Chương trình nông nghiệp WTO những thử thách và cơ hội cho nông nghiệp Việt Nam

Mới nhìn qua, thi danh sách các „khoan nhượng“ mà Việt Nam phải đưa ra khi gia nhập WTO rất dài và có chất lượng. Các thành viên đàm phán trong nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (cũng như khi các nước khác gia nhập nhận xét điều đó là hợp lý, vì Việt Nam gia nhập vào một „câu lạc bộ“ những nước đã có trình độ cao trong tự do hóa thương mại tương hỗ và hòa hợp chính sách thương mại thông qua nhiều vòng đàm phán trong quá khứ, và trình độ này nước nào muốn gia nhập cũng phải đạt được, kể cả khi đó là nước đang phát triển, bởi vì các nước đang phát triển cũng là một nhóm trong vòng đàm phán Uruguay xin chấp nhận nhiều nghĩa vụ và đưa ra nhiều nhân nhượng thương mại. Các nước đang phát triển tuy nhận được sự linh động lớn hơn khi thực thi nghĩa vụ, tùy vào mức độ phát triển của mình (special and differential treatment), tuy nhiên Việt Nam là một nước đặc biệt năng động và là một trong những nhà xuất khẩu dẫn đầu (gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều) sau các cải cách kinh tế thị trường chỉ kéo dài vài năm, do đó không được hy vọng quá lớn vào sự thông cảm của các nước công nghiệp hoặc tinh đoàn kết của các các nước đang phát triển khác trong trường hợp xảy ra xung đột, mà phải nghiêm chỉnh thực thi nghĩa vụ của mình

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chương trình nông nghiệp WTO những thử thách và cơ hội cho nông nghiệp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i hàng nhập khẩu giá rẻ và công tác hỗ trợ lương thực đến từ các nước công nghiệp. Cho đến cách đây mấy năm, sản lượng dư thừa ở các nước công nghiệp được nhà nước trợ giá và khuyến khích đã gây ra áp lực lớn đối với giá thị trường nông sản (thông qua trợ giá xuất khẩu, người ta đã giữ giá của sản lượng dư thừa ở mức rẻ khiên cưỡng và làm phá giá trên thị trường thế giới). Nhiều chính phủ các nước đang phát triển thích hưởng giá rẻ của lương thực nhập khẩu để cung cấp cho người tiêu dùng thành thị và xoa dịu dư luận. Ngược lại thì nông nghiệp bị lờ đi một cách đáng trách. Đánh giá theo cách đó thì việc các nước công nghiệp bảo trợ nông nghiệp là một nguyên nhân mang tính cơ cấu, góp phần giảm thiểu tính năng động của nông nghiệp – nhất là ở các nước kém phát triển – và gây ra tình trạng thiếu hụt hiện tại. Sự méo mó của thị trường nông nghiệp thế giới có tác động rất mạnh đến tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển, vì đa số người nghèo ở các nước đang phát triển sống tại nông thôn và không ít thì nhiều đều phụ thuộc vào nông nghiệp. Khi sản xuất nông nghiệp bị đình đốn vì hàng nhập khẩu giá rẻ và vì không có cơ hội xuất khẩu (bởi các nước công nghiệp tài trợ xuất khẩu nông sản và chào hàng giá rẻ hơn) và đầu tư vào các biện pháp hiện đại hóa nhằm nâng cao sức sản xuất không đem lại lới tức, thì thu nhập trong nông nghiệp bị giữ ở mức thấp. Dân thành phố sẽ có lợi bởi lương thực nhập khẩu giá rẻ, nhưng điều đó không có ý nghĩa gì khi so sánh với số lượng lớn gấp bội nông dân nghèo sống ở vùng nông thôn. Ở đây có thể định vị một trong những xung đột trung tâm giữa Bắc và Nam, giữa các nước giàu và nghèo. Thậm chí các nước hỗ trợ phát triển cũng không làm gì chống lại sự thờ ơ này. Chỉ từ vài năm trở lại đây, các chuyên gia mới chỉ ra các rủi ro liên quan tới tình trạng ấy đối với việc cung cấp lương thực. Báo cáo phát triển thế giới vừa qua của Ngân hàng thế giới lần đầu tiên từ hai mươi năm nay dành cho sản xuất nông nghiệp vị trí chính. Nhưng tại sao các nước công nghiệp tiến hành chính sách bảo trợ nông nghiệp như vậy, nếu nó đem lại thiệt hại lớn cho các nước đang phát triển? Ở đa số các quốc gia OECD, người nông dân và các ngành công nghiệp hữu quan (người sản xuất giống, phân bón, thuốc trừ sâu) là một phe cánh hành lang mạnh, khả dĩ đòi được bảo vệ quyền lợi riêng, chống lại quyền lợi của người tiêu dùng muốn có thực phẩm giá rẻ. Lực lượng hành lang này cũng được hỗ trợ bởi các đối thủ của phong trào toàn cầu hóa cũng như những người ủng hộ sản xuất nông nghiệp thân thiện với môi trường và đề cao quan hệ thu nhỏ giữa nông dân và người tiêu dùng, không đếm xỉa đến các lợi thế từ phân chia công việc quốc tế. Phe cánh hành lang này đòi chính phủ thông qua các biện pháp can thiệp vào thị trường để tác động ngược lại với xu thế „tự nhiên“ hướng tới giảm giá tương đối của nông sản đối với giá sản phẩm công nghiệp và giảm tương đối thu nhập trong nông nghiệp đối với khu vực công nghiệp và dịch vụ. Ở các quốc gia giàu, thu nhập tăng lên thì nhu cầu của người dân về lương thực tăng chậm hơn nhiều so với nhu cầu về sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Nếu năng suất sản xuất của nông nghiệp cao bằng của công nghiệp và không bị mất mùa làm giảm cung cấp thì thực ra về lâu dài mức giá nông sản và qua đó thu nhập của nông dân phải giảm đi. Điều đó càng đúng hơn, khi hàng lương thực rẻ từ các nước đang phát triển được nhập về. Lúc đó các cơ sở nông nghiệp có năng suất kém sẽ phải bỏ cuộc, quá trình biến đổi cơ cấu „tự nhiên“ sẽ khiến tỉ trọng của nông nghiệp trong tổng sản lượng kinh tế giảm đi so với khu vực công nghiệp và dịch vụ. Ở châu Âu còn có thêm một động cơ nữa: từng trải nghiệm nạn đói tràn lan sau Thế chiến II, người ta cố gắng giảm phụ thuộc vào nhập khẩu bằng cách tăng cường nền sản xuất trong nước. Chính sách chung về nông nghiệp (GAP) của khối EU (cho đến trước loạt cải cách của thập kỷ 90) là một hệ thống rất phức hợp nhằm chống lại xu hướng giảm giá nông sản vốn liên quan đến sự biến chuyển cơ cấu „tự nhiên“. Người ta đã đề ra giá cố định được bảo đảm cho 21 sản phẩm, và giá này được nhà nước bảo vệ bằng cách bao tiêu, chống lại giá thị trường đi xuống. Lượng hàng được nhà nước thu mua một là đưa vào kho, hai là đem tiêu hủy, hoặc đem xuất khẩu với giá thị trường thế giới ở mức thấp hơn, sau khi đã được hỗ trợ giá xuất khẩu. Nhờ giá cố định được bảo đảm đó, người nông dân hầu như không phải chịu rủi ro nào, họ có thể đầu tư để tăng năng suất sản xuất, kết quả là lượng sản phẩm luôn cao hơn nhu cầu trong nước, lượng thực phẩm đóng kho ngày càng nhiều (núi bơ, sông sữa), và phí tổn của can thiệp thị trường, lưu kho và trợ giá xuất khẩu tăng kinh khủng. Mức giá trong khối EU quá cao so với mức giá trên thị trường thế giới, nay phải được bảo vệ chống lại hàng nhập khẩu rẻ thông qua việc đóng cửa nhập khẩu quyết liệt. Để làm việc đó, người ta đề ra thuế quan linh động luôn ở mức cao bằng sự chênh lệch giữa giá thị trường quốc tế và giá thị trường nội địa EU. Một phần, EU vẫn thông qua tài trợ xuất khẩu hàng thừa tiếp tục góp phần làm sự chênh lệch ấy lớn lên, vì qua đó giá thị trường thế giới giảm đi. Kết quả là mọi khuyến khích cho sản xuất nông nghiệp ở các nước đang phát triển để đạt tới thị trường thế giới đều tiêu tan. Mặc dù các nhà kinh tế luôn chứng minh rằng chi phí của GAP gia tăng và đưa ra phê phán (người tiêu dùng bị đánh thuế hai lần: 1. vì tiền ngân sách bị đem ra hỗ trợ giá thu mua, phí tổn lưu kho và trợ giá xuất khẩu, và 2. giá lương thực bị nâng lên) và tác động của giá cố định vô cùng bất công (các cơ sở sản xuất nông nghiệp lớn nhất kiếm được nhiều nhất, trong khi các hộ nông dân nhỏ không thể ganh đua trong đầu tư nâng cao sức sản xuất, do đó bị đào thải khỏi thị trường mặc dù đã có GAP), hầu như không có hy vọng gì vào một cuộc cải cách toàn diện, nếu như trong khuôn khổ đàm phán GATT không có áp lực gia tăng từ bên ngoài – cụ thể là từ Mỹ và một số các nước đang phát triển có sức xuất khẩu mạnh. Hiệp định nông nghiệp trong vòng đàm phán Uruguay Tại vòng đàm phán Uruguay từ 1986 đến 1994 – vòng đàm phán đa phuơng cuối cùng trong GATT trước khi thành lập WTO – lần đầu tiên người ta đàm phán về nông nghiệp. Cho đến thời điểm đó các nước công nghiệp quan trọng nhất vẫn bảo vệ chính sách can thiệp vào nông nghiệp của mình, chống lại các nguyên tắc của GATT. Mục tiêu cao nhất của đàm phán nông nghiệp ở vòng đàm phán Uruguay là thực thi các nguyên tắc kinh tế thị trường trong chính sách nông nghiệp, qua đó giảm thiểu sự méo mó về cạnh tranh trong thương mại mại nông sản thế giới. Mặc dù vậy hiệp định nông nghiệp WTO vẫn cho phép nhà nước hỗ trợ nông nghiệp, tuy ưu tiên các chính sách ít làm lệch lạc thương mại quốc tế. Trong hiệp định này có ấn định quy định mới cho „ba cột chống“: · Tiếp cận thị trường: Chỉ áp dụng duy nhất thuế quan (tariffs only), tất cả các rào cản thương mại không định lượng cho đến lúc đó được quy đổi thành thuế quan (tariffication), qua đó mức thuế quan của các nước công nghiệp đối với sản phẩm nhạy cảm gia tăng rõ rệt, người ta đề ra các biện pháp dự phòng khi gia tăng nhập khẩu mạnh (special safeguards), các nước đang phát triển được phép nêu tên sản phẩm nhạy cảm mà họ muốn giữ chế độ hạn chế nhập khẩu nghiêm ngặt vì lý do an ninh lương thực (special products). · Hỗ trợ nội bộ: Phân tách trợ giá theo tác động sản xuất và sự lệch lạc thị trường tiềm năng xuất phát từ đó. Phải giảm trợ giá tác động trực tiếp đến sản xuất (“amber box” = đèn vàng (tín hiệu giao thông) = phanh lại): các nước công nghiệp giảm 20 % trong 6 năm đầu kể từ 1995, các nước đang phát triển giảm 13 % trong 10 năm (LDC – các nước đang phát triển ở mứuc kém nhất – không phải giảm); được phép hỗ trợ không tác động đến lượng sản phẩm (“green box” = đèn xanh): đó là nghiên cứu, hạ tầng cơ sở, chính sách thú ý, kể cả trả tiền trực tiếp cho nông dân để thay đổi cơ cấu xí nghiệp hay tiến hành biện pháp môi trường, nếu các biện pháp đó không tác động đến sản xuất (tuy có làm giảm chi phí và nhờ vậy vẫn có tác dụng làm lệch lạc cạnh tranh), cũng được phép trả tiền cho nông dân để thu hẹp sản xuất (“blue box”), các khoản này tuy có liên quan đến sản xuất, nhưng việc thu hẹp sản xuất góp phần giảm thiểu hàng thừa gây lệch lạc cạnh tranh. · Trợ giá xuất khẩu sẽ được bãi bỏ hoàn toàn vào năm 2013, cho đến thời điểm đó việc trợ giá xuất khẩu phải trình báo tại WTO, và lượng hàng được trợ giá phải được giảm từng bước. Vòng đàm phán Uruguay tuy nhiên chỉ là một bước khởi đầu nhằm giảm thiểu bảo trợ nông nghiệp và can thiệp thị trường nhờ trợ giá nội bộ và trợ giá xuất khẩu. Với Hiệp định nông nghiệp của vòng Uruguay, bộ quy chế GATT cho khu vực nông nghiệp được cụ thể hóa, cũng như phân cấp được các loại trợ giá tùy theo mức độ tác động làm lệch lạc thương mại. Tuy có nghĩa vụ từng bước mở cửa thị trường và giảm thiểu trợ giá làm lệch lạc thương mại, mức bảo trợ vẫn còn khá cao, vì các nước công nghiệp thoạt tiên phải quy đổi rất nhiều rào cản thương mại không định lượng đang có giá trị thành thuế quan với hiệu quả tương đương. Qua đó, mức thuế dành cho nông sản ở thời điểm chấm dứt vòng Uruguay cao hơn nhiều so với thời điểm bắt đầu. Các loại trợ giá nội bộ có hậu quả làm méo mó thị trường được bãi bỏ chậm hơn nhiều so với lời hứa – vì phải dịch chuyển các trợ giá có tác động đến sản xuất từ vị trí amber box sang green box hay blue box (gọi là quá trình box shifting) – qua đó các nước công nghiệp đã trốn được trách nhiệm giảm thiểu trợ giá làm méo mó thị trường như hiệp định nông nghiệp đòi hỏi. Cả việc giảm thiểu trợ giá xuất khẩu cũng bị trì hoãn, phải đến vòng đàm phán WTO mới (2013) mới được hứa thực thi. Chính sách nông nghiệp hiện tại vẫn đè nặng lên người đóng thuế và người tiêu dùng tại các nước OECD: tổng cộng mỗi năm khoảng 280 tỉ USD (vì trợ giá và giá nội địa cao, gây ra bởi rào cản nhập khẩu). Và cho đến nay vẫn còn mặt trái của cạnh tranh lệch lạc đối với các nước đang phát triển chú trọng xuất khẩu. Vòng WTO mới: vòng phát triển Theo quan điểm của các nước đang phát triển, kết quả vòng Uruguay là một cuộc „đổi chác“ kém ngon lành, vì họ buộc phải chấp nhận một loạt hiệp định mới, liên quan đến phí tổn (ví dụ như hiệp định TRIPS về sở hữu trí tuệ) hay nghĩa vụ mới về mở cửa thị trường (ví dụ như hiệp định GATS về dịch vụ), trong khi các nước công nghiệp chỉ phải thực thi nghĩa vụ mở cửa thị trường của mình cho sản phẩm nông nghiệp và dệt may một cách rất dè dặt. Mặc dù vậy, người ta vẫn mong đợi các nước đang phát triển hãy thực thi nghĩa vụ của mình trong hiệp định nông nghiệp WTO về hạ mức thuế quan. Một thời gian dài, các nước đang phát triển chống lại bước gia nhập vòng đàm phán đa phương mới, và họ được xã hội dân sự quốc tế ủng hộ. Mãi đến tháng 12/2001, khi các nước công nghiệp ở Doha (Qatar) đồng ý chú trọng đặc biệt đến lợi ích của các nước đang phát triển trong vòng đàm phán mới này cũng như chấp nhận chỉnh sửa một số điểm của hiệp định Uruguay theo đề nghị của các nước đang phát triển (ví dụ như hiệp định TRIPS), lúc đó các nước đang phát triển mới chấp thuận khai mạc vòng đàm phán WTO. Để quảng bá tinh thần sẵn sàng này đề cập đến lợi ích của các nước đang phát triển, vòng đàm phán này được bổ sung danh hiệu „Vòng phát triển“ hay „Chương trình phát triển Doha“ (Doha Development Agenda). Các vòng đàm phán nông nghiệp trong khuôn khổ Vòng Doha theo đuổi mục tiêu cụ thể hóa sâu hơn nghĩa vụ tự do hóa của các nước công nghiệp cũng như thỏa thuận về thời hạn chắc chắn để thực thi (tuyệt đối bãi bỏ mọi trợ giá xuất khẩu vào năm 2013), đồng thời chú trọng hơn nữa quyền lợi của các nước đang phát triển. Để bảo đảm an ninh lương thực và khuyến khích phát triển nông thôn, các nước đang phát triển được phép tiến hành các biện pháp bảo vệ đặc biệt tương tự như những biện pháp mà các nước công nghiệp vẫn ứng dụng để hỗ trợ nền nông nghiệp của mình cho đến nay („Tính đa công năng của nông nghiệp“). Tuy nhiên, các bước tiến bộ đã đạt được cho đến 2004 trong việc ấn định phương thức tự do hóa thương mại tương lai còn đang lửng lơ, vì các cuộc đàm phán của Vòng Doha 2006 bị Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy cắt đứt, với lý do là một số lĩnh vực không đạt được tiến bộ đàm phán đáng kể. Một lý do là những mong đợi của các nhóm quốc gia còn khác biệt: trong khi các nước công nghiệp đòi hỏi các nước ngưỡng cửa mở rộng thêm cửa vào thị trường cho sản phẩm công nghiệp và dịch vụ - để đền đáp lại quá trình tự do hóa trong khu vực nông nghiệp, thì các nước đang phát triển cho rằng sự nhượng bộ của mình ở Vòng Uruguay đã là quá đủ để đền đáp lại việc các nước công nghiệp mở thị trường cho nông sản từu các nước đang phát triển, không việc gì phải đền đáp thêm nữa. Ngoài ra, các lợi ích trong quan hệ với thương mại nông sản giữa các nhóm quốc gia đang phát triển cũng khác biệt đến mức họ không thể có một lập trường chung cho tất cả các nước đang phát triển khi đàm phán. Các nước có khả năngc ạnh tranh trong xuất khẩu như Brazil và Argentina cổ súy việc tự do hóa tổng thể cho thương mại, các quốc gia có nhu cầu bảo vệ nông nghiệp như Ấn Độ tuy cũng đồng ý mưor cửa thị trường cho các nước công nghiệp nhưng vẫn ngập ngừngkhi tự mình cũng phải mở cửa thị trường trong khu vực nông nghiệp, và cuối cùng là một số nước ở châu Phi cận Sahara vốn phụ thuộc vào nhập khẩu lương thực, họ lo ngại sẽ mất đi nguồn lương thựuc nhập khẩu giá rẻ (vì được trợ giá) đến từ các nước công nghiệp, do đó không thiết tha gì đến một khu vực nông nghiệp được tự do hóa ở phạm vi toàn cầu. Cộng vào sự bất thống nhất trong quyền lợi của các nước đang phát triển là hàng loạt hiệp định tự do thương mại song phương và ở tầm khu vực, vốn là sợi dây kết nối vẫn được nhiều nước đang phát triển nhận định là vững chắc hơn một vòng đàm phán đa phương thành công trong WTO (và do đó họ cũng có vị trí đàm phán nhiệt tình hơn) Nông nghiệp trong thỏa thuận gia nhập WTO của Việt Nam Đối với Việt Nam là thành viên WTO, một mặt hiệp định nông nghiệp WTO với những quy định đặc biệt về mọi hình thái trợ giá và các hiệp định WTO khác quan trọng cho khu vực nông nghiệp (nhất là hiệp định về vệ sinh và thuốc độc hại – SPS) có ý nghĩa lớn, mặt khác những khoản nhân nhượng mà Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập đã dành cho các thành viên WTO khác tham gia đàm phán cũng cần được chú trọng. Thỏa thuận gia nhập của Việt Nam được đem ra đàm phán năm 1995 và kết thúc năm 2006 đề ra những bước hòa hợp sau đây cho khu vực nông nghiệp: Chính sách nhập khẩu · Từng bước hạ mức thuế quan cho nông sản, 20% trong vòng 3-5 năm (từ 24,5% xuống 20%) · Giảm các khoản thuế quan đặc biệt cao áp dụng cho thịt, sữa, rau quả đã qua chế biến, lương thực đã qua chế biến, hoa quả ôn đới (táo, lê, Grapefruit, Kiwi) · Cố định đa số các khoản thuế quan cho nông sản và hàng nông nghiệp trong khoảng 0% đến 35%. Vẫn giữ lại thuế quan cao đối với một số ít các sản phẩm như đồ uống có cồn, cà phê tan. · Việt Nam được phép giữ quyền ấn định thuế quan đặc biệt, nghĩa là thuế quan áp dụng cho số lượng (mỗi tấn) chứ không cho giá trị của hàng nhập khẩu (“ad valorem”) · Một số sản phẩm được bảo vệ bởi hạn ngạch thuế quan (tariff quotas), nghĩa là một số lượng hàng hạn chế phải chịu thuế quan thấp, tất cả hàng nhập khẩu quá hạn ngạch thuế quan nhất định bị đánh thuế cao (trứng, thuốc lá, đường và muối). Hạn ngạch thuế quan phải được giảm từng bước cho đến khi bãi bỏ hẳn. · Các hạn chế nhập khẩu định lượng (Hạn ngạch, Cấm nhập khẩu, ví dụ: thuốc lá, xì gà) phải được bãi bỏ hoặc áp dụng theo quy định của WTO ( không phân biệt đối xử nghĩa là thuốc lá quốc nội cũng bị cấm vì lý do bảo vệ sức khỏe. · Bộ phận hải quan phải tuân thủ và hiện đại hóa theo quy định của WTO về thẩm định hải quan (customs valuation) để tránh tạo ra rào cản nhập khẩu mang tính hành chính. · Việt Nam áp dụng các hiệp định WTO về trở ngại kỹ thuật cho thương mại (Technical Barriers to Trade, TBT) và các biện pháp Vệ sinh và chất độc (SPS) Chính sách xuất khẩu · Chấm dứt trợ giá xuất khẩu đối với mọi nông sản (kể cả cà phê) sau khi gia nhập · Tiếp tục cho phép khuyến khích thương mại, nếu không trợ giá xuất khẩu trực tiếp (nghiên cứu thị trường, hội chợ, cải thiện tài chính xuất khẩu, cơ sở hạ tầng thương mại hữu hiệu) · Từ sau năm 2009 bãi bỏ độc quyền xuất khẩu gạo của doanh nghiệp nhà nước · Hạn chế xuất khẩu cho một số sản phẩm như gạo vẫn được phép tiến hành (đảm bảo cung cấp cho người dân), các hình thức kiểm tra xuất khẩu phải phù hợp tinh thần của quy định WTO (minh bạch và không phân biệt đối xử) Hỗ trợ nội bộ · Ủng hộ nông dân qua các biện pháp làm méo mó thương mại (“amber box”: đèn vàng) về nguyên tắc được phép, nhưng mọi trợ giá đều phải trình báo tại WTO. · Như các nước đang phát triển khác, Việt Nam cũng được giữ một số hỗ trợ quy mô nhỏ (“de minimis”), không được phép qúa 10% giá trị của sản xuất quốc nội trong ngạch đó. · Ngoài ra, cũng như mọi thành viên WTO khác, Việt Nam được phép hỗ trợ nông nghiệp của mình qua các biện pháp không làm méo mó thương mại, kể cả trợ giá (“green box”), nghĩa là thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu, tư vấn cho nông dân, nghiên cứu nông nghiệp, các biện pháp nhằm tuân thủ tiêu chuẩn SPS quốc tế và tiêu chuẩn chất lượng của các nước nhập khẩu. Các chính sách khác · Doanh nghiệp quốc doanh phù hợp với quy định WTO, nếu hoạt động kinh tế theo các nguyên tắc thương mại, nghĩa là đưa ra giá đủ bù phí tổn, qua đó ngăn ngừa cạnh tranh thiếu lành mạnh với hàng nhập khẩu hoặc trên các thị trường xuất khẩu. · Các hình thức kiểm tra giá phải được trình báo cho WTO. · Điểm xung đột trong khi đàm phán gia nhập: Luật thương mại – chỉ dành cho doanh nghiệp Việt Nam hay cũng cho doanh nghiệp nước ngoài mà không kèm hạn chế hoặc kỳ thị? Hiện tại không còn luật thương mại độc quyền nữa: mỗi doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài và bất cứ ai cũng được xuất và nhập khẩu, chỉ có nghĩa vụ phải đăng ký. · Ngay sau khi gia nhập, Việt Nam phải áp dụng hiệp định WTO về sở hữ trí tuệ (TRIPS). · Hiệp định SPS: Hệ thống thú y và công tác bảo vệ thực vật của Việt Nam phải được cải thiện và hòa hợp với tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh và dư lượng thuốc trừ sâu trong thực phẩm, quan trọng nhất là phải có hệ thống thanh tra toàn quốc để đối phó với nguy cơ lây lan dịch bệnh động vật (cúm gà) và thực vật. Xin nói thêm sự hòa hợp này kỳ thực cũng phải được tiến hành ngay cả khi Việt Nam không gia nhập WTO, vì mỗi quốc gia xuất khẩu phải chú trọng các tiêu chuẩn, và quy chế của quốc gia nhập khẩu thì sản phẩm của mình mới được ở đó cấp phép. Điều đó thậm chí cũng phải được chú ý với khi tồn tại các tiêu chuẩn rộng hơn mà các doanh nghiệp tư nhân đề ra cho nhà cung cấp. Hiệp định SPS của WTO chỉ thể hiện sự bảo vệ chống lại việc tự ý đưa ra các tiêu chuẩn mang tính kỳ thị, nó bắt buộc tất cả thành viên WTO tuân thủ luật chơi của sự công khai hóa và kịp thời thông tin và các sản phẩm quốc nội có tác động tới sản phẩm nhập khẩu. Tác động đến nông nghiệp Việt Nam Mới nhìn qua, thi danh sách các „khoan nhượng“ mà Việt Nam phải đưa ra khi gia nhập WTO rất dài và có chất lượng. Các thành viên đàm phán trong nhóm công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (cũng như khi các nước khác gia nhập nhận xét điều đó là hợp lý, vì Việt Nam gia nhập vào một „câu lạc bộ“ những nước đã có trình độ cao trong tự do hóa thương mại tương hỗ và hòa hợp chính sách thương mại thông qua nhiều vòng đàm phán trong quá khứ, và trình độ này nước nào muốn gia nhập cũng phải đạt được, kể cả khi đó là nước đang phát triển, bởi vì các nước đang phát triển cũng là một nhóm trong vòng đàm phán Uruguay xin chấp nhận nhiều nghĩa vụ và đưa ra nhiều nhân nhượng thương mại. Các nước đang phát triển tuy nhận được sự linh động lớn hơn khi thực thi nghĩa vụ, tùy vào mức độ phát triển của mình (special and differential treatment), tuy nhiên Việt Nam là một nước đặc biệt năng động và là một trong những nhà xuất khẩu dẫn đầu (gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều) sau các cải cách kinh tế thị trường chỉ kéo dài vài năm, do đó không được hy vọng quá lớn vào sự thông cảm của các nước công nghiệp hoặc tinh đoàn kết của các các nước đang phát triển khác trong trường hợp xảy ra xung đột, mà phải nghiêm chỉnh thực thi nghĩa vụ của mình. Xin nhắc nhở các nhà kinh tế rằng, các nhân nhượng, khi mở cửa thị trường đằng nào cũng phù hợp với lợi ích riêng của quốc gia muốn tiến hành tự do hóa. Nó hòa hợp hơn vào phân chia công việc quốc tế (xét về các thuận lợi so sánh) và thậm chí được hưởng lợi ngay cả khi các quốc gia khác không mở cửa thị trường của mình với cùng tốc độ. Ngoài ra, Việt Nam là thành viên của khối ASEAN đã nhận nghĩa vụ thực thi các điều kiện thương mại tự do trong khuôn khổ chương trình AFTA. Do đó, việc mở cửa thị trường ở mức độ cao vẫn phải tiến hành đối với các nước láng giềng, ngay cả khi không phải là thành viên của WTO, tuy nhiên việc có chân trong WTO cũng là sự bảo đảm tiếp cận thị trường của các quốc gia thành viên khác và đó là một tiền đề cơ bản để tiếp tục thắng lợi những chiến lược phát triển mang định hướng xuất khẩu của Việt Nam. Về nguyên tắc, việc mở cửa thị trường sẽ tăng áp lực cạnh tranh đè lên các nhà sản xuất nông nghiệp cũng như công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Nhưng áp lực này hiện tại cũng như trong tương lai gần không phải là vấn đề lớn vì giá cả trên thị trường quốc tế đang ở mức độ cao. Thậm chí ngược lại, chính phủ có vẻ như nhận diện được mối nguy hiểm rằng, giá thị trường quốc tế cao sẽ lây lan sang mặt bằng giá ở Việt Nam gây ra vấn đề cung cấp cho tầng lớp dân nghèo. Câu hỏi đặt ra là, liệu các hạn chế xuất khẩu (phù hợp tinh thần WTO) có phải là công cụ tốt nhất để giải quyết vấn đề hay không một khi giá trên thị trường quốc tế cao là một dấu hiệu cho thấy lương thực là nông sản quan trọng bị thiếu hụt, vì quan trọng nhất là phải huy động các khoản dự trữ về sản xuất và sức sản xuất ở càng nhiều quốc gia càng tốt, ngõ hầu mở rộng sức cung cấp toàn cầu phù hợp với yêu cầu gia tăng. Là một nước xuất khẩu gạo lớn, Việt Nam có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình đó và cần làm tất cả để củng cố năng lực của ngành nông nghiệp qua các công cụ phù hợp tinh thần WTO. Tùy vào mức độ thành công mà việc mở thị trường hoàn toàn trong khuôn khổ ASEAN cũng như mở thị trường từng bước với tư cách thành viên WTO không phải là vấn đề không giải quyết được đối với nông nghiệp trong nước. Các vấn đề về cơ cấu của nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp ở Việt Nam có thể khắc phục được bằng các công cụ phù hợp tinh thần WTO: · Một đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam là cơ cấu tiểu nông (bình quân mỗi hộ chỉ có 0,8 ha), sức sản xuất kém, chất lượng sản phẩm thấp. Giải pháp: dồn diện tích, tách lọc diện tích xấu, tạo ra việc làm phi nông nghiệp ở vùng nông thôn (tiểu công nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác). · Nông dân hầu như không tiếp cận được các thông tin thị trường, họ hầu như không biết ý nghĩa của việc gia nhập WTO hay ASEAN đối với họ là gì, sản xuất thiếu định hướng chiến lược. Chính phủ và các hội đoàn phải cung cấp nhiều thông tin hơn về phát triển thị trường và điều kiện tiếp cận thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thông tin về tiêu chuẩn sản phẩm tại các thị trường xuất khẩu. Nghĩa là rất cần sự hỗ trợ kỹ thuật để tiến hành hòa hợp chất lượng, tiến hành thử nghiệm và cấp chứng chỉ cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. · Tốc độ áp dụng kiến thức khoa học và phát triển kỹ thuật còn thấp. Xét đến các cơ hội xuất khẩu lớn trong điều kiện thị trường quốc tế hiện tại, xét đến việc tận dụng quá ít cơ hội để đặt chân vào tầng giá ca tại các thị trường xuất khẩu với các sản phẩm chất lượng cao (Premium Products, sản phẩm nông nghiệp hữu cơ), nay chính phủ nên tăng cường đầu tư vào nghiên cứu nông nghiệp, cũng như quảng bá kết quả đối với các nhà sản xuất nông nghiệp. Các nhà hỗ trợ phát triển nhất là Ngân hàng thế giới sẽ ủng hộ quá trình này. · Tình trạng nghèo vốn của các xí nghiệp nhỏ và thiếu khả năng tín dụng ở nông thôn gây khó khăn cho đầu tư và chuyên sâu trong sản xuất, các ngân hàng hợp tác xã có mộ mạng lưới dày đặc các chi nhánh ở nông thôn và trong quá khứ chúng có vai trò quan trong trong việc phát triển nông nghiệp hiện đại. Đối với Việt Nam, cải thiện việc cung cấp dịch vụ nhà băng ở nôn thôn là chìa khóa cho tăng trưởng khả năng cạnh tranh quốc tế của nông nghiệp. · Để thúc đẩy ý chí đầu tư của các xí nghiệp nông nghiệp, nên bớt chú ý vào các biện pháp mang tính chính sách thương mại (đóng cửa cấm hàng rẻ nhập khẩu) mà nên phát triển hệ thống an sinh xã hội để bảo hiểm cho dân nông thôn khi mất mùa hoặc kém thu nhập do gia tăng nhập khẩu quá nhanh hoặc giá cả không ổn định trên thị trường xuất khẩu – đây là một công cụ phù hợp tinh thần WTO và có ý nghĩa lớn trong xóa nghèo. · Một khởi đầu cơ bản nhằm cải thiện năng lực của nông nghiệp Việt Nam là: thúc đẩy khả năng cạnh tranh của công nghiệp phục vụ nông nghiệp, một lĩnh vực cho đến nay chưa được chuẩn bị đầy đủ để cạnh tranh quốc tế (nhiều doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ, nghèo vốn, 25% làm ăn lỗ - theo MARD 2006). Đặc biệt là c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHƯƠNG TRÌNH NÔNG NGHIỆP WTO.doc
Tài liệu liên quan