Chuyên đề Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ 2

1.1. Nhãn hiệu là gì? 2

1.1.1. Lịch sử hình thành 2

1.1.2. Khái niệm về nhãn hiệu 3

1.1.3. Các khía cạnh giá trị của nhãn hiệu 6

1.2. Tại sao cần bảo hộ nhãn hiệu 11

1.3. Thể chế quốc tế và luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu 14

1.3.1.Thể chế quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu 14

13.2. Luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam 23

1.4. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu 26

1.4.1. Thủ tục đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam 26

1.4.2. Ðăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại nước ngoài 30

1.4.3.Một số lưu ý khi đăng ký nhãn hiệu 34

CHƯƠNG 2. BẢO HỘ NHÃN HIỆU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 37

2.1. Khái quát chung 37

2.1.1.Trước khi Việt Nam gia nhập WTO 38

2.1.2. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO 39

2.2. Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài 42

2.3. Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam 47

2.3.1.Khái quát chung về nhãn hiệu nổi tiếng 47

2.3.2.Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam 51

2.4. Đánh giá tổng quan về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam 54

2.4.1.Kết quả 54

2.4.2. Hạn chế 56

2.4.3. Nguyên nhân 57

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ BẢO HỘ NHÃN HIỆU 62

3.1. Xu hướng gia tăng nhu cầu bảo hộ nhãn hiệu sau khi Việt Nam gia nhập WTO 62

3.2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp 64

3.4. Các giải pháp từ nhà nước 66

KẾT LUẬN 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73

 

 

doc77 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4734 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỉ định Việt Nam, Cục SHTT sẽ tiến hành một số thao tác kỹ thuật và xét nghiệm nội dung đơn (xem xét về khả năng bảo hộ của nhãn hiệu) như đối với đơn nhãn hiệu nộp trực tiếp theo thể thức quốc gia. Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày nhãn hiệu đăng ký quốc tế được công bố trên công báo nhãn hiệu quốc tế của WIPO (sau khi đã hợp lệ về hình thức), Cục SHTT phải có kết luận về khả năng bảo hộ của nhãn hiệu đăng ký quốc tế có chỉ định Việt Nam. Đối với những nhãn hiệu có khả năng bị từ chối một phần hoặc toàn phần, Cục SHTT sẽ thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn thông qua Văn phòng quốc tế, có nêu rõ lý do từ chối. Nếu trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày nhãn hiệu đăng ký quốc tế công bố trên Công báo nhãn hiệu quốc tế của WIPO mà Văn phòng quốc tế không nhận được thông báo từ chối liên quan đến đăng ký quốc tế nhãn hiệu nào đó, điều đó có nghĩa là nhãn hiệu đó được bảo hộ ở Việt Nam. Những nhãn hiệu đăng ký quốc tế được công nhận bảo hộ ở Việt Nam sẽ được công bố trên công báo SHCN Việt Nam. Phạm vi bảo hộ của các nhãn hiệu nếu có thay đổi sẽ được Cục SHTT xác nhận theo nội dung đăng ký nhãn hiệu đó và được Văn phòng quốc tế ghi nhận vào đăng bạ quốc tế nhãn hiệu. Nhãn hiệu đăng ký quốc tế theo Nghị định thư được xem xét như đối với nhãn hiệu quốc tế theo Thỏa ước Madrid nhưng có một số lưu ý về thời hạn từ chối; thời hạn chuyển thông báo từ chối đến Văn phòng quốc tế và thời hạn trả lời các thiếu sót liên quan đến thông báo từ chối của cơ quan quốc gia; thời hạn từ chối trong trường hợp có phản đối và một số lưu ý khác trong quá trình ra thông báo từ chối đăng ký quốc tế. Theo thống kê của Cục SHTT, số lượng đăng ký quốc tế nhãn hiệu yêu cầu chỉ định mới, mở rộng lãnh thổ và gia hạn hiệu lực bảo hộ hiện nay là 56.055. 1.4.2. Ðăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại nước ngoài - Đăng ký theo Thoả ước Madrid Việt Nam đã là thành viên của Thoả ước Madrid (do tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO quản trị) về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, với hơn 50 quốc gia là thành viên. Đăng ký theo thoả ước này, chủ nhãn hiệu chỉ cần dùng 1 đơn đăng ký quốc tế theo mẫu quy định, đánh dấu những nước thành viên doanh nghiệp muốn đăng ký nhãn hiệu và nộp đến Cục Sở hữu trí tuệ. Việc đăng ký theo hệ thống này khá đơn giản, tiện lợi và chi phí có thể rẻ hơn gấp 10 lần so với việc đăng ký trực tiếp ở từng nước. Tuy nhiên, đơn đăng ký này chỉ được thực hiện khi nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ ở Việt Nam. Thời hạn xem xét đơn đăng ký quốc tế trong vòng 01 năm. Nếu các doanh nghiệp quan tâm đến các thị trường là thành viên của Thoả ước thì nên thực hiện việc đăng ký theo hình thức này. Mặt khác, từ ngày 11/7/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Nghị định thư Madrid. Do đó, doanh nghiệp Việt Nam có thể đăng ký nhãn hiệu bảo hộ ở các nước đã là thành viên của Thoả ước hoặc Nghị định thư. Đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia: Với những nước không phải là thành viên của Thoả ước Madrid, khi có nhu cầu đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại các nước khác như: các nước ASEAN (trừ Singapore đã tham gia Nghị định thư)..., các doanh nghiệp sẽ phải đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia đó. Thủ tục đăng ký được tiến hành tại các cơ quan sở hữu công nghiệp của các nước đó. Để nộp đơn và làm thủ tục đăng ký, doanh nghiệp có thể sử dụng đại diện hoặc chi nhánh tại các quốc gia; hoặc sử dụng Công ty đại diện sở hữu công nghiệp Việt Nam và nước ngoài. Đăng ký nhãn hiệu tại một số nơi trên thế giới: Đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ Khác với đa số quốc gia trên thế giới quy định quyền sở hữu NH thông qua việc đăng ký, pháp luật Mỹ quy định quyền sở hữu NH đạt được thông qua việc thực sự sử dụng một NH. Để có quyền này, nhà sản xuất, cung cấp phải sử dụng NH. Ví dụ: bằng việc thể hiện trên mác đính liền với hàng hóa hoặc quảng cáo NH gắn liền với hàng hóa, dịch vụ. Bạn không cư trú trên lãnh thổ Mỹ, do đó phải chỉ định một đại diện tại Mỹ tiến hành các thủ tục nộp đơn xin đăng ký NH trên toàn liên bang cũng như các thủ tục liên quan. Cần biết rằng, nếu nước sở tại của người nộp đơn là thành viên của một Công ước hoặc Hiệp ước quốc tế về NH mà Mỹ đã ký kết và người nộp đơn đã đăng ký NH, hoặc đã nộp đơn xin đăng ký NH tại nước thành viên đó, thì người nộp đơn này có quyền hưởng các lợi ích đặc biệt theo quy định của Công ước, Hiệp ước và của luật Mỹ. Luật NH Mỹ quy định bất cứ cá nhân nào là công dân một nước thành viên của bất kỳ Công ước, Hiệp ước NH nào mà Mỹ cũng là thành viên hoặc nước đó dành cho công dân Mỹ các quyền đôi bên cùng hưởng, đều có quyền được bảo hộ theo quy định của Luật NH Mỹ, cũng như các quyền lợi đặc biệt khác bao gồm bảo hộ công dân nước ngoài chống cạnh tranh không lành mạnh, bảo hộ tên thương mại của công dân nước ngoài mà không cần đăng ký, và cho phép có tư cách để có được một đăng ký (ở đây được hiểu là Giấy chứng nhận đăng ký NH tại Mỹ), thậm chí cả khi công dân nước ngoài chưa bao giờ sử dụng NH trong giao dịch thương mại giữa các tiểu bang của Mỹ hoặc trong thương mại quốc tế. Sau khi được đăng ký theo hệ thống liên bang, nếu người đăng ký là người nước ngoài mà không sử dụng NH trong giao dịch thương mại giữa các tiểu bang của Mỹ hoặc giữa Mỹ với nước ngoài, đăng ký sẽ bị hủy bỏ. Thời hạn hiệu lực của một đăng ký NH là 10 năm kể từ ngày nộp đơn. Tuy nhiên, để duy trì hiệu lực, người chủ phải sử dụng NH trong giao dịch thương mại. Tại Mỹ, li-xăng (chuyển quyền sử dụng) được coi là bằng chứng sử dụng, còn quảng cáo NH thì không. Thời hạn mà việc sử dụng phải bắt đầu là 5 năm kể từ ngày đăng ký, nếu không, đăng ký NH có thể bị vô hiệu (trừ phi việc không sử dụng được chứng minh một cách thỏa đáng). Theo quy định, trong khoảng thời gian giữa năm thứ năm và năm thứ sáu kể từ ngày đăng ký, người đăng ký phải nộp tờ khai xác nhận NH cũng như các hàng hóa, dịch vụ đã được liệt kê trong đăng ký hoặc gắn với NH vẫn đang được sử dụng. Đăng ký nhãn hiệu tại Nhật Bản ( theo Công ước Paris) Ở Nhật Bản các doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu theo Công ước Paris. Về nguyên tắc, việc đăng ký NH theo Công ước Paris được áp dụng trong trường hợp quốc gia, nơi mà chủ NH muốn NH của mình được bảo hộ là thành viên của Công ước Paris, nhưng không phải là thành viên của Thỏa ước Madrid. Nhật Bản không phải là thành viên của Thỏa ước Madrid (chỉ là thành viên của Nghị định thư Madrid), do đó nếu muốn đăng ký NH tại nước này, ông phải tiến hành nộp đơn theo Công ước Paris. Thủ tục nộp đơn sơ bộ theo Công ước Paris như sau: trước hết bạn phải nộp đơn đăng ký NH tại Cục Sở hữu trí tuệ. Trong vòng 6 tháng kể từ ngày đơn được Cục Sở hữu trí tuệ chấp nhận hợp lệ, ông có thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ NH của mình tại bất cứ quốc gia thành viên nào của Công ước (mà người nộp đơn muốn NH của mình được bảo hộ). Các đơn nộp sau sẽ được coi như nộp cùng ngày với ngày nộp đơn tại Cục Sở hữu trí tuệ. DN bắt buộc phải tiến hành các thủ tục nộp đơn thông qua một tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp ở quốc gia mà DN đăng ký NH, trừ trường hợp doanh nghiệp có cơ sở kinh doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện đang hoạt động thực sự tại nước đó. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp này, vẫn nên tham khảo tư vấn của các luật sư để tránh những rắc rối do sự thiếu hiểu biết về pháp luật của nước sở tại gây ra. Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá ở Châu Âu Cộng Đồng Châu Âu đã lập ra một hệ thống đăng ký NHHH riêng, độc lập với các nước thuộc cộng đồng, gọi là nhãn hiệu cộng đồng hay còn gọi là CTM. CTM là chữ cái đầu của tên tiếng Anh “Community Trade Mark". Khi đăng ký NHHH qua hệ thống đăng ký CTM, chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ phải nộp một đơn duy nhất cho một cơ quan đăng ký được thành lập riêng, độc lập với hệ thống đăng ký quốc gia của mỗi nước thành viên. Để được đăng ký CTM, nhãn hiệu phải được 15 nước trong cộng đồng đồng ý. Sau khi được đăng ký tại cơ quan đăng ký này, nhãn hiệu đó sẽ có hiệu lực ở tất cả các nước thành viên Cộng đồng Châu Âu. Ngược lại nếu nhãn hiệu bị huỷ bỏ hay mất hiệu lực ở một nước thành viên thì đương nhiên bị mất hiệu lực trong cả cộng đồng. VN là thành viên của Công ước Paris. Vì vậy các cá nhân, pháp nhân VN nếu có nhu cầu đều có thể đăng ký CTM. Chủ sở hữu nhãn hiệu hoàn toàn tự do nộp đơn đăng ký nhãn hiệu CTM hoặc nộp đớn quốc gia hoặc cả hai. Điều này có nghĩa là nhãn hiệu CTM và nhãn hiệu đăng ký quốc gia đều có thể song song tồn tại. Các loại nhãn hiệu được đăng ký bao gồm: NHHH, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận. Đơn đăng ký CTM nộp cho cơ quan đăng ký có tên là “The Office for Harmonnization in the Internal Market" viết tắt là OHIM có trụ sở đóng tại Tây Ban Nha. Đơn sau khi nộp tại OHIM sẽ được cơ quan này xét nghiệm về hình thức. Nếu đơn có các thông tin và tài liệu, ngày nộp đơn được ghi nhận. Sau đó đơn sẽ chuyển sang xét nghiệm nội dung. Trong giai đoạn xét nghiệm nội dung, nhãn hiệu trong đơn chỉ được xét nghiệm trên cơ sở tuyệt đối tức là đánh giá về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Nhãn hiệu CTM sau khi được đăng ký sẽ có hiệu lực 10 năm kể từ ngày nộp đơn và có thể được gia hạn nhiều lần liên tục, mỗi lần 10 năm và chủ sở hữu phải nộp lệ phí gia hạn. Việc chuyển nhượng hoặc chuyển giao sử dụng chỉ được cho phép khi việc chuyển nhượng hay chuyển giao đó là trong phạm vi cả cộng đồng, chứ không chỉ đơn lẻ trong một nước thành viên nào. Việc chuyển nhượng hay chuyển giao licence phải được lập bằng văn bản và đăng ký với OHIM thì mới có hiệu lực pháp luật. 1.4.3.Một số lưu ý khi đăng ký nhãn hiệu Qua thực trạng đăng ký kinh doanh tại Sở kế hoạch - Đầu tư các địa phương trong thời gian qua, có thể thấy một số vấn đề pháp lý đang nảy sinh như sau: Xác định thế nào là tên thương mại của doanh nghiệp - một việc tưởng dễ mà hoá khó. Việc các doanh nghiệp có tên gọi trùng nhau trong giấy đăng ký kinh doanh (cả về tên riêng, các bổ ngữ và loại hình sản xuất, kinh doanh) trên cùng một tỉnh, thành phố thì không xảy ra, nhưng lại có thể xảy ra trên các tỉnh thành khác nhau do chúng ta không có một cơ quan chung chuyên cấp giấy đăng ký kinh doanh và vì vậy, không thể có một cơ sở dữ liệu chung duy nhất. Tuy nhiên, việc có các doanh nghiệp chỉ khác nhau về tên gọi loại hình sản xuất, kinh doanh và các bổ ngữ (ví dụ: kinh doanh thực phẩm, chế biến nông sản, v.v.) còn trùng nhau về tên riêng là điều đã xảy ra trên cùng một địa bàn. Giải quyết các tranh chấp này là rất khó vì thiếu quy định rõ ràng. Nếu như các doanh nghiệp có các lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì dễ phân xử, nhưng trong điều kiện phát triển kinh tế hiện nay thì điều gì sẽ xảy ra nếu: - Các doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề; - Các tập đoàn lớn, đa ngành nghề có thể lấy cớ là uy tín của mình để có thể đè bẹp các doanh nghiệp nhỏ khác (không may trùng tên) tại các địa bàn khác; Và những tình huống khác cần chú ý: - Quy định nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu “trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác” sẽ gây khó khăn cho việc bảo hộ nhãn hiệu vì như đã biết, tên thương mại có phạm vi bảo hộ theo khu vực kinh doanh (hẹp hơn nhiều so với phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu). Vậy thì cơ quan chức năng sẽ căn cứ vào đâu để xác định khu vực kinh doanh của tên thương mại? Quy định này có thể được các bên sử dụng để làm phát sinh các tranh chấp trong tương lai. Chẳng hạn, có thể dùng để yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực của nhãn hiệu đang được bảo hộ. Việc này nếu xảy ra thì thực sự sẽ gây sự quá tải cho các cơ quan chức năng và nếu quá tải thì việc giải quyết tranh chấp sẽ bị đình trệ và từ đó, dẫn đến thực thi pháp luật không hiệu quả. - Giả sử tên thương mại chỉ có danh tiếng trong một khu vực địa lý nhất định thì liệu một nhãn hiệu đang được bảo hộ có bị đình chỉ hiệu lực tương ứng với khu vực đó không? Chưa có quy định nào nói về vấn đề này. - Xác định đâu là tên thương mại để làm cơ sở cho việc huỷ bỏ hiệu lực của một nhãn hiệu đang được bảo hộ còn là vấn đề hết sức mơ hồ. Như đã nói ở trên, thực trạng tên doanh nghiệp trong giấy đăng ký kinh doanh có thể chỉ khác nhau về loại hình sản xuất, kinh doanh, các bổ ngữ, còn vẫn trùng nhau về tên riêng - Thực tế thẩm định các đơn nhãn hiệu tại cơ quan chức năng cũng chưa thể áp dụng quy định liên quan đến tên thương mại vì rõ ràng là thiếu quá nhiều điều kiện (không có cơ sở dữ liệu chung, không có cơ sở pháp lý để xác định tên thương mại, khu vực kinh doanh, danh tiếng v.v..). Việc áp dụng (nếu có thể) sẽ kéo dài thời gian thẩm định lên rất nhiều (đi ngược với tiêu chí rút gọn thời gian xử lý). Tuy nhiên, sự phụ thuộc giữa nhãn hiệu và tên thương mại như đã nói ở trên vẫn sẽ được áp dụng (do đã quy định trong Luật SHTT) và đây là quy định mà các doanh nghiệp cần tính đến và vận dụng sao cho linh hoạt trong các tranh chấp thương mại (kể cả với các doanh nghiệp nước ngoài). CHƯƠNG 2.BẢO HỘ NHÃN HIỆU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 2.1. Khái quát chung Việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá hay còn được gọi là đăng ký nhãn hiệu ở VN có những thay đổi qua từng thời gian. Trong thời gian bao cấp, hầu như các DN không chú ý đến việc tạo nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu. Nhãn hiệu được đăng ký rất ít tại các cơ quan chức năng. Nhưng đến khi nước ta có chính sách mở cửa thì có một nhận thức mới về tài sản sở hữu trí tuệ và một sức cạnh tranh của một nhãn hiệu cho nên nhu cầu của các DN tạo ra và đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng như việc sử dụng tốt bắt đầu nảy sinh, lượng đăng ký của các DN tốt hơn. Nhưng thực sự việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của DN có bước đột phá là từ năm 2000 trở lại đây, là thời điểm mà VN có những bước tiến mạnh mẽ để tham gia WTO và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Những cố gắng của các cơ quan quản lý, tuyên truyền, cơ quan chức năng, và cơ bản là ý thức DN được nâng cao cộng thêm tác động của một số vụ DN VN bị mất nhãn hiệu ở nước ngoài nên hoạt động đăng ký hiện nay có bước đột phá rất lớn. Bảng 1.1.Số liệu thống kê về đơn đăng ký, xác lậpsở hữu công nghiệp năm 2007 STT Loại đơn đăng ký Tiếp nhận đơn Các văn bằng chấp nhận/bảo hộ 1. Sáng chế/GPHI 3.080 (Tăng28%) 792 (Tăng 7%) 2. Kiểu dáng công nghiệp 1.908 (Tăng 19%) 1.360 (Tăng 16%) 3. Nhãn hiệu đăng ký quốc gia 27.070 (Tăng 17%) 16.622 (Tăng 77%) 4. Nhãn hiệu đăng ký quốc tế 4.920 (Tăng 21%) 4.422 (Tăng 29%) 5. Chỉ dẫn địa lý 4 7 6. Thiết kế, bố trí mạch tĩnh hợp 1 Tổng hợp 36.987 (Tăng 19%) 22.203 (Tăng 57%) so với năm 2006 (Nguồn: Cục Sở hữu trí tuệ) 2.1.1.Trước khi Việt Nam gia nhập WTO Câu chuyện đã được đặt ra từ những năm 1990, với các điều khoản về sở hữu trí tuệ trong Bộ Luật Dân sự 1995 và khoảng trên 40 văn bản liên quan khác, cho đến năm 2005 khi Luật sở hữu trí tuệ ra đời. Việc tham gia vào các các điều ước quốc tế song phương và đa phương đã tạo điều kiện để chúng ta hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ. Hầu hết các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đã được điều chỉnh bởi pháp luật. Về mặt hành pháp, Nhà nước đã bước đầu quy định cho ba cơ quan: Cục sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học - Công nghệ) đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp; Cục bản quyền tác giả (Bộ Văn hoá - Thông tin) đăng ký xác lập quyền tác giả và các quyền liên quan; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đăng ký xác lập quyền đối với giống cây trồng mới. Trên thực tiễn cũng hình thành ba cách thức thực thi quyền sở hữu trí tuệ chính, đó là: (i) Biện pháp hành chính, qua một số cơ quan như Thanh tra Khoa học công nghệ, Thanh tra văn hoá thông tin, Công an; Quản lý thị trường; Hải quan... (ii) Biện pháp dân sự, khi người sở hữu có quyền khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện, và (iii) Biện pháp hình sự. Bộ Luật Hình sự 1999 đã đưa các tội danh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là căn cứ để các cơ quan tố tụng có thể điều tra, truy tố, xét xử. Luật sở hữu trí tuệ 2006 đã mạnh tay hơn khi xác định biện pháp hình sự là một biện pháp răn đe chính. 2.1.2. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO Gia nhập WTO, chúng ta sẽ phải đối mặt với không ít thách thức về sở hữu trí tuệ. Chắc chắn các quan hệ thương mại, dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ gia tăng nhanh chóng, đòi hỏi các cơ quan chức năng và doanh nghiệp phải tranh bị những kiến thức về pháp luật quốc tế. Lâu nay chúng ta vẫn quen chỉ sử dụng luật “nước mình”. Việc áp dụng chính xác luật, việc dẫn chiếu pháp luật, sử dụng thành thảo quy phạm xung đột pháp luật... là rất quan trọng đối với cả nhà nước và doanh nghiệp. Hiện tại, cùng với Bộ Luật dân sự 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005, Chính phủ đã ban hành một số văn bản hướng dẫn chi tiết về các quyền và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam như các Nghị định số 120/2005/NĐ-CP; 100/2006/NĐ-CP; 103/2006/NĐ-CP; 104/2006/NĐ-CP; 105/2006/NĐ-CP; 106/2006/NĐ-CP. Với các nghị định này, pháp luật sở hữu trí tuệ nước ta đã tiệm cận dần đến cácWnguyên tắc và quy định của WTO, WIPO... Về đối ngoại, chúng ta đã là thành viên của các Điều ước quan trọng như Công ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp ước hợp tác Patent, Công ước Berne về bản quyền... và đặc biệt là Hiệp định TRIPS.Ngoài ra, các điều ước quốc tế đa phương và song phương liên quan đến việc khiếu nại, xét xử, trọng tài, thi hành bản án, quyết định, tương trợ tư pháp... giữa Việt Nam và các nước là những cơ sở quan trọng trong công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, công tác hỗ trợ và tư vấn về sở hữu công nghiệp trong đó có vấn đề “bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá” cũng đã được chú trọng và thực hiện thường xuyên, các hoạt động nhằm hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp bước đầu được triển khai trên nhiều lĩnh vực. Thông qua Cục sở hữu trí tuệ ngoài việc tư vấn, hướng dẫn thủ tục đăng ký sở hữu công nghiệp được thực hiện thường xuyên cho hàng trăm lượt người, các hoạt động nhằm hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp xây dựng và phát triển tài sản trí tuệ (đặc biệt là chỉ dẫn địa lý) cũng được tăng cường. Chương trình Hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp (được phê duyệt theo Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/04/2005) đã được triển khai ngay sau khi Thông tư quản lý tài chính của Chương trình được ban hành (ngày 31/10/2006) với hàng loạt hạng mục công việc có nội dung khác nhau. Đồng thời, công tác thông tin và năng lực thông tin về sở hữu công nghiệp cũng tiếp tục được hoàn thiện, phát triển. Cục Sở hữu trí tuệ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các cơ sở dữ liệu và công cụ tra cứu thông tin về sở hữu công nghiệp (hệ thống phân loại sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu phù hợp với quốc tế, các chương trình tra cứu thông tin, số hoá tư liệu sáng chế), bổ sung hàng chục vạn tư liệu sở hữu công nghiệp và phát hành các sản phẩm thông tin nhằm nâng cao chất lượng phục vụ thông tin về sở hữu công nghiệp cũng như phục vụ đắc lực công tác xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp. Ngoài ra, công tác thực thi và giải quyết khiếu nại tiếp tục được Cục Sở hữu trí tuệ chú trọng theo hướng hiệu quả. Ngoài việc tiếp nhận và xử lý hàng trăm đơn khiếu nại về xác lập quyền sở hữu công nghiệp, yêu cầu chấm dứt, huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, Cục Sở hữu trí tuệ còn tham gia thẩm định, giám định pháp lý về sở hữu công nghiệp theo yêu cầu của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân, cũng như tích cực tham gia các hoạt động tư pháp, tố tụng liên quan đến giải quyết khiếu nại và tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp tại Toà án, đặc biệt là phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thực thi xử lý hàng trăm vụ vi phạm hành chính và xâm phạm về sở hữu công nghiệp. Nhằm khắc phục tình trạng xâm phạm, vi phạm về sở hữu trí tuệ, nạn hàng giả, hàng nhái… tiếp tục diễn ra nghiêm trọng làm cho hệ thống sở hữu trí tuệ bị coi là thiếu hiệu quả, Cục Sở hữu trí tuệ đã chủ trì nghiên cứu, tu chỉnh và trình Thủ tướng phê duyệt Đề án “Nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ” triển khai thực hiện năm 2007. Theo ông Trần Việt Hùng, Cục trưởng Cục SHTT trong năm 2007, Cục này đã tiếp nhận khoảng 27.000 đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, tăng 20% so với năm 2006. Điểm tích cực là các DN Việt Nam đang nhận thức tốt hơn về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, với khoảng 70% lượng đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu năm 2007 là của chủ thể Việt Nam, còn lại là của người nước ngoài. "Đây là bước tiến lớn trong công tác bảo hộ SHTT tại Việt Nam, cho thấy nhận thức về bảo hộ SHTT của các DN Việt Nam tốt hơn những năm trước (Theo Cục sở hữu trí tuệ). Bên cạnh đó thì công tác giải quyết khiếu nại trong năm 2007 cũng tăng đáng kể. Năm 2007, Cục SHTT đã tiếp nhận khiếu nại gần 400 vụ, trong đó đề nghị đình chỉ, hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ khoảng 105 đơn. Theo ông Nguyễn Thanh Hồng, Trưởng phòng thực thi và khiếu nại (Cục SHTT), điểm đặc trưng trong năm 2007 là đã áp dụng mức phạt về hành vi vi phạm SHTT ở mức 100 triệu đồng không còn hiếm nữa (Theo Cục sở hữu trí tuệ). 2.2. Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam tại nước ngoài Từ khi VN gia nhập WTO, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài đang được các DN ngày càng quan tâm nhằm đảm bảo vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế. Xu thế chung hiện nay của các DN là không đơn thuần làm gia công cho các Cty nước ngoài mà chủ động xây dựng nhãn hiệu riêng của mình với tham vọng phát triển ngang tầm với các DN nước ngoài. Rất nhiều nhãn hiệu Việt Nam đã vươn ra thị trường nước ngoài và dần khẳng định mình trên trường quốc tế như café Trung Nguyên, mì Vifon AceCook, đậu phộng Tân Tân… và cũng bắt đầu xuất hiện những vụ việc làm hàng giả, hàng vi phạm nhãn hiệu, cạnh tranh không lành mạnh với các sản phẩm nhãn của Việt Nam. Công cụ chính để bảo vệ nhãn hiệu chính là việc đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu tại quốc gia nơi sản phẩm, dịch vụ kinh doanh. Tuy nhiên, một trở ngại lớn đã xuất hiện khi việc đăng ký nhãn hiệu tại nước ngoài tỏ ra phức tạp khi hệ thống đăng ký nhãn hiệu của mỗi quốc gia khác nhau, thủ tục khác nhau, ngôn ngữ khác nhau và đặc biệt là chi phí khá lớn cho việc thuê các văn phòng luật sư về nhãn hiệu để đăng ký bảo hộ. Trung bình chi phí đăng ký một nhãn hiệu cho một nhóm sản phẩm ở một quốc gia khoảng 300 USD đến 1500 USD. Để khắc phục tình trạng này, các quốc gia đã thông qua một thỏa ước quốc tế Madrit về Đăng ký nhãn hiệu quốc tế. Theo đó các công dân của các quốc gia thành viên Thỏa ước chỉ cần nộp đơn cơ quan đăng ký nhãn hiệu quốc gia (Việt Nam là Cục Sở hữu trí tuệ ) sau đó đơn sẽ chuyển tới Tổ chức sở hữu trí tuệ WIPO để đăng ký nhãn hiệu nước ngoài theo các quốc gia chỉ định sẵn. Mặc dù Thỏa ước Madrid mang lại nhiều lợi ích cho các nhà sản xuất và kinh doanh về thủ tục, thời gian, chi phí, quản lý và Việt Nam được chấp nhận là thành viên chính thức của Thỏa ước Madrid từ 8/3/1949, nhưng cho đến năm 1986 mới chỉ có một nhãn hiệu đầu tiên của Việt Nam được yêu cầu bảo hộ ở nước ngoài thông qua Thỏa ước này. Nhãn hiệu thứ hai được yêu cầu bảo hộ năm 1994 và đến nay đã có 123 nhãn hiệu có nguồn gốc Việt Nam được yêu cầu bảo hộ ở nhiều nước khác nhau theo Thỏa ước Madrid với tổng số nước được yêu cầu chỉ định ước tính khoảng 900 lượt nước cho nhiều nhóm hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Số lượng đơn yêu cầu bảo hộ theo Thỏa ước tăng lên chủ yếu trong 5 năm trở lại đây, điều này chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ra nước ngoài. Trong đó có các doanh nghiệp lớn của Nhà nước nhưng đồng thời cũng có những cơ sở nhỏ, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Một phần là do cản là nhãn hiệu muốn nộp đơn theo Thỏa ước Madrit thì nhãn hiệu đó phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam. Mặc dù Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam đang cố gắng rút ngắn thời gian xét nghiệm đơn nhãn hiệu nhưng thời gian để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam thông thường kéo dài khoảng 12 tháng đôi khi còn kéo dài hơn nữa. Việc này đã gây cản trở cho việc doanh nghiệp Việt Nam muốn cùng lúc xây dựng nhãn hiệu ở trong nước đồng thời khuếch trương ở nước ngoài trong khi nhãn hiệu lại chưa được cấp độc quyền tại Việt Nam. Hiện có khoảng 2.000 nhãn hiệu đăng ký theo phương thức kết hợp, trong đó có 153 nhãn hiệu của Việt Nam nộp đơn theo MA (Madrid Agreement) và MP (Madrid Protocol) so với số lượng đăng ký quốc tế chỉ định Việt Nam: 58.866 nhãn hiệu của nước ngoài vào Việt Nam. Chỉ sau hơn 1 năm, từ 11/7/2006, đã có 452 nhãn hiệu của Mỹ đăng ký vào Việt Nam, 257 của EU, 232 của Nhật Bản chỉ định vào Việt Nam  theo MP”.(Theo Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam). Thực ra thì đối với thị trường nước ngoài, do chi phí cho việc đăng ký khá lớn, doanh nghiệp cần cân nhắc khả năng xâm nhập vào từng thị trường cụ thể để quyết định xem có nên đăng ký nhãn hiệu hay không. Tại những thị trường mà sản phẩm của doanh nghiệp hầu như không có khả năng xuất khẩu thì cũng không cần quan tâm đến việc đăng ký làm gì cho tốn kém. Ngay cả khi nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam bị nẫng tay trên tại thị trường nước ngoài, thì cũng cần cân nhắc có nên tiến hành các thủ tục kiện tụng tốn kém hay không. Rất có thể nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam mặc dù bị “ăn cắp” nhưng thực tế không được mấy ai biết đến, hoặc có khi xuất khẩu dưới một cái tên mới lại có lợi hơn. Bảo hộ nhãn hiệu Việt tại Thị trường Mỹ Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA) đã tạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10055.doc
Tài liệu liên quan