Chuyên đề Đánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng bằng phương pháp phân tích nhân tố và phương pháp thành phần chính theo các chỉ tiêu tài chính của mô hình CAMELS

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU 1

DANH MỤC BẢNG BIỂU 2

PHẦN MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM 4

1.1 Tổng quan tình hình tài chính ngân hàng tại Việt Nam 4

1.1.1 Hoạt động tài chính ngân hàng Việt Nam năm vừa qua 4

1.1.2 Định hướng nhiệm vụ ngân hàng trong các năm tới 9

1.2 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với hoạt động giám sát các Tổ chức tín dụng. 10

1.2.1 Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 10

1.2.2 Các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN 18

1.2.3 Một số định hướng hoạt động của BHTGVN trong thời gian tới. 20

CHƯƠNG II. HOẠT ĐỘNG THANH TRA VÀ GIÁM SÁT NGÂN HÀNG 21

2.1 Ủy ban Basel và hệ thống các nguyên tắc thanh tra giám sát hoạt động Ngân hàng 21

2.1.1 Giới thiệu về Ủy ban Basel 21

2.1.2 Nhóm ấn phẩm nguyên tắc cơ bản của Ủy ban Basel 21

2.2 Thực trạng hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng tại Việt Nam 26

2.3 Hệ thống CAMELS trong giám sát hoạt động của các Ngân hàng. 34

2.3.1 Đánh giá hoạt động 35

2.3.2 Xếp hạng cấu phần. 36

2.3.3 Xếp loại các yếu tố định lượng 46

2.3.4 Xếp loại các yếu tố định tính. 47

2.3.5 Xếp loại tổng hợp 47

2.4 Các phương thức hoạt động của thanh tra ngân hàng tại Việt Nam 49

2.4.1 Phương thức giám sát từ xa 50

2.4.2 Phương thức thanh tra tại chỗ. 52

2.4.3 Phương pháp đánh giá và xếp loại các TCTD theo CAMELS vận dụng ở Việt Nam 54

CHƯƠNG III. SỬ DỤNG MÔ HÌNH ĐA NHÂN TỐ VÀ PHƯƠNG PHÁP THÀNH PHẦN CHÍNH ĐỂ PHÂN LOẠI VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC TÍN DỤNG 58

3.1 Mô hình đa nhân tố 58

3.1.1 M« h×nh 58

3.1.2 Một số ứng dụng của mô hình nhân tố 60

3.2 Sử dụng các mô hình để phân loại và đánh giá hoạt động của tổ chức tín dụng 61

3.2.1 Số liệu sử dụng 61

3.2.2 Sử dụng SPSS để phân tích số liệu 64

3.2.3 Mở rộng 78

KẾT LUẬN 83

DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO 84

 

 

doc93 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3100 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng bằng phương pháp phân tích nhân tố và phương pháp thành phần chính theo các chỉ tiêu tài chính của mô hình CAMELS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
òn nhiều lỗ hổng về thể chế, rủi ro có nhiều khả năng phát sinh do lợi nhuận thấp và thực hiệnếu vốn và với sự cạnh tranh mạnh mẽ của Ngân hàng nước ngoài khi mở rộng hơn hoạt động cho các Ngân hàng nước ngoài thì việc quản trị tài chính của các Ngân hàng thương mại quốc doanh cần phải được cải thiện đồng thời về phương diện Chính phủ mà người thay mặt là Ngân hàng nhà nước cần phải nâng cao khả năng giám sát tài chính toàn hệ thống tài chính. Để giám sát hiệu quả hệ thống tài chính, về phía Ngân hàng nhà nước, cần tăng cường công tác giám sát từ xa cũng như công tác thanh tra tại chỗ, xây dựng các chỉ tiêu giám sát theo CAMELS, thiết lập hệ thống xếp loại các tổ chức tín dụng theo CAMELS, xây dựng hệ thống cảnh báo và hệ thống thông tin quản lý để kịp thời trấn chỉnh hoạt động các tổ chức tín dụng cũng như hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, cần tài chính công tác phòng ngừa rủi ro,đặc biệt là rủi ro ngoại hối cho toàn hệ thống. Các hạn mức như trạng thái ngoại hối tỷ trọng huy động và cho vay ngoại tệ dài hạn so với nguồn vốn huy động ngắn hạn, tỷ lệ đầu tư vào các cổ phần cổ phiếu ở nước ngoài của các tổ chức tín dụng cần được điều chỉnh kịp thời để đặc biệt tính thanh khoản và an toàn của toàn hệ thống. Chế độ thông tin báo cáo cần được cải thiện trên phương diện mẫu biểu cũng như hệ thống mạng hiện đại để đặc biệt Ngân hàng nhà nước có được các thông tin về hệ thống tài chính mmột cách kịp thời,chính xác.Có như vậy Ngân hàng nhà nước mới có đủ dữ liệu để phân tích và cảnh báo cho toàn hệ thống cũng như can thiệp khi cần thiết. Về phía Chính phủ, khả năng các nước cho thấy cần thiết phải có luật giám sát thanh tra để hoạt động giám sát thanh tra được thực hiện theo luật và để giám sát tốt hệ thống tài chính thì thanh tra cần có vai trò độc lập với hệ thống tài chính, đặc biệt độc lập với Ngân hàng nhà nước để thanh tra có đủ quyền lực giám sát hoạt động Ngân hàng. Khi tự do hóa tài khoản vốn thì doanh nghiệp cũng nhu hệ thống Ngân hàng đã được trao quyền tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình đồng thời cũng tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện đúng Pháp luật bao gồm trách nhiệm báo cáo đầy đủ theo quy định. Để việc thực thi báo cáo của doanh nghiệp và hệ thống Ngân hàng có hiệu quả, cần ban hành luật thông tin báo cáo như kinh nghiệm của Hàn Quốc và Trung Quốc tránh tình trạng mặc dù đã có quy định nhưng Ngân hàng nhà nước vẫn không có thông tin báo cáo từ Ngân hàng và doanh nghiệp một cách đầy đủ như hiện nay. Ngoài ra, Chính phủ nên cổ phần hóa một số các Ngân hàng thương mại quốc doanh để các Ngân hàng này sở hữu độc lập để khuyến khích các Ngân hàng này quản trị doanh nghiệp tốt trên cơ sở lợi nhuận và dự phòng rủi ro và hạn chế bảo lãnh một cách gián tiếp cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh, cần xác định mục tiêu hoạt động rõ ràng cho đội ngũ quản lý của Ngân hàng thương mại quốc doanh, đảm bảo khả năng giám sát từ xa là độc lập với việc quản lý các Ngân hàng thương mại, tách chức năng thanh tra khỏi chức năng quản lý của Ngân hàng nhà nước. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, từng bước tự do hóa cán cân vốn, mức độ can thiệp của Chính phủ vào các giao dịch này sẽ ngày càng giảm và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, để duy trì sự ổn định chung của nền kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần phải kiểm soát được toàn bộ các giao dịch của hệ thống tài chính bao gồm cả giao dịch vốn theo nghĩa nắm được mọi diễn biến, can thiệp một cách gián tiếp thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô để hạn chế hay khuyến khích các luồng vốn vào và ra. Để làm được điều này, công tác thống kê phải được đặc biệt chú trọng. Hệ thống báo cáo phải đảm bảo cung cấp những số liệu thống kê một cách chính xác, kịp thời để các cơ quan quản lý tiền tệ có thể đánh giá đúng được xu hướng vận động của các luồng vốn, phát hiện sớm những rủi ro và có biện pháp ứng phó thích hợp. Tuy nhiên, điểm hạn chế lớn nhất của hệ thống thống kê của Việt Nam hiện nay là sự phối hợp lỏng lẻo giữa các cơ quan có trách nhiệm cung cấp số liệu bởi chưa có một chế tài đủ mạnh nhằm bắt buộc thực hiện chế độ thông tin báo cáo.Mặt khác, do khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thống kê còn hạn chế nên số liệu thống kê chưa đảm bảo tính cập nhật. Do vậy, giám sát tốt hệ thống tài chính theo kinh nghiệm của Trung Quốc và một số nước trong khu vực thì cần luật hóa chế độ báo cáo thống kê để nâng cao tính hiệu lực thi hành báo cáo của Ngân hàng và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ thống báo cáo theo quy định 477 cần được trtiển khai sớm để thống nhất mẫu biểu báo cáo qua kênh mạng thay vì chế độ báo cáo theo giấy tờ trước đây. Đầu mối thông tin cần tập trung tại tổng cục thống kê để tránh chồng chéo trong thu thập số liệu gây khó khăn cho Ngân hàng và doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần tăng cường công tác phối hợp chia sẻ thông tin giữa các bộ nghành, cụ thể là giữa tổng cục thống kê với Ngân hàng, bộ tài chính bộ kế hoạch và đầu tư. Về phía các tổ chức tín dụng, cần nâng cao hiểu biết về các rủi ro đi kèm với các khoản tiền gửi,tín dụng, xây dựng các quy định kiểm soát rủi ro trên cơ sở tài sản nợ - có,xây dựng các hạn mức đầu tư, trạng thái ngoại hối riêng của mình, cải thiện công tác kiểm soát nội bộ và tuân thủ các giới hạn an toàn theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Từ các khuyến nghị trên có thể đưa ra lộ trình cải tổ công tác giám sát hệ thống tài chính trong thời gian sắp tới như sau : Trong ngắn hạn cần xây dựng đề án cải cách thanh tra giám sát phù hợp với chuẩn mực quốc tế về tổ chức,nghiệp vụ cơ chế điều hành giám sát mà cụ thể là ban hành quy chế mới đánh giá, xếp hạng các tổ chức tín dụng theo tiêu chuẩn CAMELS, bổ sung điều chỉnh quy chế kiểm toán độc lập cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế.Hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động Ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, sửa đổi quy định về vốn tự có, phân loại tài sản có, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Trong trung hạn cần xây dựng khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để phát hiện các tổ chức tín dụng đang gặp khó khăn thông qua giám sát từ xa và xếp hạng tổ chức tín dụng, xây dựng sổ tay thanh tra tại chỗ các tổ chức tín dụng Việt Nam để các thanh tra viên sử dụng như cẩm nang thanh tra giám sát. Ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả tại tổ chức tín dụng, bao gồm hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ, hệ thống quản lý tài sản nợ có và hệ thống quản lý rủi ro tín dụng rủi ro thanh khoản rủi ro thị trường đồng thời đảm bảo việc tuân thủ các quy định này.Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tham gia các hiệp ước, thỏa thuận quốc tế về thanh tra giám sát Ngân hàng và an toàn hệ thống tài chính. Tăng cường trao đổi thông tin với các cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng nước ngoài để phối hợp hoạt động trong kiểm soát rủi ro và tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật công nghệ thanh tra giám sát tiên tiến. Phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra giám sát đủ về số lượng và có trình độ nghiệp vụ cao, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, được trang bị kiến thức Pháp luật, quản lý và các công cụ thực thi nghiệp vụ. xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo ở trong và ngoài nước các cán bộ thanh tra Ngân hàng về nghiệp vụ tài chính – Ngân hàng hiện đại, quản trị rủi ro và các phương pháp thanh tra giám sát tiên tiến. 2.3 Hệ thống CAMELS trong giám sát hoạt động của các Ngân hàng. Hệ thống CAMELS là hệ thống đánh giá hoạt động Ngân hàng toàn diện, được dùng phổ biến trên thế giới. Để góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra giám sát Ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế Các thanh tra viên sử dụng báo cáo giám sát CAMELS để tiến hành xếp hạng cho từng Ngân hàng dựa trên sự đánh giá của 6 cấu phần chính về năng lực và hoạt động của 1 Ngân hàng. Sự xếp hạng sẽ cân đối với quy mô và sự phức tạp của Ngân hàng, dặc trưng trong hoạt động và việc quản lý rủi ro của Ngân hàng. Việc xếp hạng sẽ được sử dụng để đánh giá thực trạng của hệ thống Ngân hàng đua ra những hoạt động cần thiết cho thanh tra tại chỗ. Nội dung của toàn bộ hoạt động thanh tra tại chỗ sẽ dẫn đến những điều chỉnh cho việc xếp hạng tổng thể CAMELS. Các cấu phần được đánh giá trên các khía cạnh sau : - Vốn (C) - Chất lượng tài sản có (A) - Chất lượng quản lý và hoạt động (M) - Thu nhập (E) - Thanh khoản (L) - Độ nhạy với lãi suất (S) Việc tổng hợp xếp hạng được đánh giá dựa trên thang điểm từ 1 đến 5 theo mức độ cần giám sát tăng dần. Mức xếp hạng tổng hợp là kết quả của việc xếp hạng 6 cấu phần. Xếp hạng 1 là mức xếp hạng cao nhất với ý nghĩa là tổ chức tín dụng có hệ thống tốt nhất, đảm bảo chất lượng quản lý rủi ro, gắn liền với một mức độ giám sát ít nhất. Xếp hạng 5 là mức xếp hạng xấu nhất, tức là tổ chức tín dụng này có hoạt động yếu kém, không đảm bảo khả năng quản lý rủi ro và đòi hỏi hoạt động giám sát cao nhất cho tổ chức tín dụng này. 2.3.1 Đánh giá hoạt động Ý nghĩa của việc xếp hạng cho từng mức như sau : Xếp hạng 1 : Cho thấy tổ chức hoạt động tốt với mức cao hơn mức trung bình chung Xếp hạng 2 : Cho thấy tổ chức hoạt động ở mức chấp nhận được với mức độ đánh giá trung bình hoặc trên trung bình không nhiều. Điều này cũng có nghĩa hoạt động của tổ chức tín dụng vừa đủ đảm bảo ở mức an toàn. Xếp hạng 3 : Cho thấy tổ chức hoạt động ở mức thấp hơn mức độ được chấp nhận, được đánh giá như mức độ hoạt động dưới mức trung bình. Xếp hạng 4 : Là mức độ cho rằng hoạt động của tổ chức là không đảm bảo, thấp hơn mức độ trung bình rất nhiều. Nếu không được tiến hành kiểm tra thì tổ chức tín dụng này có thể dẫn đến nguy cơ mất năng lực hoạt động. Xếp hạng 5 : Mức độ này cho thấy hoạt động của tổ chức tín dụng là rất kém và đòi hỏi cần phải được chú ý giám sát ngay. Hoạt động này thường đi kèm với những yếu kém và nguy cơ mất năng lực hoạt động của tổ chức tín dụng. Việc xếp hạng cho từng cấu phần được tiến hành độc lập nhưng cũng cần xem xét mối quan hệ với các cấu phần khác. Mức xếp hạng quá cao hoặc quá thấp cho một cấu phần có thể dẫn đến điều chỉnh tăng hoặc giảm xếp hạng cho các cấu phần khác. Ví dụ, một Ngân hàng cho chỉ số xếp hạng cho cấu phần vốn được dự tính ở mức 1 nhưng nếu cấu phần chất lượng tài sản có lại được xếp hạng ở mức 4 thì mức xếp hạng của cấu phần vốn nên được điều chỉnh giảm xuống ít nhất là ở mức 2 hoặc thấp hơn nữa để cho thấy sự thiếu mức vốn đảm bảo có mối quan hệ với chất lượng tài sản xấu. Tương tự đối với việc xếp hạng cho cấu phần thu nhập và thanh khoản vì những cấu phần này cũng chịu những tác động tiêu cực khi chất lượng tài sản kém. Trong một tình huống khác, việc xếp hạng cao cho cấu phần quản lý có thể dẫn đến không điều chỉnh thấp đi cho các xếp hạng của các cấu phần khác bởi vì chất lượng của quản lý có thể giúp tổ chức tín dụng vượt qua được những khó khăn tạm thời. 2.3.2 Xếp hạng cấu phần. C – Mức đảm bảo vốn Một ngân hàng cần duy trì một mức vốn đảm bảo chống đỡ với các loại rủi ro đặc trưng của ngân hàng và khả năng quản lý để xác định, đo lường,kiểm soát và điều chỉnh những rủi ro này. Những tác động của rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và các rủi ro khác đối với hoạt động của ngân hàng có thể xem như thước đo đánh giá mức độ đủ vốn của ngân hàng. Các loại hình và mức độ rủi ro tác động đến hoạt động của một ngân hàng sẽ quyết định đến mức vốn cần duy trì them trên mức vốn tối thiểu theo quy định để từ đó có thể đề phòng những hậu quả xấu mà những rủi ro này có thể có đối với mức vốn của ngân hàng. Mức đảm bảo vốn nên được xếp hạng dựa trên những yếu tố đánh giá sau : - Mức vốn, chất lượng vốn và khả năng tài chính tổng thể của ngân hàng. - Khả năng quản lý để có thể xác định những nhu cầu cho nguồn vốn bổ sung. - Bản chất xu hướng và số lượng các tài sản có vấn đề, và mức độ đảm bảo dự phòng rủi ro cho các khoản mất nợ và các quỹ dự phòng khác. - Bảng tổng hợp cân đối tài sản bao gồm nội dung và số lượng các tài sản vô hình, rủi ro thị trường, rủi ro tập trung và những rủi ro có lien quan đến các hoạt động không mang tính truyền thống của ngân hàng. - Các rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt động ngoại bảng của ngân hàng. - Mức thu nhập và sự hợp lý của cổ tức. - Triển vọng và kế hoạch phát triển, cũng như việc đảm bảo kế hoạch tăng trưởng trong quá khứ. - Khả năng tiếp cận với thị trường vốn và các nguồn vốn khác bao gồm cả sự hỗ trợ vốn của các cổ đông hiện tại và cổ đông triẻn vọng trong tương lai. Xếp hạng : Những ngân hàng có chỉ số vốn được xếp hạng ở mức 1 hoặc 2 sẽ có đủ mức vốn mặc dù các chỉ số vốn của ngân hàng xếp hạng 1 thông thường lớn hơn chỉ số của ngân hàng xếp hạng 2. Ngân hàng xếp hạng 3 là những ngân hàng mà mức vốn đảm bảo cho các tài sản có rủi ro , các tài sản có chất lượng ở mức tương quan thấp, tốc độ tăng trưởng của ngân hàng, kế hoạch và triển vọng phát triển ; và tăng cường năng lực quản lý cũng đòi hỏi vốn đảm bảo cho dù cấu phần quản lý được xem như là một nhân tố tác động tốt. Trong phần lớn các trường hợp, những ngân hàng như vậy sẽ có các chỉ số vốn nằm dưới mức trung bình của nhóm đồng hạng. Ngân hàng xếp hạng 4 hoặc 5 rõ ràng là những ngân hàng không đảm bảo được mức vốn cần thiết, với mức xếp hạng 5 tức là ngân hàng đang đứng trước nguy cơ bị mất năng lực hoạt động và mất khả năng thanh toán. Mức xếp hạng 5 cũng là mức đòi hỏi ngân hàng phải có ngay một sự hỗ trợ từ các cổ đông hoặc từ các nguốn hỗ trợ tài chính bên ngoài khác. A – Chất lượng tài sản có Chất lượng tài sản có được đánh giá dựa trên mức độ, sự phân bổ và tình trạng của các nhóm tài sản không tính cộng dồn và tài sản được giảm lãi suất; mức độ đảm bảo dph nợ,năng lực quản lý và điều hành việc xử lý và thu hồi những khoản nợ có vấn đề. Mức đảm bảo dự phòng nợ và khả năng có thể xử lý và thu hồi các khoản nợ có vấn đề chính là yếu tố tác động tốt, ở một chừng mực nào đó, đến khả năng khắc phục những khó khăn có thể xảy ravới các nhóm nợ. Việc đánh giá chất lượng tài sản có nên xem xét đến các mức độ tập trung tín dụng hoặc đầu tư, bản chất và số lượng của các nhóm nợ đặc biệt, và tính hợp lý của các chính sách cho vay và các quy trình thủ tục tín dụng. Chất lượng tài sản có được đánh giá dựa trên những tiêu thức sau : - Khả năng đảm bảo các tiêu chuẩn bảo lãnh nợ, khả năng điều hành và quản lý tín dụng, và các năng lực quản lý rủi ro cần thiết khác. - Số lượng, sự phân bổ tình trạng và xu hướng của các tài sản có vận động đã phân loại, không tính cộng dồn, cơ cấu lại,quá hạn và không hoạt động trên cả nội bảng lẫn ngoại bảng. - Mức độ đảm bảo dự phòng cho mất nợ và các dự phòng tài sản khác. - Những rủi ro tín dụng có thể tăng hoặc giảm thông qua các hoạt động ngoại bảng như các cam kết nợ không được thực hiện, các cam kết tín dụng, các thư tín dụng thương mại hoặc bảo lãnh. - Khả năng đa dạng hóa vá chất lượng của các khoản nợ và các danh mục đầu tư. - Mức độ tập trung hóa tài sản. - Tính hợp lý của các chính sách cho vay, đầu tư cũng như các thủ tục có liên quan. - Khả năng quản lý trong việc xử lý các tài sản bao gồm cả việc phát hiện kịp thời và thu hồi được những khoản nợ có vấn đề. - Năng lực kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin quản lý - Số lượng và bản chất của những hồ sơ tín dụng đặc biệt. Xếp hạng : Xếp chất lượng tài sản có ở mức 1 và 2 không đòi hỏi nhu cầu cần thanh tra giám sát. Cả hai mức độ xếp hạng này đều cho thấy một danh mục nợ và đầu tư của ngân hàng ở mức tốt, mặc dù xếp hạng ở mức 1 được hiểu là mức độ và thực trạng của các nhóm nợ là tốt hơn mức 2. Xếp hạng ở mức 3 đòi hỏi một mức giám sát nhất định, đặc biệt trong hoàn cảnh có những xu hướng tiêu cực có thể dẫn đến những vấn đề trầm trọng hơn trong tương lai. Xếp hạng ở mức 4 hoặc 5 là mức độ của những tài sản đang có những vấn đề nghiêm trọng,đặc biệt với mức 5 là một dấu hiệu đe dọa đến khả năng mất năng lực hoạt động của các ngân hàng do những tác động dây truyền của các tài sản có vấn đề nghiêm trọng này đối với việc duy trì và đảm bảo mức vốn của ngân hàng M – Quản lý Cấu phần quản lý cần được đánh giá dựa trên tất cả các yếu tố ddc cho là cần thiết đối với hoạt động của ngân hàng trong một môi trường an toàn và các hoạt động ngân hàng được chấp nhận. Do vậy, cấu phần quản lý được đánh giá dựa trên trình độ học vấn, năng lực điều hành và lãnh đạo, các chính sách và quy trình quản lý rủi ro, khả năng tuân thủ Pháp luật và các quy định, khả năng lên kế hoạch và đối phó với những biến động của môi trường,và những kết quả từ sự thành công trong quản lý. Việc đánh giá cấu phần quản lý cũng cần xem xét đến những chất lượng của những hoạt động kinh doanh và tất cả các chính sách cho vay, đầu tư và kinh doanh, cũng như sự tham gia của ban giám đốc và các cổ đông. Căn cứ vào đặc trưng và phạm vi hoạt động của ngân hàng, hoạt động quản lý có thể xem xét đến một số hoặc tất cả những rủi ro sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường ,rủi ro hoạt động , hoặc các giao dịch, danh tiếng, chiến lược, khả năng tuân thủ , tính pháp lý, và thanh khoản của ngân hàng. Hoạt động quản lý tốt được theo dõi chặt chẽ bởi ban giám đốc và hội đồng quản trị, các cá nhân cạnh tranh, tính hợp lý của các chính sách, tác nghiệp và kiểm soát sẽ cần xem xét them với quy mô và vai trò của ngân hàng,khả năng duy trì một chương trình kiểm toán cũng như môi trường kiểm soát nội bộ hợp lý, và hệ thống quản lý thông tin và quản lý rủi ro hiệu quả. Năng lực và các hoạt động của ban quản lý và hội đồng quản trị sẽ được đánh giá dựa trên những yếu tố sau : - Mức độ và chất lượng của hoạt động kiểm tra và hỗ trợ đối với tất cả các hoạt động của ngân hàng của ban quản lý và hội đồng quản trị ngân hàng. - Năng lực của ban quản lý và hội đồng quản trị, trong từng chức năng nhiệm vụ của mình, để lên kế hoạch và đối phó với những rủi ro có thể có do những thay đổi trong điều kiện kinh doanh hoặc những cải cách để đưa ra những sản phẩm dịch vụ và hoạt động mới. - Khả năng đưa ra và thích ứng với những chính sách nội bộ và kiểm soát hoạt động kinh doanh cũng như rủi ro của những hoạt động chư yếu. - Tính chính xác kịp thời và hiệu quả của hệ thống thông tin quản lý và hệ thống kiểm soát rủi ro tương ứng với quy mô sự phức tạp và rủi ro của ngân hàng. - Tính hợp lý của kiểm toán và kiểm soát nội bộ nhằm tạo động lực cho các hoạt động của ngân hàng được hiệu quả và đảm bảo tính tin cậy cho các báo cáo tài chính và báo cáo thanh tra, các tài sản đảm bảo, đồng thời cũng đảm bảo sự tuân thủ với các quyết định, chỉ thị và hướng dẫn của thanh tra và các chính sách nội bộ. - Mức độ thực hiện và tuân thủ với các quyết định và chỉ thị và khả năng đáp ứng với các khuyến nghị của kiểm toán viên và các thanh tra viên có thẩm quyền. - Kết quả và sự thành công của các nhà lãnh đạo cao cấp. - Mức độ mà ban quản lý và hội đồng quản trị phải chịu sự chi phối, tác động và kiểm soát của chủ sở hữu chính. - Tính hợp lý của các chính sách khen thưởng , tránh tình trạng tập trung quyền lực và mâu thuẫn lợi ích. - Xem xét khả năng thích ứng với các yêu cầu có tính pháp lý của ngân hàng trong hệ thống, và hoạt động tổng thể của ngân hàng cũng như các rủi ro của nó. Xếp hạng : Xếp hạng ở mức 1 tức là hoạt động quản lý của ngân hàng đảm bảo ở mức hiệu quả toàn diện với tất cả các yếu tố và khả năng ứng phó và xử lý với tất cả những vấn đề hiện tại và những vấn đề dự tính có thẻ xảy ra với hoạt động của ngân hàng. Mức xếp hạng 2 cho thấy một vài điểm yếu những nhìn chung là thỏa mãn những yêu cầu của hoạt động quản lý.Mức 3 cho thấy hoạt động quản lý chưa đủ thỏa mãn để đối phó với những tình huống trong hoạt động ngân hàng. Hoặc là hoạt động quản lý này được đánh giá ở mức vừa phải, có thẻ trên trung bình một chút, hoặc dưới mức trung bình theo quy mô hoặc loại hình ngân hàng.Do vậy, năng lực quản lý với những tình huống không thuận lợi có thể còn thiếu. Mức xếp hạng 4 cho biết khả năng quản lý nhìn chung là dưới mức được chấp nhận và mức được yêu cầu. Mức 5 được sử dụng trong trường hợp ngân hàng không còn khả năng cạnh tranh. Trong những trường hợp này, những vấn đề có nguyên nhân từ việc quản lý yếu kém kéo theo những hậu quả xấu với hoạt động của ngân hàng cần phải có sự cải cách nâng cao năng lực quản lý thậm chí thay đổi ban quản lý nhằm khôi phục lại môi trường hoạt động hiệu quả cho ngân hàng. E – Thu nhập Cấu phần thu nhập được đánh giá dựa trên khả năng xử lý với các khoản nợ mất và khả năng đảm bảo mức vốn cần thiết, xu hướng tăng trưởng của thu nhập, so sánh trong nhóm đồng hạng, chất lượng và các cấu phần của thu nhập ròng, mức độ thu nhập của nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất. Việc đánh giá cũng cần xem xét mối quan hệ với tỷ lệ chi trả cổ tức, với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận để lại và mức độ đảm bảo vốn của ngân hàng. Mức đảm bảo dự phòng mất nợ và đề phòng với những bất thường, với các giao dịch chứng khoán và với các tác động của thuế cũng cần được xem xét khi đánh giá cấu phần này. Việc xếp hạng thu nhập được căn cứ trên những tiêu thức sau : - Mức thu nhập, bao gồm cả xu hướng tăng trưởng và mức độ ổn định - Khả năng đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng vốn từ nguồn lợi nhuận để lại. - Chất lượng và các nguồn của thu nhập, cũng như mức chi phí gắn liền với các hoạt động kinh doanh. - Khả năng đảm bảo ngân quỹ và những tac nghiệp dự tính và hệ thống thông tin quản lý - Khả năng đảm bảo dự phòng mất nợ và các dự phòng tài sản khác. - Những rủi ro tiềm ẩn đối với biến động lãi suất, tỷ giá. Xếp hạng : Thu nhập được xếp hạng 1 được xem như có dự phòng đầy đủ cho các khoản mất nợ và đảm bảo sự tăng trưởng đều đặn của vốn với một chất lượng tài sản và tốc độ tăng trưởng ngân hàng đã cho. Nhìn chung, ngân hàng được xếp hạng này thường ở trên mức trung bình của nhóm đồng hạng. Một ngân hàng có mức thu nhập xoay quanh một mức tuyệt đối hoặc thậm chí có xu h đi xuống có thể được xếp hạng 2 tức là mức thu nhập của ngân hàng này được xem là thỏa mãn các đánh giá thu nhập đã neu trên. Thông thường ngân hàng này có chỉ số thu nhập trùng hoặc trên một chút so với nhóm đồng hạng. Mức xếp hạng 3 gắn liền với mức thu nhập được cho là không đủ để đảm bảo trích dự phòng mất nợ và đảm bảo tăng trưởng vốn đều theo kịp với tố độ tăng trưởng ngân hàng. Thu nhập của những ngân hàng này có thể chỉ thể hiện dưới các mức thu nhập có tính tuyệt đối hoặc những xu hướng thu nhập không thống nhất, mức thu nhập không đảm bảo, tỷ lệ chi trả cổ tức cao hoặc chất lượng tài sản có thấp dưới mức cho phép. Chỉ số thu nhập của những ngân hàng này thường nằm dưới mức trung bình của nhóm đồng hạng. Mức xếp hạng 4 thường vẫn đảm bảo lợi nhuận dương, cho thấy những dao động bất thường trong thu nhập ròng, có khuynh hướng của chiều hướng giảm, những khoản mất nợ không liên tục hoặc những suy giảm lớn trong nhưng năm trước đó. Thu nhập của những ngân hàng này được đánh giá nằm xa bên dưới sso với nhóm đồng hạng. Các ngân hàng được xếp hạng 5 là những ngân hàng dang chịu những khoản mất nợ hoặc có những mức thu nhập nằm dưới mức thu nhập đã đưa ra cho mức 4. Những khoản nợ mất này có thể gây ra những nguy cơ cho khả năng hoạt động của ngân hàng đồng thời với sự mất vốn. L – Mức độ thanh khoản Mức độ thanh khoản được đánh giá theo khả năng thanh toán nhanh chóng các khoản tiền gửi; tần suất và mức độ sử dụng nguồn vốn đi vay của ngân hàng; năng lực chuyên môn liên quan đến cơ cấu tài sản nợ; mức độ sẵn có của tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt và mức độ tiếp cận với thị trường tiền tệ hoặc những nguồn vốn khác. Mức độ thanh khoản của một ngân hàng phải được đánh giá theo từng giai đoạn và từng thời điểm cụ thể. Cũng cần phải xem xét đến hiệu quả nói chung của chiến lược quản lý tài sản có – tài sản nợ của ngân hàng cũng như mức độ tuân thủ và mức độ đầy đủ của các chính sách về thanh khoản của họ. Về bản chất, số lượng và sử dụng trước các cam kết về tín dụng và bảo lãnh cũng là các yếu tố cần đuợc đưa vào xem xét. Mức độ thanh khoản được đánh giá dựa trên các nhân tố sau : - Mức độ đầy đủ của nguồn vốn thanh khoản hiện tại và tương lai có thể đáp ứng nhu cầu về thanh khoản mà không ảnh hưởng đến tình hình hoạt động và tài chính của ngân hàng. - Các tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt mà không gây ra những tổn thất lớn. - Khả năng tiếp cận với thị trường tiền tệ và những nguồn vốn khác - Mức độ đa dạng hóa các nguồn vốn, bao gồm các nguồn trong và ngoài bảng cân đối tài sản - Mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn ngắn hạn, các nguồn vốn dễ biến động, bao gồm các nguồn vốn vay, các khoản tiền gửi lớn nhạy cảm với lãi suất, để sử dụng cho các tài sản có kỳ hạn dài hơn. - Xu hướng và tình ổn định của các khoản tiền gửi. - Khả năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát tình hình thanh khoản của đơn vị mình, bao gồm cả mức độ hiệu quả của các chiến lược quản lý vốn,các chính sách về thanh khoản hệ thống thông tin quản lý và kế hoạch dự phòng vốn. Xếp hạng Những ngân hàng có mức độ thanh khoản thuộc loại 1 là những ngân hàng có khối lượng trên mức cần thiết các tài sản có được thanh toán và mức độ sẵn sàng , khả năng dễ dàng đáp ứng các kỳ hạn linh hoạt hơn với các nguồn vốn bên ngoài theo chiến lược c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng bằng phương pháp phân tích nhân tố và phương pháp thành phần chính theo các chỉ tiêu tài chính của mô hình CAM.DOC
Tài liệu liên quan