Chuyên đề Biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội Việt Nam thời kỳ cận- hiện đại

Mục lục

 

I. Mở đầu

II. Nội dung

2.1. Sự hình thành giai cấp tư sản Việt Nam

2.1.1. Mầm mống chủ nghĩa tư bản trong lòng xã hội Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược

2.1.2. Sự hình thành giai cấp tư sản Việt Nam

2.2. Khái quát về giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc.

2.2.1. Có hay không có giai cấp tư sản mại bản ở Việt Nam

2.2.2. Sự phát triển của giai cấp tư sản Việt Nam

2.2.3. Đặc điểm giai cấp tư sản mại bản Việt Nam

2.2.4 Thái độ của tư sản mại bản đối với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân ta.

2.3. Giai cấp tư sản mại bản dưới chế độ thực dân mới của Mỹ

2.3.1. Tình hình mới- những thay đổi mới

2.3.2. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp tư sản mại bản miền Nam dưới chế độ thực dân mới của Mỹ

2.3.3. Thái độ của giai cấp tư sản mại bản đối với cuộc cách mạng giải phóng của nhân dân miền Nam Việt Nam

2.4. Nhận xét về giai cấp tư sản mại bản Việt Nam

3. Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

 

 

 

 

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2322 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội Việt Nam thời kỳ cận- hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hu tô phong kiến. Như vậy có thể đi đến kết luận về đạc điểm của giai cấp tư sản mại bản Việt Nam thời Pháp thuộc là hưởng chung lợi nhuận cao nhất với tư bản lũng đoạn ngoại quốc, nhưng lại rất nhỏ bé về kinh tế, hèn yếu về chính trị và có liên hệ với địa chủ phong kiến. Đó là kết quả tất yếu do chính sách thống trị của thực dân Pháp đem lại. Những đặc điểm này sẽ thay đổi lớn trong giai đoạn lịch sử tiếp theo. 2.2.4. Thái độ của tư sản mại bản đối với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Nguyện vọngkinh tế của đám tư sản mại bản phản ánh rằng họ đã là một giai cấp. Nhưng ý thức giai cấp còn thể hiện rõ hơn nữa ở lập trường chính trị của họ. Là con đẻ của chủ nghĩa đế quốc Pháp, lập trường căn bản của tư sản mại bản là bảo vệ và duy trì chế độ thống trị Pháp. Ngay từ khi được thành lập, trên các tờ báo được coi là cơ quan ngôn luận của giai cấp mình, tư sản mại bản đã khẳng định lập trường trung thành với chính phủ thực dân của mình. Nhưng do tính chất của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ mới đang trong giai đoạn tự phát nên bản chất phản cách mạng của nó chưa nổi bật. Trong thời kỳ đấu tranh cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản 1920- 1925, do mang nặng tính cải lương chủ nghĩa nên nó không đụng chạm gì tới tư sản mại bản. Do vậy mà tuy bản chất là bảo vệ chế độ thống trị Pháp, nhưng nó vẫn chưa đối kháng rõ rệt với phong trào đòi tự do dân chủ tư sản lúc bấy giờ. Khoảng từ 1926-1929, trong phong trào đấu tranh dân chủ lấy đối tượng chính là bọn tư bản thực dân để giành quyền lợi cho giai cấp, nó chưa trực tiếp đả kich vào giai cấp tư sản mại bản. Nhưng từ khi Đảng tiền phong của giai cấp công nhân ra đời, đấu tranh kinh tế hoà lkẫn với đấu tranh chính trị và phục vụ cho đấu tranh chính trị. Thế là chẳng những vận mệnh của đế quốc và phong kiến bị uy hiếp mà vận mệnh của giai cấp tư sản mại bản cũng bị đe doạ. Giai cấp tư sản mại bản không thể tồn tại nếu đế quốc và phong kiến bị quật đổ. đã đến lúc giai cấp tư sản mại bản không thể không bộc lộ rõ bản chất phản động của nó. 2.3. Giai cấp tư sản mại bản Việt Nam dưới chế độ thực dân mới của Mỹ 2.3.1. Tình hình mới- Những thay đổi mới. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh của dân tộc ta, một nửa đất nước được hoàn toàn giải phóng ở miền Bắc. Tình hình đó đã làm cho chỗ dựa về kinh tế và chính trị của bọn tư sản miền Bắc đã không còn nữa. Nên trong khi bọn tàn quân Pháp hối hả rút quân khỏi nước ta thì bọn tư sản mại bản miền Bắc cũng hối hả chạy vào Nam. Do vậy trong thời kỳ này chúng tôi chỉ tập trung chủ yếu khảo sát về giai cấp tư sản mại bản ở miền Nam nước ta, bởi ở miền Bắc kể từ 1954 trở đi và đặc biệt là sau cải cách ruộng đất, về cơ bản giai cấp tư sản mại bản đã bị tiêu diệt. Nếu như đế quốc Pháp trước đay cai trị Việt Nam bằng một bộ máy nhà nước thực dân có các viên chức người Pháp trực tiếp nắm giữ trong các ngành hành chính và chuyên môn. và bằng cách cướp đoạt thuế má, trực tiếp nắm độc quyền quan thuế, do đó trực tiếp độc quyền kinh doanh nông, công, thương nghiệp, tài chính, tiền tệ...Thì ngày nay ở miền Nam Việt Nam đế quốc Mỹ lại dùng “viện trợ” và một bọn cố vấn Mỹ, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa của chúng. Thêm vào đó, chúng tạo ra ở miền Nam một chính quyền tay sai với danh nghĩa “độc lập”, dùng chính quyền đó phục vụ chính sách xâm lược gây chiến tranh, cướp đoạt lợi nhuận cao nhất của nó. “ Viện trợ” Mỹ chính là một công cụ của chủ nghĩa thực dân mới. Dưới tác động của “viện trợ” Mỹ, miền Nam đã biến thành một căn cứ quân sự của Mỹ:; hàng hoá “viện trợ” Mỹ tràn ngập thị trường miền Nam, bóp chết nền công thương nghiệp dân tộc. Do “viện trợ” Mỹ mà miền Nam phảI hướng việc xuất nhập khẩu theo chiều phiến diện là buôn bán và phụ thuộc vào Mỹ, phải đảm bảo mua hàng của tư bản Mỹ với giá cao và bán hàng cho Mỹ với giá rẻ hơn ở thị trường thế giới. “ Viện trợ” Mỹ là công cụ đã biến miền Nam thành căn cứ quân sự, thuộc địa, phụ thuộc vào đế quốc về mọi mặt quân sự, kinh tế, chính trị; nhà nước cộng hoà độc lập miền Nam là công cụ chính sách thống trị của Mỹ. Trong điều kiện đế quốc Mỹ dùng hình thức thực dân kiểu mới đẻ biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng thì những đặc điểm của giai cấp tư sản mại bản Việt Nam tức là giai cấp chủ yếu làm đại lý cho đế quốc Mỹ, đã có những biến chuyển khác so với thời thuộc Pháp. Những chuyển biến ấy không làm mất đi tính chất cơ bản của giai cấp tư sản mà ngược lại càng thể hiện rõ ràng hơn, sâu sắc hơn bản chất phản động của nó. 2.3.2. Những đặc điểm căn bản của giai cấp tư sản mại bản miền Nam dưới chế độ thực dân mới của Mỹ. 2.3.2.1. Đặc điểm 1: Giai cấp tư sản mại bản miền Nam đã quan liêu hoá, bộ phận tư sản mại bản thân Mỹ đã cùng với bọn đại địa chủ phong kiến thân Mỹ nắm chính quyền. Chủ nghĩa thực dân mới là một chính sách cơ bản, một nội dung chủ yếu của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ. đặc điểm nổi bật và có tính chất quy luật của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ là ởi chỗ nó được thực hiện không phảI bằng hệ thống cai trị trực tiếp của bọn đế quốc mà thông qua một chính quyền tay sai, đại biểu cho quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc”, “dân chủ” giả hiệu. Từ sau chiến tranh Thế giới thứ hai, cùng với những âm mưu và hành động can thiệp ngày càng sâu vào một số nước trên Thế giới, đế quốc Mỹ đã dựng nên ở những nước đó chính quyền tay sai khoác áo “quốc gia”, “độc lập” giả hiệu nhưng thực chất là một chế độ tay sai hoạt động tích cực cho tư bản độc quyền Mỹ. Một chính quyền quân phiệt, phát xít, độc tài. Bản chất phản động, hiếu chiến đến cùng của các chính quyền này bắt nguồn từ tính chất giai cấp của chúng. Chúng đều đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản mại bản quan liêu và các thế lực phong kiến phản động nhất ở địa phương, có quyền lợi gắn chặt với quyền lợi của đế quốc Mỹ. Cũng như giai cấp tư sản mại bản ở các nước thuộc địa phụ thuộc vào Mỹ, giai cấp tư sản mại bản ở miền Nam nước ta đã không ngừng bành trướng thế lực và thực ssự cầm quyền suốt 20 năm dưới chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ. Như chúng ta đều biết, giai cấp tư sản mại bản là sản phẩm của chính sách thực dân của đế quốc, là chỗ dựa đắc lực cho bọn đế quốc xâm lược nước ta. Từ trước đến nay, giai cấp tư sản mại bản luôn luôn là lực lượng cực kỳ phản động. Thời thực dân Pháp thống trị, giai cấp tư sản mại bản Việt nam được đế quốc Pháp nâng đỡ đã cấu kết chặt chẽ với đế quốc Pháp và bọn chính quyền tay sai bán nước để làm giàu trên mồ hôi, xương máu của đồng bào ta. Tuy nhiên, do chính sách độc chiếm toàn bộ nền kinh tế thuộc địa và cai trị bằng cả một bộ máy hành chính, quân sự của thực dân Pháp, nên giai cấp tư sản mại bản Việt Nam không trực tiếp tham gia nắm chính quyền. Chúng hầu như chỉ hoạt động được trong các ngành xuất nhập khẩu, đóng vai trò đại lý cho các công ty tư bản thực dân. tuy vậy hoạt động của chúng trong các ngành này cũng bị hạn chế. Nhưng từ sau năm 1954, thay chân thực dân Pháp ở nước ta, áp dụngchính sách thực dân kiểu mới tại đây, Mỹ đã chọn giai cấp tư sản mại bản, bọn quan liêu, quân phiệt làm chỗ dựa chủ yếu của chính quyền tay sai thực dân mới. Để thực hiện ý đồ này, chúng dốc sức xây dựng một cơ sở hạ tầng cho chủ nghĩa thực dân mới, mở rộng các thành phố, thị xã, xây dựng ở miền Nam cơ sở vật chất và kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa tư bản nhằm tạo nên một cơ sở kinh tế cho giai cấp tư sản mại bản tay sai Mỹ. Sự phát triển của giai cấp tư sản mại bản ở miền Nam trong 20 năm qua gắn chặt với viện trợ Mỹ, với chiến tranh xâm lược của Mỹ. chính sách “viện trợ thương mại hoá” và chính sách kinh tế phục vụ chiến tranh xâm lược của Mỹ là “vú sữa” nuôi béo bọn tư sản mại bản miền Nam. Chiến tranh càng lớn, quân đội viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam càng đông, “viện trợ” Mỹ đổ vào càng nhiều thì tư sản mại bản miền Nam càng phát triển. Quá trình hình thành và phát triển đội ngũ tư sản mại bản quan liêu, quân phiệt, tay sai Mỹ là một quá trình mâu thuẫn, chèn ép, đấm đá nhau kịch liệt, một quá trình “cá lớn nuốt cá bé”. Bọn có thế lực, bám vào Mỹ- Ngụy, được Mỹ- Nguỵ hà hơi tiếp sức, làm cai thầu phục vụ chiến tranh xâm lược của Mỹ thì càng tập trung và càng có nhiều điều kiện để lũng đoạn nhiều ngành kinh tế, trong đó đa số là bọn xuất thân từ địa chủ phong kiến, hoặc từ tầng lớp sĩ quan cao cấp, hoặc từ tầng lớp quan lại, công chức cao cấp của chế độ thực dân. Ra đời từ viện trợ Mỹ, phất lên từ cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, lại được Mỹ nâng đỡ, mặc sức cho làm giàu, nên ngay từ đầu giai cấp tư sản mại bản đã trở thành công cụ phục vụ đắc lực của đế quốc Mỹ thống trị nhân dân miền Nam. Có thể khẳng định như vậy vì những lý do nổi bật sau: - Một bộ phận giai cấp tư sản mại bản miền Nam đã nắm giữ hầu hết các chức vụ chủ chốt trong chính quyền, quân đội, hình thành nên bọn mại bản quan liêu, quân phiệt, tay sai đắc lực của Mỹ. Đế quốc Mỹ sau khi thay chân thực dân Pháp thống trị miền Nam chẳng những chỉ chọn giai cấp tư sản mại bản làm chỗ dựa chủ yếu cho chính sách thực dân mới mà còn để bọn chúng trực tiếp cầm quyền. Cho nên, ngay từ thời Diệm, chính quyền tay sai Mỹ đã thực sự do bọn tư sản mại bản và địa chủ thân Mỹ khống chế. Chính phủ đầu tiên mà dế quốc Mỹ lập nên tại miền Nam Việt Nam là chế độ gia đình trị của Ngô Đình Diệm. Anh em Diệm đã chia nhau nắm giữ, chi phối chính quyền, quốc hội, quân đội, và do đó chia nhau nắm chặt những ngành kinh tế then chốt như hầm mỏ, đồn điền, tài chính, ngân hàng. riêng vợ chồng Nhu- kẻ làm cố vấn cho Diệm, quyền uy nghiêng ttrời lệch đất; kẻ khống chế quốc hội, đã thâu tóm và quản lý tất cả các ngoại tệ, điều khiển hối đoái, buôn tiền ngoại quốc, độc quyền chi phối xuất, nhập cảng. Ngô Đình Cẩn- ‘vua miền Trung”, một tên tàn bạo khét tiếng khống chế mọi hoạt động của chính quyền ở miền Trung, đã nắm tất cả các nhà thầu. Ai muốn thầu gì nhất nhất phải nộp cho “cậu Cẩn” 3% số tiền thu được. Cũng là tư sản mại bản tham chính mà do đó, ỷ vào quyền lực, mặc sức làm giàu có hàng trăm tên khác như Trần Văn Lắm, Nguyễn Cao Thắng, Trần Lệ Xuân, Mai Văn Hàm... Qua thời Minh- Khánh, nhất là đến Thiệu, bộ phận tư sản mại bản trực tiếp cầm quyền ngày càng đông. trong chính quyền trung ương nguỵ có 25 tên thì 18 tên là tỷ phú hoặc có tài sản 7800 triệu đồng. Trong số 228 nghị sĩ thượng, hạ viện có tới hơn 100 tên là tư sản mại bản có số vốn xấp xỉ nêu trên. Nhưng nói đến tầng lớp mại bản làm giàu trong chiến tranh không thể không kể đến các hình thức kinh doanh của bọn tướng tá Ngụy. Đây là một loại mại bản đặc biệt, một tầng lớp kinh doanh chủ yếu là buôn người và buôn lậu. Hơn bất kỳ một bọn nào khác trong giới cầm quyền, chúng được chủ Mỹ o bế, cưng chiều. Nó đã chèn ép tất cả các đảng pháikhác, nắm trọn quyền hành. Đó là các thiếu uý hay trung uý phường trưởng, đại tá tỉnh trưởng và đô trưởng Sài Gòn, là bọn tướng tư lệnh các quân khu trong bộ quốc phòng, bọn tham mưu quân nguỵ. Chúng khống chế, nẵm giữ việc tổ chức từ các quán bar, nhà chứa cho đến ngành kinh doanh hoá chất, xuất nhập khẩu, các ngân hàng lớn và là chùm những vụ buôn lậu khủng khiếp. Cấp càng cao, quyền càng lớn, buôn bán càng mạnh thì của cải càng nhiều. Từ chỗ cùng cầm quyền, có quyền lợi gắn bó với nhau, gắn bó với Mỹ, bọn mại bản quan liêu quân phiệt trở thành công cụ đắc lực của chủ nghĩa thực dân mới Mỹ. - Giai cấp tư sản mại bản miền Nam nắm độc quyền kinh doanh trong mọi ngành kinh tế, khống chế các cơ sở sản xuất, lưu thông, phân phối quan trọng. Ngay từ thời Diệm, bằng chính sách viện trợ thương mại hoá dành cho bọn tay sai trung thành nắm độc quyền nhập cảng, làn môi giới trong việc bán hàng viện trợ, hưởng hoa hồng tới 25% giá hàng, đồng htời tổ chức ra các công ty hỗn hợp, Mỹ đã sớm tạo ra giai cấp tư sản mại bản, con đẻ của đồng đô la. Về sau, chiến tranh càng mở rộng, viện trợ Mỹ ném vào miền Nam ngày càng nhiều thì đám người toàn quyền chi phối miếng mồi béo bở ấy càng phất lên nhanh chóng. Nói cách khác, bằng các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội, kết hợp với việc nâng đỡ, giành cho tư sản mại bản miền Nam những đặc quyền, đặc lợi, những chế độ ưu đãi, trong kinh doanh xuất nhập khẩu, trong việc làm cai thầu chiến tranh, chủ nghĩa thực dân mới Mỹ đã duy trì được một tầng lớp tư sản mại bản thân Mỹ có thế lực về chính trị, có nhiều quyền lực về kinh tế, nắm độc quyền kinh doanh các ngành kinh tế, nắm giữ hầu hết tất cả các cơ sở sản xuất, lưu thông, phân phối quan trọng, lập thành một hệ thống kinh doanh có tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, từ thành thị đến nông thôn và lũng đoạn giá cả. Trên cơ sở khống chế, lũng đoạn, độc quyền kinh doanh, các ngành công thương nghiệp, nắm giữ các mạch máu kinh tế ở thành thị, giai cấp tư sản mại còn thông qua hệ thống ngân hàng, tín dụng, qua các đại lý xăng dầu, phân bón, máy móc nông nghiệp và thông qua mạng lưới qua mạng lưới kinh doanh lúa gạo từ trên xuống dưới, đến tận xã, ấp để thao túng nền kinh tế nông thôn, thu mua lúa gạo bóc lột,vơ vét vủa cảI của nông dân. Chính vì vậy, thế lực kinh tế của giai cấp tư sản mại bản ở miền Nam nói chung, của từng tên tư sản nói riêng đều rất lớn. Ra đời từ viện trợ Mỹ, phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, giai cấp tư sản mại bản đã độc chiếm không kể bất cứ ngành nghề gì để làm giàu trên mồ hôi, xương máu và cả nỗi đau khổ của tất thảy nhân dân miền Nam. - Giai cấp tư sản mại bản cấu kết chặt chẽ với bọn quân phiệt cầm quyền, làm giàu trong chiến tranh xâm lược của Mỹ. Đi đôi với hành động quân phiệt, cảnh sát hoá bộ máy nguỵ quyền, biến đám sĩ quan quân đội trở thành công cụ đắc lực của bộ máy thực dân mới, Mỹ đã dùng miếng mồi vật chất, thực hiện ý đồ tư sản hoá bọn cầm đầu nguỵ quyền, ngụy quân. Bởi vậy, hầu hết những tên giữ vai trò chủ chốt trong chính quyền, quân đội đã cấu kết với tư bản lũng đoạn Mỹ, tham gia kinh doanh, trở thành những tên tư sản mại bản quan liêu, quân phiệt cực kỳ phản động. Trong lúc ấy, nhiều tên tư sản mại bản tuy không trực tiếp tham gia bộ máy Nhà nước, không quyền cao chức trọng, nhưng lợi dụng uy thế của bọn cầm đầu chính quyền quân đội để làm ăn phát đạt. Con đường kinh doanh làm giàu của chúng là con đường câu kết với đế quốc Mỹ, với bọn quân phiệt cầm quyền để bòn rút, cướp giật của cải của nhân dân. Nhờ vậy mà nhiều tên đã phất lên nhanh chóng, chi phối cả đám quân phiệt cầm quyền, thậm chí có quyền hành rộng lớn hơn cả tướng tá nguỵ quân, tổng trưởng, tỉnh trưởng nguỵ quyền. Trong chừng mực nào đấy, chúng đã biến bọn cầm đầu ngụy quân, ngụy quyền thành tay chân, thành chỗ dựa cho chúng tuỳ tiện kinh doanh, gây tội ác với nhân dân. 2.3.2.2. Đặc điểm 2: Thế lực kinh tế của giai cấp tư sản mại bản, nhất là bọn mại bản thân Mỹ, đã phát triển mạnh Từ chỗ cầm quyền, nắm độc quyền về chính trị, giai cấp tư sản mại bản ở miền Nam càng có điều kiện phát triển thế lực về kinh tế. Trong thời kỳ kháng chiến, mọi nguồn nhân lực, vật lực của cả nước đều dồn cho chiến tranh. Vì vậy, nền công nghiệp dân tộc bị giảm sút, thị trường nguyên liệu và tiêu thụ ở nông thôn hầu như bị cắt đứt với thành thị. Còn ở thành thị, do dân số tăng cao bởi sự tập trung của quân đội viễn chinh Pháp và bọn ngụy binh, người ở nông thôn cũng chạy ra thành thị nhiều, nguôn tiêu thụ hàng hoá rất lớn, mà ở thành thị lại ngập tràn hàng hoá ngoại. tình hình đó tạo ra một số tư sản mại bản làm giàu lên nhanh chóng như: Mai Văn Hàm, Nguyễn Văn Chung, Vũ Ngọc Tiến, Trần Văn Chi... Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, hầu hết bọn tư sản mại bản chạy vào miền Nam tiếp tục kinh doanh với đế quốc. Miền Nam trở thành nơi tập trung tất cả bọn tư sản mại bản. Nhưng cũng từ sau khi hoà bình lập lại, đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp khỏi miền Nam Việt Nam, “viện trợ” trực tiếp cho chính quyền miền Nam. Với hình thức thực dân kiểu mới của Mỹ, giai cấp tư sản maị bản càng có khuynh hướng phát triển, nhất là bọn mại bản thân Mỹ. “ Viện trợ” Mỹ một phần là vũ khí và quân dụng, còn phần lớn là hàng hoá ế thừa của Mỹ đưa vào dưới hình thức “viện trợ thương mại hoá”. Hàng hoá viện trợ trung bình chiếm 80% tiền viện trợ. Giá cả mọi thứ hàng hoá viện trợ do tư bản lũng đoạn Mỹ quy định cao hơn giá cả trên thị trường quốc tế. Nhưng dưới danh nghĩa lừa bịp “được chính phủ hai bên cộng tác để quy định ở mức phải chăng”. Như vậy, đối với đế quốc Mỹ, chúng đã thực hiện được lợi nhuận cao nhất. Hàng hoá đó đưa vào miền Nam, xxưa bán đấu thầu, mức độ lãi được quy định chính thức là bán buôn được hưởng tới 25% giá hàng nhập tới Sài Gòn. Bán lẻ hưởng lãi 20% giá bán buôn. Với việc đấu thầu hàng hoá hưởng lãi 25% giá cả đã tạo điều kiện cho bọn tư sản mại bản được độc quyền đấu thầu, hưởng lợi nhụân 25%. Một khi được quyền thầu thì lẽ tất nhiên, lợi nhuận không chỉ hưởng đúng 25% giá cả như quy định chính thức, nó còn tăng lên tuỳ theo sự đầu cơ của bọn độc quyền. Giá cả hàng ngoại hoá ở thị trường miền Nam đầu năm 1960 tăng vọt lên chính là do hoạt động đầu cơ của bọn độc quyền đó. Thêm vào đó, để đảm bảo độc quyền nhập cảng cho bọn tư sản mại bản thân Mỹ cùng cánh với bọn nguỵ quyền, chính quyền miền Nam đã định ra môn bài ngoại thương rất cao và những quy định mới về nhà kho, bến bãi chứa hàng. Mục đích của chúng là gạt những nhà tư sản trung thương và tư sản không có thế lực ra khỏi phạm vi nhập cảng. Chẳng những về nhập cảng, bọn tư sản mại bản cũng nắm được độc quyền nào đó về xuất cảng. chúng đã quy định thu mua nông phẩm với giá rẻ mạt để xuất cảng kiếm lời. Như vậy, cùng với việc độc quyền cả trong xuất và nhập khẩu, thêm vào đó chính quyền thực dân còn cho phép bọn tư sản mại bản được tự do định giá hàng hoá trên thị trường. Thế lực kinh tế của bọn tư sản mại bản thân Mỹ ngày càng đi lên như “diều gặp gió”. Ngoài bọn tư sản mại bản kinh doanh xuất nhập cảng, còn có những thầu khoán lớn rất phát tài trong việc xây dựng các căn cứ hải, lục, không quân cho đế quốc Mỹ như xây trường bay, đường chiến lược, khu trù mật... Bọn này kinh doanh cùng với một số công ty Mỹ và được chính quyền miền Nam giúp đỡ bóc lột nhân công giá rẻ bằng cách bắt phu đi xây dựng. Cùng với đó, ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã cử hàng loạt chuyên gia kỹ thuật đến thăm dò tài nguyên thiên nhiên và tình hình thị trường, đặt cơ sở cho bọn tư bản Mỹ đầu tư. Nói đến khuynh hướng phát triển của bọn tư sản mại bản, một điểm đáng chú ý là ngày nay, đế quốc Mỹ cũng như nhiều đế quốc khác kinh doanh ở miền Nam đã chủ trương phát triển lực lượng tư sản mại bản dưới hình thức những công ty kinh doanh hỗn hợp. Nhằm một mặt, bọn chúng ngày càng tăng cường đầu tư vào miền Nam và buộc chính quyền miền Nam mời chúng vào đầu tư, nhưng một mặt khác để lừa bịp rằng miền Nam có “độc lập”, để hoà hoãn bớt mâu thuẫn giữa tư sản miền Nam và tư sản ngoại quốc, đồng thời để tạo chỗ dựa cho chúng, cho nên chúng đã có chủ trương ấy. Tuy thức chất của những công ty hỗn hợp ấy phần lớn vốn là của tư bản ngoại quốc, quyền quản lý nằm gọn trong tay bọn tư bản ngoại quốc, nhưng về danh nghĩa được quy định lừa bịp trên giấy tờ rằng vốn của tư sản Việt Nam phải chiếm được 51% và người chủ tịch, quản lý, hơn nửa nhân viên ban quản trị thuộc về người Việt Nam. Dù bộ mặt thật của những công ty hỗn hợp có thế nào chăng nữa, với chủ trương lập các công ty hợp doanh của bọn đế quốc sẽ dẫn đến kết quả tất nhiên là lực lượng tư sản mại bản ngày càng tăng lên. Đã có một số công ty hỗn hợp Mỹ- Việt ra đời. Trong số 40 công ty Mỹ mới thành lập từ năm 1955 có nhiều công ty Mỹ- Việt. Và trong kế hoạch xây dựng hay dự án xây dựng mà chính quyền miền Nam đề ra còn có nhiều công ty khác nữa. Trong số những công ty hỗn hợp, ngoài bọn tư sản mại bản tư nhân bỏ vốn, bọn Diệm còn nấp dưới hình thức vốn của Nhà nước nhưng dùng tiền Mỹ viện trợ đầu tư vào công nghiệp. Tính đến đầu năm 1960, tổng số tiền chính quyền Diệm đầu tư vào sản xuất công nghiệp lên tới 1800 triệu đồng miền Nam, trong đó phần của viện trợ Mỹ chiếm trên một nửa. Nhưng những xí nghiệp của Nhà nước lại sẵn sàng bán lại cho tư bản ngoại quốc. Rút cục đó chỉ là hình thức trá hình của tư bản ngoại quốc đầu tư. Tóm lại, đứng riêng về mặt kinh doanh mà nói, giai cấp tư sản mại bản miền Nam nhờ dựa vào các đế quốc, nhất là Mỹ nên đã phát triển hơn trước. Phát tài nhất là bọn tư sản mại bản thân Mỹ. Cần nói ngay rằng, giai cấp tư sản mại bản không có thế lực kinh tế riêng mà dựa vào thế lực kinh tế của Mỹ. Nói cách khác, chúng làm giàu không phải bằng quá trình tích luỹ giá trị thặng dư mà là nhờ vào chính sách viện trợ thương mại hoá và chính sách kinh tế phục vụ chiến tranh xâm lược của Mỹ. Trên cơ sở được Mỹ trao cho toàn quyền cấp phát viện trợ, chúng đã dựa vào bộ máy nhà nước để lũng đoạn các ngành xuất nhập cảng bằng cách nắm nguồn hàng nhập, tiến hành các vụ đầu cơ quy mô, bán giấy phép nhập và xuất cảng, thâu tóm độc quyền thu mua các mặt hàng xuất khẩu, thâu tóm độc quyền chuyên chở trong nước... Hàng hoá viện trợ đưa vào càng nhiều, chiến tranh càng mở rộng thì tư sản mại bản miền Nam càng phát triển: một mặt chúng làm giàu trong chiến tranh, sống nhờ đô la Mỹ; mặt khác chúng xây dựng thế lực và tài sản bằng cách cướp giật, gây tội ác với nhân dân. Cho nên, về cơ bản, sự tồn tại và phát triển của giai cấp tư sản mại bản miền Nam gắn chặt với sự tồn tại của chế độ thực dân mới và tính chất lũng đoạn về kinh tế, chính chất phản động về chính trị của chúng ngày càng bộc lộ rõ nét. Bọn chúng xuất thân từ những nhà kinh doanh dưới thời Pháp thuộc, là địa chủ tư sản hoá hoặc từ tầng lớp sĩ quan, công chức cao cấp của chế độ thực dân. Số rất lớn bọn tư sản mại bản miền Nam là người Hoa. Quá trình hình thành và phát triển của giai cấp tư sản mại bản là một quá trình mâu thuẫn, chèn ép, “cá lớn nuốt cá bé”. Trong đó, bọn cầm quyền, bọn móc ngoặc với lũ đầu xỏ nguỵ quyền, nguỵ quyền, được Mỹ- Nguỵ dung dưỡng cho làm cai thầu phục vụ chiến tranh xâm lược của Mỹ thì càng có nhiều điều kiện để lũng đoạn mọi ngành kinh tế, làm giàu với tốc độ phi mã. Có thể nói, bằng các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội, kết hợp với nâng đỡ, dìu dắt,ban phát cho chúng những đặc quyền, đặc lợi, giành cho chúng những chế độ “ưu đãi” trong kinh doanh xuất nhập ,khẩu, trong việc làm cai thầu chiến tranh; chủ nghĩa thực dân của Mỹ đã tạo ra được một tầng lớp tư sản mại bản tay sai Mỹ có thế lực về chính trị, có nhiều quyền lực về kinh tế, nắm giữ hầu hết các cơ sở sản xuất, lưu thông, phân phối quan trong, kiểm soát hầu hết toàn bộ hệ thống vận chuyển hàng hoá trừ những trung tâm sản xuất đến những nơi hẻo lánh xa xôi nhất; và lũng đoạn giá cả... 2.2.2.3. Đặc điểm 3: Giai cấp tư sản mại bản liên hệ khăng khít với giai cấp địa chủ phong kiến; đặc biệt hai bộ phận tư sản mại bản thân Mỹ và đại địa chủ phong kiến phản động thân Mỹ chỉ là một. Trong điều kiện thuộc địa miền Nam còn tồn tại di tích phong kiến thì đế quốc Mỹ cũng như đế quốc Pháp trước kia đều duy trì một cách nhân tạo quan hệ bóc lột phong kiến đó. Bởi vì, duy trì chế độ chiếm hữu ruộng đát phong kiến là bần cùng hoá nông thôn, phục vụ cho chính sách bắt phu, thuê mướn công rẻ mạt, xây dựng căn cứ quân sự Mỹ, củng cố thế lực giai cấp địa chủ nắm chính quyền ở nông thôn, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Viẹt Nam, kìm hãm sự phát triển của nền công, thương nghiệp dân tộc. Chính sách cải cách điền địa của Mỹ- Diệm cho phép địa chủ cướp đoạt lại ruộng đất của nông dân đã được chia trong thời kỳ kháng chiến, cho binh lính đàn áp nông dân và thu tô cho địa chủ đã biểu hiện rõ rệt nhất rằng: đế quốc Mỹ quan tâm đặc biệt đến việc củng cố thế lực giai cấp địa chủ. Trên cơ sở đều là chỗ dựa của đế quốc Mỹ, hai giai cấp mại bản và địa chủ đều gắn bó với nhau. Và cũng như dưới thời Pháp thuộc, mối liên hệ mại bản- địa chủ còn thể hiện ở chỗ có một bộ phận mại bản và địa chủ đều kinh doanh theo lối mại bản, đều có ruộng đất phát canh thu tô. Nhưng trong tình hình miền Nam hiện nay, giữa giai cấp tư sản mại bản và địa chủ, đặc biệt là bộ phận tư sản mại bản thân Mỹ và đại địa chủ phản động thân Mỹ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Mối dây liên hệ ấy cũng do đặc điểm quan liêu hoá của giai cấp tư sản mại bản tạo ra. Hai bộ phận tư sản mại bản và đại địa chủ thân Mỹ nắm chính quyền cũng như quyền lợi, cùng chung vận mệnh, cùng chung mục đích chống lại cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Một nhân tố tăng cường sự cấu kết giữa tư sản mại bản, đại địa chủ miền Nam là chính sách ruộng đất của đế quốc Mỹ, tạo nên xu hướng mại bản hoá trong một số địa chủ. Trước kia, trong thời Pháp thuộc, đế quốc thực dân tạo nên chế độ ruộng đất tập ở Nam Bộ nhằm mục đích thu mua nông phẩm với giá rẻ. Riêng tầng lớp đại địa chủ chiếm hữu tới 34% diện tích cấy lúa, và mỗi năm Pháp xuất cảng ngót 2 triệu tấn gạo. Nhưng trong kháng chiến, Nhà nước dân chủ nhân dân đã tước đoạt rất nhiều ruộng đất của đại địa chủ và đem công điền thổ chia cho nông dân. giai cấp địa chủ, nhất là bọn đại địa chủ, đã bị cách mạng đánh cho suy yếu nhiều. Khi đế quốc Mỹ biến miền Nam thành thuộc địa, một mặt nó khôi phục lại thế lực giai cấp địa chủ bằng cách cho địa chủ cướp lại ruộng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCNXH (32).doc
Tài liệu liên quan