Chuyên đề Các giải pháp hoàn thiện công tác sử dụng và phát triển nhân lực của Công ty TNHH Trường Đạt

Mục lục

 

LỜI MỞ ĐẦU

Phần 1: Tổng quan về Công ty TNHH Trường Đạt

1. Thông tin chung

1.2. Trụ sở chính

1.3. Hình thức pháp lý – ngành nghề kinh doanh

2. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty

2.1. Lịch sử hình thành

2.2.Quá trình phát triển của công ty

3. Đặc điểm kinh tế- kỹ thuậtchủ yếu của Công ty TNHH Trường Đạt

3.1.Cơ cấu tổ chức của công ty

3.2. Đặc điểm về lao động

3.3.Đặc điểm cơ sở vật chất kĩ thuật và máy móc thiết bị

3.4. Đặc điểm về nguyên vật liệu

3.5. Đặc điểm về sản phẩm

3.6. Đặc điểm quy trình sản xuất

3.7.Đặc điểm về khách hàng, thị trường

4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty qua các năm

4.1. Kết quả doanh thu, lợi nhuận

Thu nhập bình quân của người lao động

 

Phần hai: Phân tích thực trạng trong việc sử dụng và phát triển nhân lực của Công ty TNHH Trường Đạt

1. Thực trạng công tác sử dụng nhân lực

1.1.Định mức lao động

1.2.Phân công và hợp tác lao động

1.2.1. Phân công lao động

1.2.2. Hiệp tác lao động

1.3.Tổ chức phục vụ nơi làm việc

1.4. Công tác trả công

1.5.Công tác đảm bảo điều kiện an toàn lao động

1.6. Kỉ luật lao động và phong trào thi đua tại Công ty

2. Thực trạng công tác phát triển nhân lực

2.1. Đào tạo

2.1.1. Chương trình và đối tượng đào tạo

2.1.2. Quá trình đào tạo

2.1.3. Chi phí đào tạo

2.2. Đào tạo lại

2.3.Bồi dưỡng cho người lao động

2.4.Để bạt và thăng tiến

2.5.Thuyên chuyển và thôi việc

3. Đánh giá tổng quát công tác sử dụng và phát triển nhân lực của Công ty TNHH Trường Đạt

3.1.Đạt được

3.2.Hạn chế - Nguyên nhân

Phần 3: Các giải pháp hoàn thiện công tác sử dụng và phát triển nhân lực

1. Định hướng phát triển của Công ty TNHH Trường Đạt

2. Các giải pháp hoàn thiện công tác sử dụng và phát triển nguồn nhân lực của Công ty TNHH Trường Đạt

2.1. Nâng cao chất lượng công tác đánh giá thực hiện công việc

2.1.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn

2.1.2. Nội dung của giải pháp

2.1.3. Điều kiện thực hiện

2.1.4. Hiệu quả mang lại

2.2. Đổi mới cách thức đào tạo

2.2.1Cơ sở lý luận, thực tiễn

2.2.1. Nội dung giải pháp

2.2.3. Điều kiện để thực hiện có hiểu quả là:

2.2.4.Hiệu quả mang lại

2.3. Đa dạng hóa các hình thức thưởng

2.3.1.Cơ sỏ lý luận, thực tiễn

2.3.2. Nội dung của giải pháp

2.3.3. Điều kiện thực hiện thành công giải pháp

2.3.4. Hiệu quả mang lại

2.4. Thực hiện các phong trào thi đua trong Công ty

2.4.1.Cơ sở lý luận, thực tiễn

2.4.2.Nội dung giải pháp

2.4.3. Điều kiện thực hiện

2.4.5.Hiệu quả mang lại

2.5. Hoàn thiện công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc

2.5.1.Cơ sở lý luận, thực tiễn

2.5.2.Nội dung giải pháp

2.5.3. Điều kiện thực hiện

2.5.4.Hiệu quả mang lại

3. Các kiến nghị

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc59 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 937 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Các giải pháp hoàn thiện công tác sử dụng và phát triển nhân lực của Công ty TNHH Trường Đạt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghề, có thể làm được tất cả công đoạn của quá trình làm răng. Do vậy sau một thời gian học việc, khi nào cảm thấy người học việc làm được việc thì xếp vào bộ phận đang thiếu. Người thợ mới này sau khi vào một bộ phận nào đó học thêm chừng hai đến 6 tháng thì phó giám đốc sẽ quyết định xem có tăng lương cho công nhân này không dựa vào kinh nghiệm của mình. Nghĩa là mọi thứ chỉ dựa vào cảm nhận của một người. Không chỉ đối với công nhân mới học việc, mà cả công nhân đã cứng tay nghê rồi cũng vậykhông có một yêu cầu gì dựa trên một cơ sở định lượng nào để xác định trình độ của người công nhân. Ví dụ như số lượng sản phẩm hoàn trong một đơn vị thời gian, độ chuẩn xác, tính thẩm mĩ. Tất các công nhân trong Công ty có việc thì làm, không có việc thì đứng chơi, nên mới có hiện tượng lúc đứng chơi lúc phải làm vội vàng cho kịp gửi hàng. Tât cả hoàn toàn do tự ý thức của mỗi người công nhân. Tính khắt khe trong công việc không có, nghĩa là Công ty không có yêu cầu một cách cụ thể về định mức lao động nào đối với công nhân sẽ khiến công nhân không phát huy tay nghề của mình của mình một cách nhanh chóng cũng như sự nỗ lực vươn lên của người công nhân. 1.2.Phân công và hợp tác lao động 1.2.1. Phân công lao động Có ba hình thức phân công lao động, hiện ở Công ty áp dụng phân công lao động theo nghề và theo độ phức tạp của công việc. Việc phân công lao động như vậy sẽ làm tăng tính chuyên môn hoá, điều đó tương đối phù hợp với những ngành nghề có tính chất đặc trưng riêng biệt như ngành làm răng giả. Trình độ tay nghề của công nhân càng chuyên sâu thì càng tốt cho công việc. Cách phân công này phù hợp với môi trường kinh doanh, mọi hoạt động của doanh nghiệp là ổn định. Việc phân công công việc chuyên sâu như vậy sẽ tỏ ra bất hợp lý khi: Thứ nhất có công nhân nghỉ việc, và không có ai trong công ty có thể thay thế vị trí đó. Nó sẽ khiến công việc tổ đó bị dồn lên dẫn đến bị chậm hàng. Trong khi có một số công nhân ở tổ khác lại rảnh việc hơn. Dù đã biết trước việc nghỉ việc của công nhân và Công ty đã chuẩn bị thuê người thay thế. Nhưng do lượng công nhân có tay nghề trong ngành còn hạn chế, lại tuyển người ở bộ phận đang thiếu lại càng khó, bởi quá trình làm một chiếc răng giả có nhiều khâu và ở các cơ sở trong ngành thì công nhân cũng chỉ chuyên ở một khâu nào đó, có rất ít người có thể làm được tất cả các khâu. Việc tìm người mới gặp khó khăn khiến Công ty phải tính đến phương án hai là đào tạo công nhân mới từ đầu. Việc đào tạo công nhân mới tốn khá nhiều công sức, thời gian và tiền của. Vì thời gian đào tạo công nhân mới phải mất đến 6 tháng công nhân mới có thể làm được một cách tương đối. Thậm chí có những khâu công nhân phải mất đến hơn một năm mới có thể làm được hết các công việc của khâu đó. Ví dụ như ở khảu cưa đai công nhân một năm rưỡi vẫn chưa làm thuần thục được việc mài cùi răng, vẽ đường hoàn tất. Hiện ở khâu cưa đai tổ trưởng là người đảm trách làm, dù công nhân một năm rưỡi trong nghề, sau khi làm xong vẫn phải để tổ trưởng kiểm tra sửa chữa lại. Ngoài ra trong thời gian học việc công ty nuôi ăn hoàn toàn. Đó là còn chưa kể sau một thời gian đào tạo mới như vậy, sau khi làm được việc thì lại bỏ việc, để lại một khoảng trống Công ty cần phải lấp đầy. Điều đó nói lên một điều rằng việc phân công lao động theo ngành nghề làm cho công nhân có tính chuyên môn hóa cao nhưng lại khiến cho công ty gặp nhiều khó khăn khi có bất kì sự thay đổi nào về cơ cấu nhân sự. Công ty không thể thuê được người ngay, cũng như không thể thực hiện việc luân chuyển, việc đào tạo mới mất quá nhiều thời gian và tiền bạc. Cách tốt nhất để tiết kiệm chi phí là thực hiện việc luân chuyển khi cần thiết, muốn vậy thì Công ty nên đào tạo thêm một chuyên môn nữa cho nguời công nhân ngay khi đào tạo mới. Thứ hai là sự nhàm chán trong công việc. Công việc của những người công nhân ở đây rất dễ gây ở đây rất dễ đên việc nhàm chán. Bởi lẽ công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác cao. Ngoài ra nó còn đòi hỏi tính thẩm mĩ. Một chiếc răng giả sẽ được đẹp hơn nếu người thợ hứng thú với công việc của mình. Dù đã sắp xếp theo hình thức hợp tác về mặt không gian nhưng ở khâu cưa đai gần như lúc nào cũng có công nhân ở tổ khác làm việcở đó chỉ vì ở đó có bồn rửa. Việc công nhân ở tổ khác lên đó làm việc khiến cho người công nhân phải di chuyển nhiều trong quá trình làm việc, mà đặc biệt là nó làm ảnh hưởng đến công nhân của tổ cưa đai, khiến họ mất tập trung khi làm việc. Khâu cưa đai là khâu đầu tiên trong quá trình làm răng cố định, nếu làm sai thì kéo theo các khâu khác cũng sai theo và chiếc răng sẽ bị loại bỏ, làm cái mới hoàn toàn, gây tổn thất về mặt kinh tế, uy tín của Công ty. 1.2.2. Hiệp tác lao động Trong hiệp tác lao động Công ty kết hợp cả hiệp tác về không gian và hiệp tác và hiệp tác về thời gian. Hiệp tác lao động về không gian thể hiện ở việc Công ty sắp xếp các tổ lao động chuyên môn vào một phòng. Sự kết hợp về mặt thời gian thong qua việc công ty sử dụng hình thức trực đối với công nhân cứng tay nghề, và hình thức làm ca đối với bộ phận kế toán. Do kết cấu trúc của bộ khu nhà Xưởng nên việc bố trí theo tổ chuyên môn là hợp lý. Việc sắp xếp làm theo ca, trực cũng phù hợp với Công ty. Bởi vì ngành nghề kinh doanh của Công ty có một đặc điểm là làm theo đơn đặt hàng, nghĩa là chỉ khi nào có đơn hang thì việc sản xuất mới thực hiện được, không thể sản xuất hang loạt, hoặc dữ trữ hang được. Hàng có lúc nhiều lúc ít. Hàng có nhiều vào các ngày nghỉ, ngày lễ. Các đơn hang tiếp thị mang về rải rác trong ngày chủ yếu tập trung vào khoảng từ 9 đến 11 giờ sang và từ 3 đến 5 giờ chiều. Các đơn hang này đều phải giao trong ngày trong vòng 1 đến 3 ngày, thậm chí giao ngay trong hôm đó, tuỳ thuộc vào yêu cầu của khách hàng. Chính vì vậy công nhân phải bố trí trực ca đến 9 giờ tối, trực ngày chủ nhật, luân phiên cho nhau. Tuy nhiên trong mỗi ca trực, mỗi tổ chỉ có một người. Điều này sẽ khiến cho người trực phải cáng đáng tất cả mọi việc trong tổ, và nhiều khi không thể hoàn thiện hết và phải để đến ngày hôm sau. Mức độ nhanh chậm ở khâu khác nhau, cũng như lượng hang ở bên tháo lắp và bên cố định khác nhau. Bộ phận cưa đai thong thường làm khá nhanh. Nếu cùng lúc liền mấy chiếc thì sẽ nhanh hơn nếu làm từng chiếc đơn lẻ. Thông thường nếu làm xong một cùi, một người làm sẽ mất khoảng 15 phút, nhưng nếu làm cùng lúc 3 chiếc thì chỉ mất 25 đến 30 phút. Do vậy mà thông thường bộ phận không có hang của ngày hôm trước còn để lại, công nhân cũng không phải làm việc bận rộn. nghĩa là một người trực ở bộ phận cưa đai là phù hợp. Nhưng bộ phận sáp lại làm lâu hơn, phức tạp hơn. Nếu chỉ làm sườn bằng cách nhúng sáp rồi tỉa thì nhanh mất khoảng 10 phút. Còn nếu phải làm cầu, phải làm sườn cho một chiếc răng mới thì lâu hơn rất nhiều chừng 15 đến 20 phút, đó là còn chưa kể đến thời gian phải đổ bột đúc, nung sáp-.bột đúc, bắn kim loại. Bộ phận sáp cũng có một đặc điểm là chỉ bắn kim loại cùng lúc 5, 7 chiếc, nếu có ít quá sẽ không bắn để tiết kiệm kim loại trừ khi đó là hang gấp. Mỗi buổi sang chỉ bắn kim loại hai đến 3 lần. Hàng của ngày hôm trước thường còn lại đến ngày hôm sau. Công nhân ở tổ này cũng phải làm việc bận rộn lien tục. Nghĩa là một người công nhân là không đủ. Tương tự tổ sáp là tổ lên răng, tổ kim loại, hang lúc nào cũng nhiêu, công nhân bao giờ cũng phải làm việc liên tục, trong khi công nhân tổ cưa đai, tổ biosoft, tổ ép nhựa lại thảnh thơi hơn. 1.3.Tổ chức phục vụ nơi làm việc Các máy móc, trang thiết bị hiện tại ở Công ty một phần được mua khi mở Xưởng, và một số khác được mua khi lập Công ty, tất cả đều là mua mới hoàn toàn. Trong khi nhiều Xưởng còn đang phải sử dụng đèn dầu, đèn cồn để đốt thì ở công ty lắp hệ thống đốt bằng ống dẫn ga. Ống dẫn ga có ưu điểm hơn hẳn so với đèn cồn về tính vệ sinh, tính tiện lợi cho người công nhân. Hệ thống ánh sáng, bàn ghế công nhân ngồi làm việc đều thuận tiện cho người lao động. Tuy nhiên bên cạnh những gì đang có thì vẫn còn một số vấn để tồn tại. Mặc dù máy móc là mua mới hoàn toàn nhưng sau bốn, năm năm nó đã xuất hiện những hư hỏng. Do vấn đề quản lý công nghệ của Công ty làm không tốt, không có kế hoạch bảo dưỡng sửa chữa đối với máy móc thiết bị, mà chỉ thực hiện việc bảo dưỡng sửa chữa theo lệnh nghĩa là khi nào máy móc hỏng nặng hoặc có nhiều thứ cần phải sửa Công ty mới tiến hành sửa chữa. Có thể trong mấy tháng liền công ty không sửa chữa gì, dồn lại sửa một lần. Ví dụ trong ba tháng 4, 5, 6 năm 2007 không có khoản chi phí sửa chữa gì, nhưng sang đến tháng 7 có sửa một lúc mấy thứ liền. B ảng 6: Chi phí sửa chữa Máy móc & Thiết bị7/ 2007 F. Phí sửa chữa ( nghìn đồng) Ngày Diễn giải Nhập 02/7 Sửa máy hơi 120,000 Dầu 35,000 16/7 Sửa máy ép Biosoft 30,000 18/7 Sửa khoá phòng kim loại 30,000 Tổng 305,000 Máy móc hỏng không sửa chữa kịp thời để trì hoãn sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, sức khoẻ của người lao động. Ví dụ như khi chiếc máy sì bụi sứ, bụi kim loại bị hỏng, các kẽ của nó bị hở sẽ dẫn đến việc bụi sứ, bụi kim loại bị thổi ra ngoài, người công nhân hít phải bụi này sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động. Do việc quản trị cung ứng nguyên vật liệu Công ty làm không tốt cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của Công ty. Hoạt động mua sắm diễn ra một cách nhỏ lẻ, khi nào hết thì mua, mỗi lần mua chỉ để cho 5 đến 7 ngày. Thêm vào đó ở Công ty không có ai quản lý hoạt động cung ứng nguyên vật liệu cho các tổ, khi nào ở các tổ hết nguyên vật liệu công nhân của tổ đó phải chạy xuống bộ phận kế toán văn phòng để lấy, nếu nguyên vật liệu sắp hết mới thong báo cho bộ phận kế toán văn phòng để mua. Chính vì vậy mà nhiều khi xảy ra tình trạng công nhân phải đứng chờ nguyên vật liệu. Đây có thể xem là điều không được xảy ra, nó làm gián đoạn hoạt động sản xuất, ảnh hưởng đến thời gian giao hang. Việc mua nguyên vật liệu rải rác với giá trị nhỏ phục vụ cho hoạt động sản xuất trong một thời gian ngắn là một việc gây lãng phí thời gian, công sức không cần thiết. Ngoài những vấn đề nổi cộm ở trên ở ra còn có một số vấn đề khác như hiện Công ty vẫn chưa trang bị quần áo bảo hộ lao động, gang tay cho công nhân, không có tủ để đồ cá nhân, nước uống, phục vụ nơi làm việc. 1.4. Công tác trả công - Tiền lương Công ty áp dụng mức lương cơ theo hình thức trả lương theo thời gian cho bộ phận sản xuất và kế toán, theo doanh thu cho bộ phận tiếp thị.Công ty trả lương căn cứ vào mức lương trên thị trường lao động của các đối thủ cạnh tranh, kinh nghiệm, thời gian. Ưu điểm của cách trả lương hiện tại: khuyến khích được bộ phận tiếp thị làm việc tốt hơn; khiến những người có kinh nghiệm gắn bó với Công ty hơn; đơn giản trong cách tính lương đối với bộ phận sản xuất và kế toán. Tuy nhiên nhược điểm của cách thức trả lương này: Không tạo được động lực cho bộ phận sản xuất; thiếu tính công bằng; Mức lương trung bình của người lao động trong Công ty là khá cao so với mức lương trung bình ở các công ty sản xuất khác như dệt may, da dày, nhưng ở mức trung bình so với các cơ sở sản xuất trong ngành. Mức lương này tăng đều qua các năm, nhưng mức tăng khác nhau. Mặc dù tăng nhưng số công nhân có mức lương dưới trung bình tăng nhiều hơn so với công nhân có mức lương trên trung bình. Điều đó cho thấy khoảng cách giữa những người có mức lương thấp và người có mức lương cao ngày một tăng. Và cũng có một thực tế là trong công ty có người lương 10 triệu/ tháng nhưng cũng có người lương chưa đến 1 triệu/ tháng. Dưới đây sẽ là bảng thống kê về mức lương trung bình của công nhân qua các năm: Bảng 7: Lương trung bình của người lao động qua các năm Năm Số lao động (người) Lương TB (triệu đồng) Trên TB (người) Dưới TB (người) 2004 15 1.5 5 10 2005 20 1.7 6 14 2006 28 2 8 20 2007 33 2.4 10 23 Biểu đổ 1: Mức tăng của lương trung bình qua các năm Qua biểu đồ trên chúng ta có thể thấy lương trung bình của công nhân tăng đều qua các năm và tăng mạnh nhất vào năm 2007. Đây là một điều đáng mừng cho Công ty, nhưng mức tăng đó là không đồng đều, nó tăng mạnh ở một số bộ phận, khoảng cách giữa người lương cao và lương thấp ngày một xa, điều này sẽ được thể hiện ở biểu đồ dưới đây: Biểu đồ 2: Mức tăng của số công nhân có mức lương trên và dưới trung bình Số công nhân có mức lương dưới trung bình tăng nhiều hơn so với mức tăng số công nhân có mức lương trên trung bình của từng năm. Với mức lương quá chênh lệch dễ khiến cho công nhân cảm thấy không công bằng mà bỏ đi sang các doanh nghiệp khác trả lương cao hơn, nhất là đối với trường hợp người công nhân có trên dưới hai năm kinh nghiệm, họ có thể làm được mọi việc như tổ trưởng nhưng mức lương của họ so với tổ trưởng cách xa nhau. Chế độ thưởng Công ty trả thưởng cho người lao động một lẩn vào dịp cuối năm, áp dụng hình thức trả lương khuyến khích đối với bộ phận tiếp thị là trả 10% doanh thu thực mà người tiếp thị mang về cho doanh nghiệp trong tháng đó. Với cách trả lương như vậy nên lương của bộ phận tiếp thị trong công ty rất cao khoảng từ 7 đến 10 triệu/ tháng, thậm chí còn hơn. Nhiều khi các công nhân còn cảm thấy ghen tỵ đối với các nhân viên tiếp thị. Đối với công nhân, thì thi thoảng Công ty sẽ tăng lương cho một số người. Việc tăng cho ai, khi nào, bao nhiêu hoàn toàn là do ý muốn chủ quan của giám đốc. Đây cũng là đặc thù đối với Công ty tư nhân nhỏ nói chung. Thông thường những đợt tăng lương là dành cho tổ trưởng cũng như là những người có thâm niên trong nghề. Trong khi có những công nhân làm việc rất tốt, họ làm việc tốt không kém gì những người kia, thậm chí còn làm việc nhiều hơn nhưng lại không được khuyến khích kịp thời, từ đó mà làm nảy sinh sự ghen tỵ. 1.5.Công tác đảm bảo điều kiện an toàn lao động Vấn đề an toàn cho ngưòi lao động đã được Công ty chú ý đến ngay từ khi Công ty đi vào hoạt động. Ở tất cả các khâu, công nhân đều được trang bị khẩu trang để công nhân không hít phải bụi sứ, kim loại, thạch cao, có tấm kính che mắt cho công nhân ở bộ phận kim loại, có máy sì bụi để hạn chế bụi không bắn ra ngoài môi trường làm việc. Tuy nhiên do hạn chế về nguồn lực nên Công ty vẫn chưa quan tâm một cách đúng mức đến hoạt động này. Quần áo lao động công nhân không có, do trong quá trình làm việc bụi bẩn thường bám vào quần áo nên nhiều người đã phải tự kiếm cho mình một cái áo để mặc trong khi làm việc. Môi trường làm việc cũng chưa được quan tâm đúng mức. Mỗi khi nung sáp với bột đúc làm cho không khí có một mùi rất khó chịu. Cái lò nung này đặt ở tầng 5, cạnh tổ cưa đai nên mỗi lần nung sáp là công nhân ở tổ này phải hít cái khí này. Tổ ép nhựa thì phải hít mùi của nước nhựa cứng. Cả mùi của sáp nung hay nước nhựa cứng đều là mùi của hoá chất, nếu hít phải đều gây hại cho sức khoẻ vậy mà hang ngày công nhân đều phải chấp nhận, đến mức họ còn nói rằng: “Ngửi nhiều thành quen rồi nên cũng thấy bình thường”. Kỉ luật lao động và phong trào thi đua tại Công ty Công ty thực hiện chính sách để cho công nhân khá tự do, thoải mái trong quá trình làm việc. Không có ai quan sát, kiểm tra, nhắc nhở trong quá trình làm việc. Việc để tự do, thoái mái là cách quản lý vẫn được khuyến khích, nhưng nếu buông lỏng quá sẽ mang tác dụng ngược lại. Nếu mở sổ theo dõi nhân viên ra để theo dõi sẽ thấy tình trạng công, nhân viên đi làm muộn là phổ biến, và không ngày nào là không có. Thậm chí có người trong tháng đi làm muộn đến 20 ngày. Công ty đã có quy định là nếu đi muộn dưới 3 lần sẽ bị nhắc nhở, trên 3 lần sẽ bị trừ lương. Nhưng quy định đó không được áp dụng. Chuyện người lao động đi muộn năm, mười phút là chuyện bình thường. Việc thiếu nghiêm túc trong quản lý giờ giấc làm việc của công nhân là lý do để xảy ra hiện tượng đó. Công ty cũng không áp dụng hình thức phạt đối với những người làm sai, làm hỏng, làm việc kém hiệu quả. Hàng tháng số lượng hàng làm lại như đã trình bày ở phần 1 không phải là nhỏ. Dưới đây là bảng mô tả sai sót trung bình qua các năm và biểu đồ mô tả sự biến động của nó: Bảng 8: Tỉ lệ hang làm lại qua các năm Năm Tỉ lệ hang làm lại trung bình(%) 2004 13.5 2005 12 2006 12.3 2007 11.7 Biểu đồ 3: Sự biến động của tỉ lệ hàng làm lại Tỉ lệ hang làm lại ở mức cao, cao nhất vào năm đầu tiên khi Công ty bắt đầu tiến hành hoạt động kinh doanh. Những năm tiếp sau tuy tỉ lệ này có giảm xuống nhưng vẫn ở mức cao và dao động trên dưới 12%. Nghĩa là việc làm sai làm hỏng nhiều ở Công ty trong mấy năm nay và chưa có cách nào để làm giảm đi. Khi người công nhân làm sai, hang bị trả lại, khách hang kêu ca về những sai sót đó, mà ban giám đốc không có hình thức xử phạt đối với một cá nhân nào mà cũng chỉ đơn thuần là nhắc nhở. Nếu công nhân không thấy hết được hậu quả sẽ mang lại cho bản thân nếu họ không cố gắng, không có trách nhiệm trong công việc thì cũng không nghiêm túc, hết mình cho công việc. Không chỉ có vậy, mặc dù Công ty đã có quy định là công nhân không được hút thuốc tại nơi làm việc nhưng hiện tượng công nhân hút thuốc tại công ty trong giờ làm việc cũng là việc xảy ra thường ngày. Do trong Công ty đa số công nhân là nam nên số lượng người hút thuốc cũng khá nhiều. Do công ty không quản lý chặt chẽ vấn để này nên những công nhân này vẫn hut thuốc tại nơi làm việc. Tính nghiêm túc của công nhân trong khi làm việc cũng không tốt khi mà trong giờ làm việc Công ty có nhiều thời gian công nhân đứng chơi, tụ tập, ra khỏi nơi làm việc, để việc cho người khác làm. Phần do kỉ luật không tốt, phần vì cách bố trí nhân sự, thời gian thiếu sự hợp lý. Bình thường ở tổ cưa đai vào buổi sang công nhân chỉ thực sự làm việc từ khoảng 9 giờ kém đến 10giờ30 phút. Còn thời gian sau đó là chơi. Tình trạng Công nhân đứng chơi cũng xảy ra ở một số tổ khác. Trong khi đó công nhân ở tổ kim loại, tổ sáp, tổ lên răng lại khá bận rộn. Tất cả các vấn đề về sự thiếu kỉ luật trong lao động đều do sự quản lý chặt chẽ những quy định của Công ty. Sử phạt không nghiêm minh, không tổ chức tuyên truyền cho công nhân hiểu và áp dụng những nội quy của công ty là một thiếu xót của Công ty. 2. Thực trạng công tác phát triển nhân lực 2.1. Đào tạo 2.1.1. Chương trình và đối tượng đào tạo Công việc đào tạo mới này là việc làm thường xuyên của doanh nghiệp, nhưng lại nó không phải theo một kế hoạch định sẵn mà khi nào có người đến xin học nghề, hoặc Công ty đang thiếu người. Công ty có ưu tiên hơn đối với công nhân là nam giới. 2.1.2. Quá trình đào tạo Quá trình đào tạo mới như đã nói ở trên trải qua 6 tháng. Thông thường người lao động khi mới vào Công ty sẽ học khắc thạch cao trong vòng 3 tháng. Sau đó người công nhân sẽ được chuyển đến bộ phận đang thiếu nhân sự để học chuyên môn của tổ đó trong vòng 3 tháng tiếp theo. Và sẽ được chính thức tình lương sau 6 tháng nếu người công nhân đó có thể làm được tương đối một số công việc. Quá trình học việc còn tiếp tục sau khi người công nhân đó chính thức được vào làm việc tại Công ty. Nghĩa là trong quá trình làm việc ban đầu công nhân còn phải tiếp tục học nghề để hoàn thiện tay nghề của mình. Giai đoạn học khắc thạch cao, người học việc nếu ngồi ở một tổ nào đó thì được công nhân tổ đócũng như các công nhân khác khi rỗi chỉ dạy cho. Và khi nào được phân công về học chuyên môn ở một tổ nào đó thì được thành viên của tổ đó chỉ bảo. Việc học việc của công nhân hoàn toàn do các công nhân cũ hướng dẫn, chứ không có một phòng, bộ phận nào của Công ty đứng ra làm việc này. Cách làm như vậy cũng có cái hay là chi phí thấp. Nhưng bị một nhược điểm là nó làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của công ty, do những người công nhân cũ vừa phải làm việc vừa phải hướng dẫn cho người công nhân đó. Nếu việc đào tạo này diễn ra thành một hai đợt trong năm thì không sao. Nhưng nó lại diễn ra rải rác, mỗi lần 1, 2 hoặc nhiều lắm là 3người. Dưới đây là bảng thống kê số công nhân đào tạo mới của công ty qua các năm. Bảng 9: Số lượng người, và số đợt đào tạo mới qua các năm Năm Số lượng người Số đợt 2004 7 4 2005 11 7 2006 14 10 2008 10 8 Hang năm Công ty do không có kế hoạch tuyển dụng cụ thể, cứ khi nào có người chuyển đi mới tuyển mới, nếu không tuyển được mới tiến hành đào tạo mới. Chính vì vậy cũng không có kế hoạch đào tạo. 2.1.3. Chi phí đào tạo Chi phí đào tạo nói là thấp vì không phải trả công cho một đội ngũ chuyên tiến hành đào tạo. Nhưng thực sự lại là cao vì ngoài việc nó làm ảnh hưởng đến hoạt đống sản xuất của Công ty, mà còn sau một thời gian học được việc thì người công nhân đó bỏ Công ty đi làm chỗ khác. Công ty mất công sức đào tạo, các khoản chi phí như nuôi ăn trong suốt thời gian học việc và các chi phí phát sinh khác phục vụ cho quá trình đào tạo, Công ty phải bỏ ra hết. Nếu chỉ tính chi phí nuôi ăn và chi phí cho nguyên vật liệu cho quá trình học việc khoảng trên dưới 5 triệu/ người / 6tháng. Trong những người đào tạo mới sẽ có một số người bỏ việc trong vòng vài tháng sau khi học xong việc trong khi đó Công ty có quy định là người công nhân đó phải làm việc cho Công ty ít nhất là 1 năm sau khi học nghề. Bảng tổng hợp thống kê sẽ nói lên điều đó. Bảng 10: Bảng thống kê số công nhân bỏ việc và ở lại trong vòng một năm qua các năm Năm Tuyển ban đầu ( người) Bỏ việc sau 3 – 6 tháng (người) Bỏ việc sau7 – 11 tháng(người) Số đạt yêu cầu (người) 2005 11 1 3 7 2006 14 2 3 9 2007 10 2 2 6 Biểu đồ 4: Sự thay đổi tỉ lệ công nhân đạt yêu cầu qua các năm Nhìn biểu đổ ta thấy tỉ lệ công nhân đạt yêu cầu, tức công nhân ở lại làm việc từ 1 năm trở lên đều có tỉ lể thấp chỉ hơn 60%, cao nhất vào năm 2006, thấp nhất vào năm 2007. Tức là hang năm Công ty mất đi gần 40% chi phí cho đào tạo là vô ích, đó là con số không hề nhỏ. Để đánh giá kết quả của đợt đào tạo này, không có một chỉ tiêu đánh giá nào cả mà nó chỉ được đánh giá thong qua sự nhận xét của anh phó giám đốc. 2.2. Đào tạo lại Hoạt động đào tạo lại ở Công ty là việc không được chú ý đến. Trong quá trình làm việc công nhân tự học hỏi lẫn nhau chứ Công ty không bao giờ tổ chức đào tạo lại cho công nhân viên ở trong Công ty. Công việc đào tạo lại cho công nhân tiến hành dựa trên cơ sở đánh giá tay nghề hiện tại của công nhân mà thực hiện, nhưng việc đó công ty lại không làm thường xuyên. Phó giám đốc chỉ đánh giá tay nghề công nhân trong giai đoạn đầu học việc. Và thực hiện việc tăng lương cho một công nhân ở những tổ có thành tích tổ có thành tích tốt, mà quên mất một việc là xem tổ nào làm có nhiều sai xót mà tiến hành đào tạo lại cho công nhân. 2.3.Bồi dưỡng cho người lao động Bồi dưỡng cho người lao động là việc cần thiết để nâng cao tay nghề cho công nhân. Do chi phí để thuê người về bồi dưỡng tốn kém nên Công ty phải dung hình thức là thuê những người có tay nghề cao vể Công ty làm việc trong thời gian ngắn, với mức lương rất cao. Với mục đích là vừa làm việc vừa để cho công nhân ở tổ đó học tập. Nhưng trong thực tế người thợ đó về làm cho công ty nhiều hơn là chỉ bảo bồi dưỡng cho các công nhân. Trong quá trình làm việc có vấn để gì đó thì công nhân trong tổ có thể hỏi người thợ đó. Nhưng do mục đích nâng cao tay nghề cho công nhân không được chú trọng nên sau vai tháng người thợ đó kết thúc hợp đồng thì trình độ người công nhân cũng không cải thiện là bao nhiêu, thay vào đó Công ty lại phải vội vàng đi tìm một ngưòi mới về làm. Công ty cũng không phải là không có người giỏi. Bản than giám đốc, phó giám đốc là những thợ lành nghề, có thâm niên trên 10 năm kinh nghiệm và một số công nhân khác có thể làm chuẩn, làm tốt tất cả các khâu của quá trình làm răng, nhưng Công ty lại không tổ chức những buổi đào tạo, đào tạo lại hoặc tổ chức những đợt thi đua tay nghề giỏi, thi thợ giỏi để nhằm củng cố, nâng cao tay nghề cho công nhân. 2.4.Để bạt và thăng tiến Cơ cấu tổ chức của Công ty dường như cũng không thay đổi gì kể từ ngày Công ty thành lập cho đến nay. Những người tổ trưởng ở các tổ hầu như giữ nguyên. Những người tổ trưởng này là người có tuổi nghề lâu nhất so với người khác trong tổ. Và chỉ khi người này chuyển đi không làm cho Công ty nữa thì nếu Công ty tìm được người khác tốt hơn với người khác còn lại trong tổ thì người công nhân có tuồi nghề cao nhất còn lại sẽ làm tổ trưởng. Nghĩa là ai đã làm trưởng của một bộ phận là sẽ làm mãi cho đến khi không còn làm ở công ty nữa thì thôi. Lương của các tổ trưởng bao giờ cũng có khoảng cách đối với những người khác trong tổ, có khi khoảng cách đó là rất xa, chính vì vậy mà ai chẳng mong được làm nhóm trưởng. Không chỉ có việc được làm nhóm trưởng, mà cơ hội để được tăng lương nhiều trong một lần cũng rất mong manh đã khiến cho nhiều người bỏ việc. Công ty có hai hình thức tăng lương là tăng lương hang loạt cho tất cả mọi người và tăng cho cá nhân. Tăng hang loạt thường chỉ khoảng hai trăm nghìn đồng còn tăng cá nhân dao động từ 6 trăm nghìn đồng đến 2 triệu. Việc tăng lương cho cá nhân là do ban giám đốc quyết định, nhưng mỗi năm cũng chỉ được vài trường hợp. Và những trường hợp ấy lại tập trung vào nhóm trưởng, hoặc những người có thâm niên làm việc ở công ty, còn những người trẻ có tay nghề tốt lại không được chú ý đến cũng như bản ang họ cũng không có cơ hội để thẻ hiện cho ban giám đốc biết được điều đó. Bởi vì các sản phẩm làm ra là do công sức của cả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7475.doc
Tài liệu liên quan