháp, phương án thực hiện. c. Xác định các chỉ tiêu kế hoạch Các chỉ tiêu Vì cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỉ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên khi đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần chú ý cả những quan hệ tỉ lệ về mặt lượng cũng như phân tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi) của các mối tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá, không thể không chú ý tới những đặc điểm riêng cuả mỗi loại cơ cấu kinh tế. Đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô bao gồm: cơ cấu GDP, cơ cấu lao động, cơ cấu vốn Các phương pháp tiếp cận. Phương pháp tiếp cận theo mô hình I/O Mô hình này nghiên cứu những mối quan hệ tỷ lệ cân đối đặc trưng cho việc phân phối sản phẩm giữa các ngành và mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm và chi phí để sản xuất ra những sản phẩm này. Nguyên lí của mô hình: đứng trên góc độ phân tích sự giao lưu của sản phẩm hàng hoá từ khi ra đời, chuyển từ ngành này sang ngành khác và đi vào tiêu dùng cuối cùng. Ngành sử dụng Ngành sản xuất Sử dụng cuối cùng TSP sử dụng 1 2 3 … N Tổng cộng 1 x11 x12 x13 … x1n Y1 X1 2 x21 x22 x23 … x2n Y2 X2 3 x31 x32 x33 … x3n Y3 X3 … … … … … … … … … n xn1 xn2 xn3 … xnn Yn Yn Tổng cộng ∑xj1 ∑xj2 ∑xj3 … ∑xjn = Giá trị gia tăng VA1 VA2 VA3 … VAn = Tổng chi phí X1 X2 X3 … Xn Việc phân phối sản phẩm trong nền kinh tế được đặc trưng bằng quan hệ tỷ lệ: Xi = xi1+ xi2+xi3+…+xin+yi (i = 1,2,…, n) (1) Trong đó: Xi : Tổng sản phẩm của ngành i xij : Khối lượng sản phẩm ngành i tiêu dùng cho sản phẩm ngành j với tư cách là chi phí trung gian. Yi : Khối lượng sản phẩm cuối cùng của ngành i Tổng số xij phản ánh khối lượng sản phẩm ngành i sẽ tiếp tục chế biến trong các ngành sản xuất, lượng sản phẩm này được gọi là sản phẩm trung gian. Sản phẩm cuối cùng (Yi) là những sản phẩm được đưa ra khỏi sản xuất hàng năm được dùng để bù đắp hào mòn, sử dụng cho tiêu dùng, tích luỹ và khối lượng chênh lệch xuất-nhập khẩu. Khi xây dựng mô hình I/O người ta thường giả thiết rằng khối lượng sản phẩm của ngành i tiêu dùng cho ngành j tỷ lệ thuận với khối lượng sản phẩm của ngành j: xij = aij Xj ( i,j = 1,2,…,n) (2) Trong đó: aij là hao phí trực tiếp sản phẩm ngành i để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm ngành j – được gọi là hệ số hao phí trực tiếp. Hợp nhất phương trình (1) và (2) sẽ có: Xi = aij Xj + Yi (i = 1,2,…,n) Dưới dạng ma trận có thể viết: X = AX + Y Và lời giải sẽ là: X = (E – A)-1. Y Trong đó: E: ma trận đơn vị A: ma trận hệ số chi phí trực tiếp Y: véc tơ sản phẩm cuối cùng Như vậy, để xác định cơ cấu ngành của nền kinh tế người ta thường dựa vào kế hoạch về sản phẩm cuối cùng của các ngành với hệ số hao phí trực tiếp phù hợp với trình độ kĩ thuật của từng ngành. Phương pháp ngoại suy (thống kê thực nghiệm) Xác định xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành qua các năm : dựa vào sự thay đổi tỉ trọng từng ngành (TLi) Xác đinh xu thế tăng trưởng kinh tế của từng ngành qua các năm : dựa vào sự thay đổi trong tăng trưởng kinh tế của từng ngành (g) Phương pháp được sử dụng: OLS. Trên cơ sở tính toán cho 2 nhóm ngành ta xác định được nhóm ngành thứ 3 dựa vào kết quả của 2 nhóm ngành trên. d.Các giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Thứ nhất, đối với nhóm ngành có năng lực cạnh tranh. Đây là các ngành có lợi thế so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguồn lao đông, chủ yếu là ngành nông nghiệp-thuỷ sản như gạo, cà phê, điều, chè , cao su tự nhiên, thuỷ sản và các ngành công nghiệp dệt may, da dầy. Tuy nhiên lợi thế cuả những ngành này về giá rẻ đang bị thu hẹp dần sau khủng hoảng tài chính khu vực với sự mất giá các đồng bản tệ ở nhiều nước. Cũng có nguy cơ những lợi thế so sánh này tiếp tục bị giảm sút trong những năm tới khi các nước trong khu vực phục hồi được nền kinh tế. Đây là nhóm ngành ít bị ảnh hưởng của việc hội nhập quốc tế, mà ngược lại còn có cơ hội tốt để mở rộng thị trường quốc tế với nhu cầu tiêu dùng tương đối ổn định (đa số các mặt hàng là tiêu dùng hàng ngay). Tuy nhiên, giá trị gia tăng được tạo ra trong nhóm ngành hàng này không cao, do đó cần chú ý giảm giá thành sản phẩm. Để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường đối với những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, việc chuyển dịch cơ cấu của từng ngành hàng trong nhóm này cần tập trung vào những công việc sau: Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường, đảm bảo thị trường lâu dài có quy mô thích hợp. Xây dựng hệ thống thông tin, dự báo sự biến động của thị trường. Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại đối với từng mặt hàng. Hoàn thiện hệ thống chính sách thương mại và cơ chế điều hành xuất nhập khẩu theo hướng hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính đơn thuần; đơn giản hoá và rút ngắn thời gian làm các thủ tục liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Nâng cấp hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hệ thống dịch vụ chuyên môn có liên quan như ngân hàng, tư vấn quản lí và tư vấn pháp luật. Nâng cao công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, dịch vụ. Chú trọng tính chất đồng bộ trong đầu tư giữa các khâu sản xuất, chế biến, cung cấp nguyên liệu. Việc cắt giảm thuế quan có thể tiến hành với tốc độ nhanh, trong thời gian ngắn với nguyên tắc hàng sơ chế chịu thuế quan thấp hơn hàng chế biến; Nguyên liệu chịu thuế thấp hơn thành phẩm; nhưng mức chênh lệch thuế này là thấp. Thứ hai, đối với nhóm ngành hàng có khả năng cạnh tranh trong tương lai với điều kiện được hỗ trợ có thời gian và tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh. Đây là nhóm ngành hàng trước mắt còn gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với hàng nhập khẩu, nhưng có khả năng nâng cao được cạnh tranh nếu hiện tại được hưởng những hỗ trợ nhất định. Đa số trong nhóm này là các ngành công nghiệp chế biến như rau quả-thực phẩm chế biến, điện-điện tử, cơ khí, hoá chất, xi măng. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nhóm mặt hàng này, giữ vững và mở rộng thị phần trong nước so với mặt hàng nhập khẩu, cần xác định đúng hướng phát triển và áp dụng các biện pháp hỗ trợ thích hợp, kịp thời cùng với mức độ bảo hộ hợp lí, các giải pháp cần thực hiện là: Xây dựng chiến lược phát triển dựa trên cơ sở phân tích các thế mạnh cũng như điểm yếu hiện có so với sản phẩm nhập khẩu. Hỗ trợ đổi mới công nghệ, chú trọng đầu tư chiều sâu. Thành lập trung tâm công nghệ ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển đối với sản phẩm mới thông qua các trung tâm công nghệ, các tổng công ty và doanh nghiệp. Thực hiện chế độ bảo hộ ở mức trung bình đối với các ngành như hoá chất, xi măng…và bảo hộ cao với điện-điện tử, cơ khí. Cải thiện môi trường đầu tư để mở rộng khả năng thu hút vốn từ nhiều nguồn, cả nguồn trong nước và nước ngoài như miễn thuế đối với máy móc, thiết bị xây dựng cơ bản hình thành dự án, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô cho các dự án thuộc khu vực khuyến khích. Thực hiện yêu cầu nội địa hoá thông qua biện pháp thuế quan, đơn giản hoá thủ tục hải quan, rút ngắn thời hạn cấp giấy phép đầu tư, cải tiến thủ tục cấp giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài. Khu vực dịch vụ nói chung cũng có thể xếp vào nhóm ngành có khả năng cạnh tranh có điều kiện. Mặc dù có những điểm chung như chú trọng công tác đào tạo, nâng cao kĩ năng quản lí và lao động, áp dụng những tiêu chuẩn vào thông lệ quốc tế…Nhưng việc chuyển dịch cơ cấu có những đặc thù riêng. Một số lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi nhiều vốn, công nghệ hiện đại; một số mang tính độc quyền cao; một số lại nhạy cảm với các vấn đề chủ quyền quốc gia và bản sắc dân tộc…Do vậy. cần có những nghiên cứu cụ thể, trước hết là những lĩnh vực dịch vụ đã cam kết hợp tác trong ASEAN : hàng không, kinh doanh dịch vụ, tài chính, vận tải biển, viễn thông và du lịch. Thứ ba, đối với những nhóm ngành hàng hiện đại, khả năng cạnh tranh thấp, đây chủ yếu là những ngành hàng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại là ít phụ thuộc vào lao động và điều kiện tự nhiên. Hiện tại với nguốn vốn hạn chế, công nghệ lạc hậu là những khó khăn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm như công nghiệp giấy, đường, luyện kim, hoá chất. Do đó, những ngành thuộc nhóm này cần có những biện pháp thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu. Trước mắt tập trung vào: Đầu tư đồng bộ các ngành sản xuất cụ thể để có thể sản xuất được các thiết bị chính xác. Đào tạo đội ngũ cán bộ kĩ thuật có trình độ cao và công nhân lành nghề. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ tiên tiến. Duy trì bảo hộ ở mức thấp. Phần II : Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 I.Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 1. Phân tích thực trạng thực hiện kế hoạch thời kì 2000-2005 Trong 5 năm qua đã có sự chuyển dịch quan trọng về cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành. Cụ thể : Đơn vị tính: % Chỉ tiêu 1995 2000 2005 Cơ cấu ngành kinh tế (GDP) 100 100 100 Trong đó: Nông, lâm, thuỷ sản 27.2 24.5 20.89 Công nghiệp, xây dựng 28.8 36.7 41.04 Dịch vụ 44.0 38.8 38.07 Đến năm 2005, tỷ trọng trong GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm xuống còn 20.89%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng lên 41.04%; khu vực dịch vụ 38.07%. Sự tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ đã tạo nên sự thay đổi đáng kể cơ cấu kinh tế. Bước đầu đã hình thành được một số ngành, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu khí, sản xuất thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ôtô xe máy… Trong từng ngành đã có chuyển dịch cơ cấu, gắn sản xuất với thị trường, nâng cao hiệu quả; chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đạt được nhiều kết quả. Tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đã tăng lên trong cơ cấu lao động xã hội. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp đã có chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từng bước hiện đại hoá, phát huy lợi thế của từng ngành, từng sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm công nghiệp đã được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị tăng thêm. Ngành công nghiệp chế biến đã bước đầu khai thác được các lợi thế về nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể, tỷ trọng công nghiệp chế biến trong giá trị gia tăng của công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 50.5% năm 2000 lên 51% năm 2005; tỷ trọng các ngành công nghiệp khai thác giảm từ 26.3% xuống còn 25%; tỷ trọng các ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước giảm từ 8.6% xuống 8.4%; tỷ trọng ngành xây dựng tăng từ 14.6% lên 15.8%. Cơ cấu khu vực dịch vụ có những chuyển hướng tích cực. Các ngành dịch vụ tryền thống như thương nghiệp, vận tải,bưu chính-viễn thông, khách sạn, nhà hàng phát triển khá. Đặc biệt, một số ngành dịch vụ có tỷ lệ chi phí trung gian thấp như ngân hàng, bảo hiểm… đã phát triển khá nhanh, góp phần làm cho giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng cao nhất là 2005. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn một số tồn tại. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành chưa thật gắn kết chặt chẽ với các quy hoạch, chiến lược tổng thể có tầm nhìn xa, với lộ trình hợp lí, chưa phát huy tốt thế mạnh trong từng ngành. Nhìn chung, chuyển dịch cơ cấu trong 5 năm qua còn chậm, một phần vẫn được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ của riêng các ngành và địa phương. Vì thế, quy hoạch tổng thể thường bị phá vỡ, cơ cấu chuyển dịch chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển bền vững. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ chú trọng nhiều đến việc tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP, chưa quan tâm đúng mức tới yêu cầu chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hoá, phát triển mạnh công nghiệp và kĩ thuật tiên tiến trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Nhiều cơ sở công nghiệp có công nghệ lạc hậu, chi phí lớn, hiệu quả kinh tế thấp và đòi hỏi bảo hộ cao. Trong một số lĩnh vực vẫn tồn tại xu hướng phát triển hướng nội, nhằm vào một số ngành được bảo hộ. Điều này có nguy cơ làm hạn chế khả năng cạnh tranh trong tương lai của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại còn ít. Trong công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp chiếm tỉ trọng khá lớn; tốc độ đổi mới công nghệ trong hầu hết các ngành công nghiệp còn chậm và đang ở mức trung bình là phổ biến. Cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn chưa có chuyển biến rõ rệt. Chưa tạo được nhiều việc làm cho lao đông ở nông thôn. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa yếu, vừa thiếu và kém hiệu quả, nhất là thiếu các ngành công nghiệp bổ trợ. Tỷ trọng dịch vụ trong tổng sản phẩm trong nước vẫn còn thấp và chậm được cải thiện. Cơ cấu nội bộ các ngành trong lĩnh vực dịch vụ ít thay đổi, đặc biệt là các ngành dịch vụ có tỉ lệ chi phí trung gian thấp phát triển vẫn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm. 2. Các nhân tố tác động đến kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 Bước vào kế hoạch 5 năm 2006-2010 trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và toàn diện hơn, tình hình quốc tế và trong nước sẽ có những tác động rất mạnh đến sự phát triển kinh tế, xã hội nước ta. Theo dự báo những yếu tố thuận lợi mới sẽ xuất hiện, tạo ra nhiều cơ hội lớn để phát triển; đồng thời cũng đan xen nhiều khó khăn, thử thách lớn cần phải vượt qua. a. Những thuận lợi và cơ hội Ở trong nước, thành tựu của 5 năm qua (2000-2005) và 20 năm đổi mới (1986-2005) làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên rất nhiều; sự ổn định chính trị, kinh tế và xã hội tiếp tục được giữ vững, tạo niềm tin cho toàn dân, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế đã bước đầu hình thành và vận động có hiệu quả. Những thể chế, cơ chế chính sách đã ban hành từng bước đi vào cuộc sống, phát huy tính tích cực, thu hút mạnh hơn các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội; nguồn nội lực đã được khai thác cao; do đó đã có điều kiện chủ động đầu tư hướng vào các mục tiêu then chốt, nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tư duy kinh tế tiếp tục được đổi mới, thể hiện ở nhiều Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng khoá IX và ở các văn kiện đại hội X của Đảng, tạo điều kiện thuận lợi để hoạch định các cơ chế, chính sách thông thoáng hơn trong việc thu hút các nguồn lực và cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng CNH-HĐH; phát huy thế mạnh của từng ngành bước đầu đã được phát huy; chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành đã có những cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đang thích nghi ngày càng tốt hơn với thị trường quốc tế. Đặc biệt, lĩnh vực dịch vụ còn dư địa rất lớn để phát triển vượt trội, tạo điều kiện tăng nhanh hiệu quả và sức cạnh tranh của các sản phẩm và toàn nền kinh tế. Quan hệ kinh tế quốc tế được củng cố và phát triển, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã đứng vững trên nhiều thị trường và có triển vọng sẽ được mở rộng. Việc tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các hiệp định thương mại song phương và đa phương, trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO…sẽ tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh, tạo ra thế phát triển mới cho đất nước. Bên cạnh đó, những kết quả đạt được trong tiến trình cải cách hành chính thời gian qua nhất là cải cách thể chế kinh tế, đổi mới bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ… sẽ có những tác động tích cực trong việc chỉ đạo điều hành điều hành thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và nâng cao chất lượng chuyển dịch. Ở ngoài nước, tình hình thế giới và khu vực có thể có những diễn biến phức tạp nhưng dự báo chiều hướng chung về cơ bản sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế nước ta Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo của thế giới và khu vực. Kinh tế thế giới có khả năng duy trì được tốc độ phát triển như thời gian qua, trong đó Châu Á- Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động nhất. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục phát triển mạnh theo chiều sâu, tác động rộng lớn đến việc cơ cấu lại nền kinh tế thế giới theo khă năng tiếp thu trình độ công nghệ cuả mỗi nền kinh tế và theo đó là sự phân công lao động toàn cầu. Phát triển nền kinh tế tri thức sẽ tiếp tục là ưu tiên trong chính sách của nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển, tạo cơ hội cho nước ta tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tự do thương mại sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, lao động và vốn ngày được mở rộng. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho nước ta mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế toàn diện, khai thác lợi thế so sánh, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát huy tốt hơn nội lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước. b. Những khó khăn, thử thách Ở trong nước, khó khăn lớn nhất hiện nay là sức cạnh tranh và khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế còn yếu so với yêu cầu và so với thế giới, trong khi đó lộ trình thực hiện đầy đủ các cam kết APTA, WTO và các hiệp định quốc tế khác đang và sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh rất lớn. Quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, thu nhập thấp hạn chế sức bật đối với sản xuất và phát triển thị trường. Nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới còn rất lớn. Cơ cấu sản xuất trong từng ngành chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu, năng lực tiếp nhận chuyển giao công nghệ còn hạn chế. Hệ thống tài chính, tiền tệ chưa hoàn thiện và còn nhiều rủi ro. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn; công tác cải cách hành chính được tiến hành chậm; tình trạnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lí cuả nhà nước còn hạn chế; những yếu kém này nếu chậm được giải quyết sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện kế hoạch 5 năm tới. Ở ngoài nước, tình hình thế giới còn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, khó lường. Xung đột cục bộ, khủng bố và những bất ổn vẫn có thể xảy ra đối với một số khu vực, ảnh hưởng đến an ninh toàn cầu. Các nước phát triển cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào cản thương mại với các nước nghèo và các nước đang phát triển. Đây là một thách thức lớn cho các nước chậm phát triển và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hoá sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, nhất là sức ép đối với những nước có trình độ phát triển còn thấp như nước ta. Sự cạnh tranh kinh tế, thương mại, thu hút vốn đầu tư và công nghệ càng trở nên gay gắt. Các thị trường tài chính, tiền tệ sẽ có nhiều diễn biến phức tạp. Giá cả của một số mặt hàng chủ yếu trên thị trường thế giới như năng lượng, nguyên liệu…có tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu sẽ có những đột biến và phản ánh dây chuyền bất lợi đối với các nước có nền kinh tế nhỏ, kém phát triển. Chính sách tỉ giá, lãi xuất của các nước lớn đều có những tác động rất mạnh đến kinh tế nước ta. Ngoài ra, các vấn đề mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo…sẽ trở nên gay gắt hơn, tác động không thuận đến sự phát triển kinh tế, xã hội nước ta. 3. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kì 2006-2010 Mục tiêu: Tạo bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Định hướng: 1- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; phấn đấu giá trị tăng thêm trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3 - 3,2%/năm. Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện các giải pháp đồng bộ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, nhất là: đưa nhanh khoa học và công nghệ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài. 2- Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá Phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu và quy mô để phát triển công nghiệp và xây dựng với cơ cấu ngành nghề phù hợp với nguồn lực, lợi thế và thị trường ở các vùng, các địa phương. Nâng cao sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản phẩm công nghiệp và xây dựng. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và bảo vệ môi trường. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm trong công nghiệp và xây dựng 10 - 10,2%/năm. Xây dựng và thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tập trung nguồn lực phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Chú trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường. 3- Tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP, phấn đấu đạt 7,7 - 8,2%/năm. Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, như vận tải, thương mại, du lịch, ngân hàng, bưu chính - viễn thông. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Mở rộng các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. 4. Hệ thống các chỉ tiêu Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến: Nông-lâm nghiệp và thuỷ sản khoảng 15-16%, công nghiệp và xây dựng khoảng 43-44%, các ngành dịch vụ khoảng 40-41%. 5. Giải pháp cơ bản Khai thác mọi nguồn lực trong nước để đầu tư, huy động mạnh mẽ các nguồn lực từ bên ngoài.Tập trung nguồn lực để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng theo hướng hiệu quả. Phát huy, khai thác lợi thế tự nhiên, kinh tế của từng ngành, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước. Thực hiện các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản lý. Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào trong sản xuất. Ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tạo môi trường kinh tế, xã hội, môi trường pháp lí bình đẳng và thông thoáng cho phát triển doanh nghiệp. Mở của đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình cam kết với WTO. Phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn để tạo việc làm, tăng thu nhập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn. Phát triển thị trường tiêu thụ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, làm cơ sơ cho việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn có hiệu quả. Xây dựng chương trình phát triển công nghiệp phục vụ cho quá trình chuyển dịch này. Nhà nước hỗ trợ đầu tư phát triển những sản phẩm quan trọng mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư, đồng thời lựa chọn đầu tư hoặc có chính sách thu hút nước ngoài đầu tư một s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0088.doc
Tài liệu liên quan