Cho vay tiêu dùng và bao thanh toán

Dịch vụ bao thanh toán rất quan trọng đối với nhà sản xuất, nh ất là những đơn

vị chuyên làm hàng xuất khẩu. Đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO, mởrộng

giao lưu thương mại với nhiều quốc gia trên thếgiới thì vấn đềthanh toán quốc tế

lại càng được coi trọng hơn . Hiện nay các nhà nhập khẩu quy mô, ưu thếthường

chỉchấp nhận hình thức trảsau và từchối yêu cầu mởL/C của nhà xuất khẩu. Điều

này sẽkhiến các doanh nghiệp VN mất đơn hàng xu ất khẩu, nếu không có khảnăng

vềvốn. Công cụbao thanh toán sẽgiúp doanh nghiệp áp dụng phương thức bán

hàng trảchậm nhưng vẫn an toàn. Từđó, khảnăng cạnh tranh và mối quan hệcủa

doanh nghiệp với các nhà nh ập khẩu sẽphát triển hơn.

pdf35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1939 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cho vay tiêu dùng và bao thanh toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ồ ạt như hiện nay, rất cần kiểm tra tình hình, đánh giá thực trạng tín dụng tiêu dùng của các NH để đưa ra các cảnh báo và quy định điều chỉnh (nếu cần thiết) nhằm đảm bảo lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của hệ thống NH cũng như lợi ích của cá nhân vay vốn tín dụng tiêu dùng Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 12 2.Thực trạng cho vay tiêu dùng của các NHTM 3. Đánh giá thời cơ và thách thức a.Thời cơ * Nhu cầu tiêu dùng trong nền kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam khá cao và GDP bình quân đầu người đang tăng lên Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tốc độ tăng trưởng(%) 7,04 7,34 7,69 8,4 7,8 8,48 6,23 5,32 GDP bình quân đầu người(USD) 439 481 514 638 754 835 960 Dân số Việt Nam hiện nay là 85,8 triệu người, với cơ cấu dân số trẻ: lực lượng lao động chiếm khoảng 2/3 dân số. Theo dự báo của Bộ Thương mại: chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người trên tháng tại Việt Nam 2006-2010 tăng khoảng 10,57%/năm, đến năm 2010 thì chỉ tiêu này đối với cả nước là 657800 đ/người/tháng, với khu vực thành thị là 1054700đ/người/tháng * Mặt khác ,tuy có nhu cầu lớn về hàng tiêu dùng nhưng khách hàng không có đủ khả năng tài chính . Theo đánh giá của Techcombank, nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm gia dụng như TV, tủ lạnh, máy giặt, xe máy… là rất lớn do sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và tốc độ cải thiện mức sống. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể có khả năng tài chính để đáp ứng ngay các nhu cầu này. Đối với dân cư, đặc biệt là thế hệ trẻ và người thu nhập thấp, họ không thể đợi cho đến già mới tiết kiệm đủ tiền để mua nhà, mua ôtô và các đồ dùng gia đình khác. Tín dụng tiêu dùng giúp họ có được một cuộc sống ổn định ngay từ khi còn trẻ, bằng việc mua trả góp những gì cần thiết, tạo cho họ động lực to lớn để làm việc, tiết kiệm, nuôi dưỡng con cái Các lĩnh vực đang có tiềm năng phát triển sáng sủa: Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 13 + Ô tô: ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ xe ô tô mới đạt 8 xe/1000 dân trong khi đó tại Trung Quốc là 24 xe/1000 dân, Thái Lan là 152 xe/1000 dân. Với đà tăng trưởng kinh tế và lộ trình giảm thuế khi gia nhập WTO thì chắc chắn nhu cầu mua ô tô sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới. +Nhà đất: theo quy hoạch tổng thể định hướng phát triển đô thị đến năm 2020 dân số đô thị sẽ chiếm 45% dân số cả nước, dẫn đến nhu cầu nhà ở nhất là ở các thành phố trung tâm sẽ tăng cao. +Lĩnh vực du học: cùng với sự nâng cao mức sống và dân trí, nhu cầu nhập khẩu dịch vụ du học càng tăng cao, nhu cầu vay vốn để du học theo đó cũng sẽ tăng * Cơ chế chính sách đang có những thay đổi có tác động tích cực đến việc phát triển cho vay tiêu dùng: Từ giữa năm 2008, khi lạm phát tăng cao và lãi suất biến động mạnh, các ngân hàng thương mại thắt chặt cho vay tiêu dùng. Sau nhiều khuyến nghị từ các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước, ngày 23/1/2009, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Đồng Tiến đã ký ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN, hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Văn bản trên chính thức tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại nối lại và thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng, một hoạt động đã bị siết chặt trong hơn nửa năm trước đó. Hiện Bộ Công Thương đang soạn thảo đề án “Hỗ trợ mua sắm, kích cầu tiêu dùng hàng hóa sản xuất trong nước”. Theo dự thảo này, một đối tượng chiếm tỷ lệ lớn trong xã hội là nông dân sẽ được Chính phủ cho vay với lãi suất ưu đãi để mua hàng trả góp, trả chậm không tính lãi. Chương trình này đề nghị cho phép sử dụng hình thức tín chấp cho người dân nông thôn vay ưu đãi hoặc thế chấp bằng tài sản được mua. * Cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ chuyên môn của hệ thống ngân hàng ngày càng được nâng cao và hoàn thiện hơn giúp cho ngân hàng có thể đánh giá khách hàng , kiểm soát các khoản vay tốt hơn. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 14 b.Thách thức Hiện nay dư nợ cho vay tiêu dùng bình quân khoảng 900.000 đồng/người, so với thu nhập quốc dân bình quân đầu người khoảng 17 triệu đồng là rất thấp. Tương tự, tỷ lệ cho vay tiêu dùng chỉ chiếm 6,54%/tổng dư nợ cho vay nền kinh tế là quá thấp, hoặc tỷ lệ 4 người trưởng thành mới có 1 tài khoản ở NH. Điều này cho thấy phần lớn người VN không có quan hệ với NH, nó cũng chứng tỏ hệ thống thanh toán món nhỏ, lẻ còn rất sơ khai và chi trả tiền mặt của dân cư là rất lớn kể cả tiền điện, nước, điện thoại, học hành, chữa bệnh. Việc phát triển mở rộng dịch vụ cho vay tiêu dùng của các NHTM còn gặp phải nhiều khó khăn thách thức: * Mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch ngân hàng còn chưa rộng khắp, chủ yếu tập trung ở Hà Nội, TP HCM. Ở nhiều nước châu Âu và các thành phố lớn châu Á, bình quân từ 1.000 đến 1.500 dân có một chi nhánh NHTM là để phát triển hệ thống NH bán lẻ (tín dụng tiêu dùng) trong khi ngay cả TP.HCM và Hà Nội hiện nay bình quân từ 8.800 đến 10.000 dân mới có một chi nhánh hoặc điểm giao dịch NH. * Mặc dù nhu cầu vay tiêu dùng không nhỏ nhưng số lượng người tiêu dùng đáp ứng được các yêu cầu vay vốn còn ít. Nguyên nhân là do người tiêu dùng không có hộ khẩu hoặc không chứng minh được nguồn thu. Lãi suất cho vay tiêu dùng hiện ở mức khá là cao: phổ biến ở mức 16 - 21% và điều kiện cho vay ngặt nghèo. Một số công ty tài chính có “cửa" vay thông thoáng hơn thì lãi suất lên tới… trên 30%, và không phải khách hàng nào cũng đủ điều kiện tiếp cận vốn. * Hệ thống quản lý thông tin cá nhân còn kém phát triển, và còn bởi một phần tâm lý e ngại tiết lộ thông tin của người dân dẫn đến việc ngân hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin cá nhân của khách hàng. * Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện: một số quy định pháp luật và cơ chế quản lý trong nhiều lĩnh vực ví dụ như thủ tục cấp sổ đỏ, cấp đăng kí xe ô tô…còn khó khăn, phức tạp, gây tâm lý e ngại cho người tiêu dùng và khó khăn cho ngân hàng trong việc xác định tài sản đảm bảo. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 15 * Môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển ổn định: giá cả hàng hóa, nhà đất, ô tô thay đổi biến động liên tục. Lãi suất cũng lên xuống thất thường, trong khi các khoản vay tiêu dùng chủ yếu là trung dài hạn. * Môi trường VH-XH: + Tâm lý của người dân vẫn e ngại vay nợ ngân hàng, thường vay anh em họ hàng hoặc ngoài chợ đen. +Thói quen dùng tiền mặt mà chưa quen thanh toán bằng thẻ, qua Internet. Ít doanh nghiệp trả lương qua tài khoản (trong khi đây là điều kiện bắt buộc với một số hình thức cho vay) B. Bao thanh toán 1. Khái niệm Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua việc mua lại các akhoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá đã được bên bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và bên mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ thoả thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Về cơ bản, bao thanh toán là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay được đảm bảo bằng cách nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay. 2.lợi ích của bao thanh toán ** Về phía người bán - Người bán có thể thu tiền ngay thay vì phải đợi tới kỳ hạn thanh toán theo hợp đồng. - Tăng lợi thế cạnh tranh khi chào hàng với các điều khoản thanh toán trả chậm mà không ảnh hưởng đến nguồn vốn kinh doanh của mình. - Được sử dụng khoản phải thu đảm bảo cho tiền ứng trước, do đó tăng được (một cách gián tiếp) nguồn vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 16 - Chủ động trong việc lập kế hoạch tài chính vì dự đoán được dòng tiền vào. - Tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo dõi thu hồi các khoản trả chậm này. - Tiện ích của dịch vụ BTT rất quan trọng đối với nhà sản xuất, bởi hiện nay các nhà nhập khẩu qui mô, ưu thế chỉ chấp nhận hình thức trả sau và từ chối yêu cầu mở L/C của nhà xuất khẩu. Điều này sẽ khiến các DN VN dễ mất đơn hàng xuất khẩu nếu không có khả năng về vốn. Còn nếu chấp nhận hình thức trả sau, DN sẽ khó khăn trong việc quay vòng vốn, nhất là những đơn vị xuất khẩu các mặt hàng luôn biến động giá như cà phê, gạo, tiêu . . . Trong khi đó, NH cũng không dễ cho DN kéo dài thời gian thanh toán nếu thanh toán theo phương thức trả sau. Vì thế, dịch vụ BTT xuất khẩu ra đời sẽ giúp DN giải quyết được những khó khăn này. - Đa phần các DN vừa và nhỏ rất thích dịch vụ BTT, bởi thông thường những DN này có tổng tài sản không lớn nên rất khó để NH xem xét các hạn mức tín dụng. Với BTT họ dễ dàng được cấp hạn mức tín dụng hơn. - Các DN khi đã biết về dịch vụ bao thanh toán thường rất thích sử dụng vì BTT có nhiều hình thức khác nhau, rất đa dạng để phục vụ cho các DN. Các DN có thể sử dụng các hình thức như : BTT chiết khấu hóa đơn, BTT trung gian, BTT đến hạn, BTT thu hộ, BTT truy đòi, BTT miễn truy đòi. - Phạm vị hoạt động BTT cũng rất đa dạng : Về địa lý thì có BTT trong nước và BTT quốc tế; Trong hoạt động xuất nhập khẩu thì có BTT xuất khẩu và BTT nhập khẩu; Có BTT số lượng hóa đơn của người bán hoặc BTT toàn bộ hay BTT một phần; Có BTT kín và BTT công khai... Khách hàng có thể sử dụng BTT trực tiếp và BTT hệ hai đại lý, hay khách hàng cũng có thể sử dụng liên kết của các hợp đồng BTT với BTT giáp lưng. Phương thức BTT từng lần hoặc BTT theo hạn mức. ** Về phía NH - Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng - So với việc cấp hạn mức tín dụng,NH thích làm dịch vụ BTT hơn. Vì nếu cấp vốn lưu động cho DN, NH phải giám sát rất vất vả, trong khi với BTT các Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 17 khoản phải thu rất rõ, việc sử dụng cũng đã rõ, các DN đã chứng minh với NH về uy tín trên thị trường khi đã bán được hàng. Có thể nói , bao thanh toán là loại dịch vụ cả hai bên cùng có lợi. Nhưng DN có lợi hơn NH. Khi cung cấp dịch vụ này NH phải gánh chịu về mình những rủi ro khi người mua mất khả năng thanh toán. Do vậy, NH phục vụ người bán, nhà xuất khẩu, nếu không chắc chắn về khả năng tài chính của người mua thường hay tư vấn cho khách hàng của mình tới NH phục vụ người mua, nhà nhập khẩu yêu cầu dịch vụ bao thanh toán. Những NH thực hiện dịch vụ BTT cần tính toán kỹ lưỡng đối với những mặt hàng nhiều rủi ro như nông sản, thực phẩm 3.Phân loại bao thanh toán * Bao thanh toán truy đòi và bao thanh toán không có quyền truy đòi: - Bao thanh toán truy đòi: đơn vị bao thanh toán có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. - Bao thanh toán không có quyền truy đòi: đơn vị bao thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng như thoả thuận tại hợp đồng mua, bán hàng hoặc vì một lý do khác không liên quan đến khả năng thanh toán của bên mua hàng. Bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất – nhập khẩu.Hiện nay, bao thanh toán trong nước và bao thanh toán xuất nhập khẩu được các ngân hàng áp dụng phổ biến. * Bao thanh toán trong nước: 1.Bên bán hàng và ngân hàng ký kết hợp đồng bao thanh toán. 2.Bên bán hàng và ngân hàng cùng gửi thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng, trong đó nêu rõ việc chuyển nhượng khoản phải thu cho ngân hàng. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 18 3.Bên mua hàng xác nhận về việc đã nhận thông báo và cam kết thanh toán cho ngân hàng. 4.Bên bán hàng giao hàng cho bên mua. 5.Ngân hàng ứng trước cho bên bán hàng. 6.Bên mua hàng thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng khi đến hạn. 7.Ngân hàng thu phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên bán hàng * Bao thanh toán xuất nhập khẩu: 1.Nhà xuất khẩu ký kết hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu với ngân hàng thanh toán xuất khẩu. 2.Nhà xuất khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu về việc chuyển nhượng khoản phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất khẩu.. 3.Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu. 4.Nhà xuất khẩu giao bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất khẩu.. 5.Ngân hàng thanh toán xuất khẩu. ứng trước cho nhà xuất khẩu. 6.Nhà nhập khẩu thanh toán khoản phải thu cho ngân hàng thanh toán xuất khẩu. khi đến hạn thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu – đối tác của ngân hàng thanh toán xuất khẩu.. 7. Ngân hàng thanh toán xuất khẩu. thu phần ứng trước và chuyển phần còn lại cho nhà xuất khẩu. 4. Phân biệt bao thanh toán với nghiệp vụ cho vay đảm bảo các khoản phải thu và nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu a. Bao thanh toán và nghiệp vụ cho vay đảm bảo các khoản phải thu Đặc điểm: - Thời gian cho vay: Thời hạn cho vay phụ thuộc vào khoản phải thu của khách hàng. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 19 - Mức cho vay: Tùy vào nhu cầu, khả năng trả nợ của khách hàng và kết quả thẩm định của ngân hàng. - Lãi suất: Theo lãi suất quy định hiện hành của ngân hàng. - Phương thức trả nợ: Theo loại hình cho vay và phù hợp với điều kiện khách hang. b. Bao thanh toán và nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại, thực hiện bằng việc ngân hàng mua lại thương phiếu chưa đáo hạn của khách hàng. Đặc điểm của nghiệp vụ tín dụng này là khoản lãi phải trả ngay khi nhận vốn. Do đó, khoản lợi tức này sẽ được khấu trừ ngay tại thời điểm chiết khấu. -Bản chất: + Chiết khấu thương phiếu(CKTP):là hình thức tài trợ vốn thuần túy thông qua hành vi mua bán khoản nợ. + Còn Bao thanh toán(BTT) là kết hợp của tài trợ vốn ,dịch vụ giữ sổ sách và thu nợ. -Chứng từ : + CKTP: Các khoản nợ được ghi trên thương phiếu, được chuyển nhượng. + còn BTT ghi trên hóa đơn, chứng từ ghi sổ, không được chuyển nhượng. -Khả năng đảm bảo thanh toán: + CKTP: khoản nợ thoát ly khỏi GD cơ sở ban đầu,có nhiều người liên đới chịu trách nhiệm trả nợ. + Còn BTT:món nợ luôn gắn với 1 GD hàng hóa cụ thể,có 2 chủ thể liên đới chịu trách nhiệm trả nợ (người mua và người bán). -Kỷ thuật tài trợ : +CKTP: tính phần NH hưởng và trừ đi khỏi giá trị chứng từ và chuyển giao cho khách hàng phần còn lại. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 20 + BTT: ứng trước 1 tỷ lệ/giá trị chứng từ cho KH.sau khi khoản nợ thanh toán,thu lãi và chi phí chuyển phần chênh lệch còn lại cho KH. -Phương thức: + CKTP:thực hiện cho từng GD. + BTT:có thể thực hiện từng lần hoặc theo hạn mức. -Lãi và Phí: + CKTP: tính trên GT khoản phải thu, thời gian tài trợ và lãi suất tái chiết khấu nên lãi suất hiệu dụng cao hơn lãi suất chiết khấu. + BTT: lãi tính trên số tiền ứng trước, thời gian tài trợ và lãi suất.Phí tính trên giá trị khoảnphải thu. -Quyền truy đòi: + CKTP :Được quyền truy đòi theo pháp luật. + BBT:có thể truy đòi hoặc miền truy đòi tùy thỏa thuận hợp đồng. 5.Quy trình nghiệp vụ bao thanh toán Được thực hiện theo trình tự như sau: Bên bán hàng và bên mua hàng ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, tiến hành giao hàng. Bên bán hàng gởi hồ sơ đến bộ phận tín dụng của NH đề nghị thực hiện Bao thanh toán các khoản phải thu. NH và bên bán hàng ký kết hợp đồng Bao thanh toán, hợp đồng bảo đảm (nếu có) và các thỏa thuận khác. NH và bên bán hàng đồng ký gởi văn bản thông báo về hợp đồng Bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan. Bên mua hàng gởi văn bản cho NH và bên bán hàng xác nhận về việc đã nhận được thông báo và cam kết thực hiện như thỏa thuận. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 21 Bên bán hàng chuyển giao bản gốc hợp đồng mua bán hàng, chứng từ liên quan khác ... cho NH và ký khế ước nhận nợ với NH, NH thu phí và chuyển tiền ứng trước cho khách hàng. NH theo dõi thu nợ từ số tiền do bên mua hàng thanh toán. Điển cho các đơn vị Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu. 6) hợp đồng bao thanh toán được lập theo các bước sau 1. Hợp đồng bao thanh toán là văn bản thoả thuận giữa đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng về việc mua lại các khoản phải thu phù hợp với các quy định của pháp luật. 2. Hợp đồng bao thanh toán có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nếu các bên liên quan có thoả thuận. Nội dung hợp đồng bao thanh toán Hợp đồng bao thanh toán bao gồm các nội dung chính sau: 1. Tên, địa chỉ, điện thoại, Fax… của các bên ký hợp đồng bao thanh toán; 2. Giá trị các khoản phải thu được bao thanh toán, quyền và lợi ích liên quan đến khoản phải thu theo hợp đồng mua, bán hàng; 3. Lãi và phí bao thanh toán; 4. Giá mua, bán khoản phải thu: được xác định trên cơ sở giá trị khoản phải thu sau khi trừ đi lãi và phí bao thanh toán. 5.Số tiền ứng trước và phương thức thanh toán; 6.Thông báo về việc bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên có liên quan; 7.Hình thức bảo đảm cho đơn vị bao thanh toán truy đòi lại số tiền đã ứng trước, giá trị tài sản làm bảo đảm; 8.Thời hạn hiệu lực của hợp đồng bao thanh toán; 9.Quyền và nghĩa vụ của các bên; Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 22 10.Phương thức chuyển giao hợp đồng mua, bán hàng, chứng từ bán hàng, quyền, lợi ích và các giấy tờ liên quan đến khoản phải thu được bao thanh toán; 11.Quy định về việc truy đòi của đơn vị bao thanh toán; 12.Giải quyết tranh chấp phát sinh; 13. Các thoả thuận khác III. Thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ BTT của các NHTM VN hiện nay a.Thực trạng dịch vụ BTT ở nước ta Dịch vụ BTT đã được sử dụng từ lâu tại nhiều nước phát triển trên thế giới. Hiện nay thế giới có một hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (FCI ) có 204 thành viên ở các nước trên thế giới (chiếm hơn 50% doanh thu BTT quốc tế trên thế giới), trong đó VN có 4 NH đã gia nhập FCI là NH Ngoại thương VN (VCB), NH TMCP Á Châu (ACB), NH TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và NH TMCP kỹ thương (Techcombank). BTT là phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với phương thức thanh toán truyền thống (mở L/C, nhờ thu). Hiện nay ở nước ta có 11 NH (có cả NH nước ngoài tại VN) cung cấp dịch vụ BTT. Tuy nhiên, phần lớn các NH trong nước mới chỉ thực hiện dịch vụ BTT mua bán trong nước, trong khi thương mại quốc tế mới tiềm ẩn nhiều rủi ro bởi nhiều nhà nhập khẩu muốn thanh toán bằng hình thức ghi sổ (trả sau). Con số 11 NH làm dịch vụ BTT quả là quá nhỏ so với số lượng các NH hiện có và càng quá nhỏ so với 1 nước đang phát triển và chuẩn bị hội nhập như nước ta. BTT là phương thức hai bên cùng có lợi, nhưng tại sao lại chưa phát triển ở nước ta ? Thứ nhất, nước ta hiện vẫn còn nhiều hạn chế về hành lang pháp lý để thực hiện dịch vụ này. Pháp luật không thừa nhận dịch vụ BTT nếu không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng phải trả nợ. Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho NH và DN khi thực hiện dịch vụ này. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 23 Thứ hai, nhiều DN cho rằng, hiện ở VN dịch vụ BTT của các NH vẫn chưa thật tiện lợi. Bởi NH thường đòi hỏi cao đối với khách hàng, ngoài phí dịch vụ, nhà xuất khẩu phải chứng minh với NH về uy tín của bên mua hàng hóa. Đây là khó khăn lớn cho nhà sản xuất, bởi sự hiểu biết về thị trường xuất khẩu của DN VN còn hạn chế. Thứ ba, các NH cũng chưa mặn mà với việc cung cấp dịch vụ này vì chúng ta có quá ít thông tin về tình hình tài chính của người mua, nhất là khách hàng nhập khẩu. Các thông tin nếu công bố công khai cũng không thật sự rõ ràng, minh bạch. Do đó mà khả năng rủi ro cao, các NH sẽ ngần ngại khi thực hiện dịch vụ này hoặc nếu có thì mức phí cũng không hấp dẫn khách hàng. Thứ tư, các NH khi thực hiện BTT đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro ở mức độ nào đó. Nhưng ở nước ta, rủi ro mất vốn đồng nghĩa với trách nhiệm pháp lý của NH và cá nhân người quyết định, do đó, các NH, đặc bịêt là các NHTM nhà nước không thích sử dụng dịch vụ này. Thứ năm, cũng do bản thân người cung cấp chưa mặn mà với dịch vụ này nên họ không chú trọng công tác marketing, tuyên truyền quảng bá tới khách hàng. Các khách hàng vì vậy cũng ít biết đến loại hình dịch vụ này. IV. Thời cơ và thách thức 1. Những cơ hội, tiềm năng phát triển bao thanh toán tại Việt Nam * Việt Nam mở cửa nền kinh tế, định hướng phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển , theo sự vận hành của nền kinh tế tất yếu sẽ tạo ra sự cạnh tranh trong nội bộ các ngành kinh tế nói riêng và cạnh tranh của nền kinh tế nói chung. Định hướng mở cửa đã tạo đà cho kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh dẫn tới những nhu cầu mở rộng các phương tiện thanh toán, tín dụng ngân hàng… nhằm cung cấp vốn cho nền kinh tế. * Hiện nay VN được đánh giá là thị trường tiềm năng và là một mảnh đất màu mỡ để phát triển dịch vụ, bởi vì đó là nhu cầu cấp thiết từ phía khách hàng . Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 24 Một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang hoạt động đang rất kì vọng vào hình thức cấp tín dụng mới này Dịch vụ bao thanh toán rất quan trọng đối với nhà sản xuất, nhất là những đơn vị chuyên làm hàng xuất khẩu. Đặc biệt từ khi Việt Nam gia nhập WTO, mở rộng giao lưu thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới thì vấn đề thanh toán quốc tế lại càng được coi trọng hơn . Hiện nay các nhà nhập khẩu quy mô, ưu thế thường chỉ chấp nhận hình thức trả sau và từ chối yêu cầu mở L/C của nhà xuất khẩu. Điều này sẽ khiến các doanh nghiệp VN mất đơn hàng xuất khẩu, nếu không có khả năng về vốn. Công cụ bao thanh toán sẽ giúp doanh nghiệp áp dụng phương thức bán hàng trả chậm nhưng vẫn an toàn. Từ đó, khả năng cạnh tranh và mối quan hệ của doanh nghiệp với các nhà nhập khẩu sẽ phát triển hơn. * Nhu cầu ngày càng lớn của việc sử dụng các phương tiện thanh toán, các công cụ tài chính, dịch vụ tài chính đa làm cho ngành ngân hàng trở thành ngành có tỷ suất lợi nhuận rất cao. Hành lang pháp lý phá vỡ độc quyền nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước liên tục ra đời và phát triển nhanh chóng. Mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi sản phẩm ngân hàng phải được đa dạng hóa, nhằm tăng vị thế cạnh tranh của các ngân hàng và các TCTD. Hiện nay, một loạt các ngân hàng nước ngoài đã phát triển ở Việt Nam, đây là một cơ hội rất lớn để các NHTM Việt Nam có thể tiến hành hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, từ đó hoàn thiện nghiệp vụ, mở rộng thị trường 2. Khó khăn và Thách thức trong hoạt động bao thanh toán * Khó khăn về khung pháp lý Trên lý thuyết, bao thanh toán là một nghiệp vụ đơn giản, nhưng điều kiện để nó thực sự đơn giản là được sự hỗ trợ bởi một hành lang pháp lý minh bạch, đầy đủ... Chính vì điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay không đáp ứng những yêu cầu trên nên nghiệp vụ bao thanh toán vẫn chưa phổ biến ở Việt Nam. Website: – Chia sẻ tài liệu miễn phí 25 Quy chế 1096 đã quy định những vấn đề cơ bản trong hoạt động bao thanh toán. Tuy nhiên, Quy chế này vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. * Theo Quy chế này, bao thanh toán được định nghĩa “là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa”. + Việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là “một hình thức cấp tín dụng” đã khiến toàn bộ nội dung quy chế này lệch ra khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh toán. Quan niệm này không thống nhất với quan niệm phổ biến về bao thanh toán trên thế giới. Bên cạnh chức năng tài trợ, đơn vị bao thanh toán còn cung cấp chức năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền hàng và bảo hiểm rủi ro. Đây chính là điểm khác nhau cơ bản của bao thanh toán so với việc cấp tín dụng thông thường. + Đồng thời, định nghĩa bao thanh toán là “hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu”. Điều này đã tạo sự nhập nhằng, khó hiểu vì quan hệ tín dụng và quan hệ mua bán là hai mối quan hệ tách biệt nhau. + Theo định nghĩa, bao thanh toán chỉ là hình thức cấp tín dụng, nên khoản ứng trước chỉ đơn thuần là khoản cho vay, còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc sở hữu của người bán. Chính sự không chính xác trong việc định nghĩa nghiệp vụ bao thanh toán đã dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn đối với đơn vị bao thanh toán trong việc chuyển giao quyền đòi nợ từ người bán sang đơn vị bao thanh toán. Pháp luật hiện nay vẫn không có quy định liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này. Theo mục c, d, đ, e, khoản 1, điều 13 của Quy chế 1096 có viết: “c. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf33_bs724_6458.PDF
Tài liệu liên quan