Chuyên đề Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975 (nhìn trên những nét lớn)

Xuất phát từ quan niệm thơ là hình ảnh và tiếng nói của tâm linh, vô thức, xu hướng này muốn khước từ, loại bỏ sự ám ảnh và áp lực của lý trí, của tư duy lôgic trong thơ. Các nhà thơ thuộc xu hướng này đề xuất "lối viết tự động", kiểu "thơ vụt hiện" và một số trường hợp đi theo hướng siêu thực, tượng trưng. Những nhà thơ thuộc lớp trước như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần đã đến với xu hướng này ngay từ cuối những năm 50 và những năm 60 ở thế kỷ trước (riêng Trần Dần đã là thành viên của nhóm Dạ Đài theo khuynh hướng tượng trưng, từ trước 1945). Hoàng Hưng lại đưa ra lối "thơ vụt hiện" như là bản tốc ký của những chớp lóe từ tiềm thức, vô thức. Bài thơ là tập hợp của những câu, những mệnh đề rời, không có mối liên kết nào với nhau, tập hợp một cách ngẫu nhiên. Một ví dụ: "Biển hà hát - tóc mướt. Vòng cong. Ríu ríu cánh bàng bàng. Châm chấm nở. Phanh phanh bay. Núm núm".

 

doc69 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 17418 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975 (nhìn trên những nét lớn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người, với bao nhiêu nỗi éo le, bi kịch, xót xa, nỗi buồn dai dẳng (Mùa trái cóc ở miền Nam và Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân). Bên cạnh cảm hứng phê phán nổi trội ở một số tác phẩm, thì phổ biến hơn và cũng mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc hơn là cảm hứng bi kịch với niềm xót xa đến nhức nhối về con người và thân phận của họ. Những biến cố lịch sử, chiến tranh và những đảo lộn về mặt xã hội đã được nhìn từ phía tác động nhiều mặt của nó đến con người và những quan hệ giữa họ. Một số tác phẩm viết về nông thôn còn cho thấy sự chi phối dai dẳng của những tập tục, những tâm lý cố hữu ở làng xã đến các mối quan hệ từ gia đình đến dòng họ. Những cuộc tranh giành quyền lực giữa các họ tộc, mối thù hận truyền từ đời này sang đời khác, tất cả đã đè nặng lên cuộc sống, số phận của bao nhiêu con người, ngăn cản và chà đạp những mối tình trong sáng của bao lứa đôi (Bước qua lời nguyền, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chuyện làng ngày ấy). Với Nguyễn Minh Châu, thì nhận thức lại là phải làm những cuộc đối chứng trong tư tưởng, để vượt lên những nhận thức sai lầm, máy móc hoặc giản đơn về con người và xã hội. Sự nhận thức lại cũng dẫn đến tinh thần tự phê phán nghiêm khắc và các nhân vật tự thú dưới ánh sáng của lương tâm (Bức tranh, Hạng, Sắm vai). Khám phá đời sống muôn vẻ trong cái hàng ngày, trong các quan hệ thế sự và đời tư là một hướng hết sức phổ biến của văn xuôi hiện nay. Ma Văn Kháng với tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn và hàng loạt tập truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu với các truyện ngắn trong hai tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê. Các cây bút nữ: Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thị Trường, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh... đều là những cây bút khá tiêu biểu cho khuynh hướng này. Cũng cần chú ý đến khuynh hướng triết luận đã có sự phát triển khá mạnh mẽ trong văn xuôi thời kỳ đổi mới. Chiêm nghiệm, triết lý đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu, và không chỉ ở những nhà văn có nhiều từng trải như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, mà còn là một đặc điểm của nhiều cây bút thuộc các thế hệ sau như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hòa Vang và nhiều người khác. Từ đầu những năm 90, xuất hiện dòng hồi ký - tự truyện, mà tô Hoài và Nguyễn Khải đã có những tác phẩm thu hút được nhiều sự quan tâm của công chúng rộng rãi (Cát bụi chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài, Một giọt nắng nhạt, Nghề văn cũng lắm công phu, Cái thời lãng mạn, Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải). Gần đây, người ta lại chú ý nhiều đến loại văn xuôi kỳ ảo, cả tiểu thuyết và truyện ngắn, với những thể nghiệm táo bạo để cách tân thể loại (nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương). Còn tiểu thuyết lịch sử cũng được xem là một thể loại có sự phục sinh trong những năm gần đây, với những hướng khai thác mới về đề tài lịch sử. Trên đây chỉ là những phác họa sơ sài về một số khuynh hướng nổi lên trong khu vực văn xuôi rất phong phú, đa dạng của thời kỳ từ sau 1975. 3. Đổi mới về nghệ thuật trần thuật Nghệ thuật trần thuật giữ vai trò quan trọng trong tác phẩm tự sự. Nhưng trong các thể tự sự xuất hiện trước nền văn học hiện đại, nghệ thuật tự sự ít có những biến đổi lớn và nhìn chung, chưa đạt đến sự phong phú, đa dạng. Trong nền văn học theo khuynh hướng sử thi ở giai đoạn 1945 - 1975, nghệ thuật trần thuật cũng chịu sự chi phối rõ rệt của quan điểm sử thi. Văn xuôi trong thời kỳ đổi mới đã đem lại nhiều tìm tòi, biến đổi trong nghệ thuật trần thuật. Từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch các điểm nhìn vào nhiều nhân vật, để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình và để cho các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Sự thay đổi vai kể, cách đưa chuyện lồng trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một trật tự thời gian duy nhất, tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra được hiệu quả nghệ thuật mới. Trong sự đa dạng về phương thức trần thuật, nhiều nhà văn lại ưa thích cách kể chuyện từ ngôi thứ nhất với vai kể là một nhà văn, nhà báo, một người chứng kiến, quan sát kể lại câu chuyện về người khác hoặc kể về chính mình (trong số trên 50 truyện ngắn viết từ 1985 lại đây của Nguyễn Khải, có tới hơn 40 truyện được kể từ ngôi thứ nhất và phần lớn trong số đó vai kể là nhà văn, nhà báo, mang hình bóng của tác giả). Nguyễn Huy Thiệp lại cách tân nghệ thuật trần thuật bằng sự sáng tạo kiểu "người kể chuyện không đáng tin cậy", rất khác với "người kể chuyện biết hết" khá phổ biến trong văn xuôi trước đây. Trong văn xuôi sử thi, người trần thuật thường là đại diện cho quan điểm cộng đồng, vì thế nó có thể và cần phải phán truyền chân lý để người đọc tin theo và hưởng ứng. Kiểu nhân vật kể chuyện biết hết sẽ rất phù hợp với văn xuôi sử thi, giống như người trần thuật vô hình mà biết hết mọi điều trong các pho sử thi thời cổ đại. Người trần thuật trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thường công khai nói về sự không biết hết mọi điều do mình kể lại, thậm chí có khi còn đánh lạc hướng độc giả hoặc kể ra những điều nửa tin nửa ngờ. Loại nhân vật kể chuyện này thể hiện quan điểm phi sử thi, không muốn và không tin rằng người kể có thể áp đặt một quan điểm duy nhất lên mọi sự việc, với niềm tin rằng mình đã nắm được chân lý. Trong một số tác phẩm có yếu tố kỳ ảo, người kể chuyện có khi lại là linh hồn của người đã quá cố, hoặc là một kiểu người có khả năng khác thường, có thể thông linh với các lực lượng siêu nhiên. Sự phá vỡ, làm thay đổi kết cấu trần thuật truyền thống chỉ là hình thức thể hiện của một quan niệm mới về thế giới hiện thực và thế giới nghệ thuật. Đó không còn là một thế giới đã được an bài, trật tự, hợp lý và dường như có thể biết hết; mà là một thế giới hỗn độn, bị chia cắt, xáo trộn, đầy mâu thuẫn và không thể nào biết hết. 4. Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người dẫn đến sự biến đổi về hệ thống nhân vật ở chương III, khi nói về một đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam sau 1975 - sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên nền tảng tinh thân nhân bản, chúng tôi đã nói đến quan niệm nghệ thuật mới về con người của văn học sau 1975. Đó cũng chính là những điểm cơ bản trong quan niệm con người của văn xuôi sau 1975. Cơ sở của quan niệm đó là ở cái nhìn về con người. Trong thời kỳ chiến tranh và cách mạng, thì việc văn học nhìn con người chủ yếu ở tư cách con người công dân, con người dân tộc, giai cấp là phù hợp và cần thiết. Nhưng cũng vì thế mà các bình diện khác, những tư cách khác của con người thường bị văn học bỏ qua, hoặc nếu có quan tâm thì cũng phải được nhìn theo hệ quy chiếu của các giá trị cộng đồng, thống nhất với phần căn bản (con người dân tộc, con người giai cấp). Nhưng như Bakhtin đã nói bản chất người ở mỗi con người nếu rót vào cái khuôn hình xã hội thì không thể nào lại không thừa ra. Văn xuôi hôm nay đã tiếp cận con người ở nhiều tư cách, vị thế và trên nhiều bình diện. Nó đặc biệt quan tâm đến con người như một cá thể, một thực thể sống, trong đó chứa đựng cả cái phần nhân loại phổ quát. Từ nhận thức và quan niệm mới về con người, tất sẽ dẫn tới những đổi thay trong thế giới nhân vật của văn xuôi. Trong văn xuôi trước 1975, các nhân vật được nhận diện trước hết theo lập trường dân tộc và cách mạng, bởi thế dễ dàng xếp họ vào loại chính diện hay phản diện, tích cực hay tiêu cực. Các nhân vật lại được khuôn vào trong những khung hình của tầng lớp xã hội - giai cấp. Hệ thống nhân vật vì thế thường được phân chia theo tầng lớp, nghề nghiệp, vị trí xã hội hoặc lứa tuổi, chẳng hạn như nông dân, công nhân, trí thức, người lính, bà mẹ, người phụ nữ... Trong văn xuôi thời kỳ đổi mới, khi đã vượt qua giới hạn chật hẹp và cứng nhắc của cái nhìn con người và thể hiện nhân vật như trên, thì đã mở ra sự phong phú, đa dạng dường như vô tận cho thế giới nhân vật. Rất khó có thể đưa ra một bảng phân loại hay liệt kê nào có khả năng bao quát được thế giới nhân vật của văn xuôi hiện nay. Nhưng cũng có thể dễ dàng nhận ra khá nhiều kiểu loại nhân vật mới, vốn chưa có hoặc rất ít trong văn xuôi trước 1975: Nhân vật cô đơn, con người bi kịch, con người lạc thời, nhân vật tư tưởng, nhân vật kỳ ảo... Đó chỉ là một số trong những kiểu loại nhân vật, được phân chia theo những tiêu chí khác nhau, của văn xuôi đương đại. Nếu như trước đây, khắc họa tính cách điển hình theo quan niệm điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là mục tiêu hướng tới của các nhà văn trong xây dựng nhân vật, thì ngày nay nhân vật không còn bị lệ thuộc quá nhiều vào chức năng thể hiện tính cách, nhà văn ngày nay có quyền lựa chọn và sáng tạo tự do đối với nhân vật của mình. 5. Đổi mới về ngôn ngữ Mỗi thời đại văn học, mỗi trào lưu nghệ thuật đều cần có một hệ thống ngôn ngữ phù hợp với ý thức nghệ thuật của mình, tạo ra một "trường ngôn ngữ" mang tính đặc trưng. Sự đổi mới về ngôn ngữ vừa là yếu tố khởi đầu, vừa là kết quả của mọi sự đổi mới về tư tưởng, quan niệm, thi pháp. Khi tư duy tiểu thuyết đã mạnh lên, thay thế tư duy sử thi thì ngôn ngữ văn xuôi cũng biến đổi theo hướng đó. Khi văn xuôi tiếp cận đời sống ở cự ly gần chứ không phải qua một "khoảng cách sử thi tuyệt đối" (M.Bakhtin), với thái độ thân mật suồng sã chứ không phải tôn kính, thì hệ lời cũng phải thay đổi, từ thứ ngôn ngữ trang trọng, chuẩn mực chuyển sang thứ ngôn ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ, thông tục. Đặc biệt, những cây bút thuộc thế hệ đến với văn học từ thời kỳ đổi mới, ít bị chi phối bởi thói quen ngôn ngữ của giai đoạn trước, do đó họ tạo được sự cách tân rõ rệt về ngôn ngữ văn chương. Xuất phát từ tinh thần dân chủ và ý thức cá tính, họ có một cách ứng xử ngôn ngữ tự do, nhiều khi phá cách nhằm đem lại một hiệu ứng trực tiếp, mạnh mẽ trong sự tiếp nhận của người đọc. Lời văn trong truyện Nguyễn Huy Thiệp thường được rút gọn, giản lược đến tối đa nhất là ở lời trần thuật. Lối thuật, kể ngắn gọn, khách quan thay thế cho lối miêu tả tỉ mỉ, phân tích cặn kẽ. Trong khi đó, nhiều truyện của Nguyễn Huy Thiệp lại có sự xuất hiện những đoạn thơ đan xen vào mạch văn xuôi. Những từ thông tục, thậm chí là thô tục có không ít trong tác phẩm của nhà văn này nhưng thường thì nó lại chứa đựng một chiêm nghiệm, triết lý nhiều khi sâu sắc. Phạm Thị Hoài lại có cách sử dụng ngôn ngữ dày đặc biểu tượng và với một cú pháp rất tự do, một cách nói cố ý khiêu khích với những gì cũ mòn, công thức, tẻ nhạt. Bên cạnh lối viết như tốc ký, ghi nhanh, lại có lối viết theo dòng ý thức, với những độc thoại nội tâm, hồi tưởng, ký ức triền miên. Có những cây bút trẻ không muốn viết câu văn theo những trật tự cú pháp thông thường, mang tính sách vở, rất ít dùng các dấu câu, thậm chí có cả trang được viết liền mạch không cần chấm, phẩy. Một trong những biểu hiện của tinh thần dân chủ hóa trong văn học đổi mới là sự xuất hiện trở lại tiếng cười với nhiều sắc độ khác nhau. Ngôn ngữ văn xuôi được gia tăng chất hài cũng là một cách để tạo sự bình đẳng giữa người đọc với tác giả, tạo thêm sức hấp dẫn thẩm mỹ cho văn chương. 6. đổi mới trong cấu trúc các thể loại văn xuôi Các thể loại trong văn xuôi cũng đều có những biến đổi trong cấu trúc, mà rõ nhất là tiểu thuyết. Văn học giai đoạn 1945-1975 đã đưa loại hình tiểu thuyết sử thi đến sự phát triển khá cao, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Nhưng khi chất sử thi đậm nét thì chất tiểu thuyết lại có phần mờ nhạt, bởi tư duy sử thi lấn át tư duy tiểu thuyết. Từ những năm 80, cùng với xu hướng khai thác thể tài thế sự - đời tư, tính tiểu thuyết cũng được gia tăng trong văn xuôi. Nhìn vào bức tranh thể loại của tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, có thể nhận ra nhiều kiểu loại, khó mà xếp vào các bảng phân loại quen thuộc trước đây. Nhìn chung loại tiểu thuyết toàn cảnh đã hầu như vắng bóng, tiểu thuyết phiêu lưu cũng ít ỏi. Tiểu thuyết tâm lý và tiểu thuyết triết luận chiếm số đông. Kiểu tiểu thuyết "cổ điển" của thế kỷ XIX ở phương Tây (câu chuyện về lịch sử và số phận một con người, một gia đình, gia tộc) được vận dụng trở lại với nhiều biến tấu. Nhưng cũng đã xuất hiện các tiểu thuyết xây dựng theo mô hình tiểu thuyết hiện đại thế kỷ XX mà Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh là những trường hợp tiêu biểu. Gần đây, nhiều tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh lại là những nỗ lực mới để cách tân tiểu thuyết. Truyện ngắn vốn là một thể loại nổi trội trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, kể từ giai đoạn 1930 - 1945 đến các giai đoạn tiếp theo. ở mỗi chặng đường phát triển, truyện ngắn Việt Nam cũng tạo được một số kiểu loại đặc trưng, làm phong phú cho diện mạo thể loại. Trong giai đoạn 1945 - 1975, nổi lên là loại truyện ngắn đậm chất ký và loại truyện ngắn trữ tình từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, truyện ngắn cũng được đa dạng hóa về kiểu loại, và nhìn chung hai kiểu loại nổi trội ở giai đoạn trước đã ít phát triển. Truyện ngắn thế sự nhằm thể hiện một mảnh nhỏ của dòng đời chảy trôi miên viễn, truyện ngắn triết luận rất gần với ngụ ngôn, truyện ngắn như là tiểu thuyết được rút gọn lại... Đó là những kiểu loại truyện ngắn khá phổ biến hiện nay. Loại truyện ngắn "mi ni" được rộ lên ở một thời điểm, như là sự chống lại lối viết truyện ngắn quá dài trước đây. Trong các thể ký, thì đáng chú ý nhất là sự "tái xuất" của thể phóng sự - một thể loại ở giữa báo chí và văn học, chỉ được phát triển khi ít nhiều có không khí dân chủ trong đời sống xã hội và nhu cầu nhận thức, khám phá các vấn đề xã hội là nhu cầu của số đông công chúng. Chương V Nhìn chung về diện mạo và sự đổi mới của thơ sau 1975 Mặc dù không có được vị thế nổi trội trong thời kỳ đổi mới như các thể loại văn xuôi, nhưng thơ sau 1975 vẫn là một giai đoạn mới có sự đa dạng về diện mạo và nhiều tìm tòi, nỗ lực cách tân rất đáng chú ý trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. 1. Sơ lược về tiến trình thơ từ sau 1975 Sau đại thắng mùa xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng lớn của thơ, nhất là ở nửa cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80. Bên cạnh niềm hân hoan "toàn thắng về ta", là niềm xúc động sum họp Bắc - Nam, của những người con miền Nam được trở lại quê hương sau hơn hai mươi năm nhớ thương, xa cách (Bài ca quê hương - Tố Hữu, Tôi muốn đi thăm khắp cả miền Nam - Xuân Diệu, Trở lại con sông quê hương - Tế Hanh). Khi cuộc chiến tranh đã đi qua và đứng ở vị thế người chiến thắng, các nhà thơ thuộc thế hệ thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ có nhu cầu nhìn lại con đường mà thế hệ mình cùng với cả dân tộc vừa đi qua, chiêm nghiệm về lịch sử qua những trải nghiệm của chính mình và thế hệ mình. Thể loại trường ca với khả năng tổng hợp trong nó cả trữ tình, tự sự, chính luận đã đáp ứng tối đa nhu cầu nói trên. Vì thế đã có một giai đoạn nở rộ của trường ca trong khoảng từ 1976 đến 1980. Cảm hứng sử thi vẫn là nền tảng của các trường ca và nhiều bài thơ về đề tài chiến tranh chống Mỹ, nhưng những trải nghiệm cá nhân của mỗi người làm thơ đã làm cho sự khái quát lịch sử có được cái nhìn cụ thể, xác thực và thấm thía hơn. Giọng điệu cũng trầm lắng, hướng vào suy tư chứ không còn cất lên ở âm vực cao đầy hào sảng hoặc bay bổng lãng mạn. Sự khẳng định dân tộc, ngợi ca sức mạnh của nhân dân thường được thể hiện qua những mất mát, hy sinh, nỗi đau thầm lặng của vô vàn con người, bao nhiêu số phận. Trở về với cuộc sống thời bình, con người có điều kiện trở về với đời sống thế sự và riêng tư. ý thức về thời gian đời người, khát vọng hạnh phúc đời thường trở thành cảm hứng thường trực và da diết trong thơ Xuân Quỳnh, ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ. Bước vào những năm 80 đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng nặng nề, thực trạng xã hội bộc lộ nhiều mặt trái, nhiều vấn đề bức xúc. Bằng cái nhìn tỉnh táo và ý thức trách nhiệm, thơ đã không né tránh những sự thật đau lòng, những bất công ngang trái và cả những trì trệ ngủ yên trong lối mòn tự mãn. Nguyễn Duy cay đắng nhận ra: "lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao... ta ca hát quá nhiều về tiềm lực / tiềm lực còn ngủ yên" (Đánh thức tiềm lực). Đối mặt với đời thường cũng có nghĩa là đứng trước bao nhiêu vấn đề của thế sự, nhân sinh, của sự lựa chọn không hề dễ dàng: "Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi / câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi" (Tản mạn thời tôi sống - Nguyễn Trọng Tạo). Cảm hứng hào hùng và bi tráng khi nói về đất nước, nhân dân, về thế hệ trẻ trong chiến tranh đã nhường chỗ dần cho những cảm xúc đậm nỗi buồn, niềm xót xa hay sự hoài nghi. Thơ nói nhiều đến nỗi buồn - buồn nhân thế, buồn thân thế và cả nỗi buồn trước sự bất lực của thơ ca và vị thế mới của nó - nói như Chế Lan Viên: "Giờ là lúc của xe cúp, ti vi, phim màu ngũ sắc / Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng". Tuy đã có không ít người làm thơ tỏ ra chới với, không bắt kịp được với bước chuyển của cuộc sống, không tìm được giọng điệu phù hợp với thời đại, nhưng cũng có không ít nhà thơ bằng mẫn cảm nghệ sĩ đã tìm được những hướng đi mới, giọng điệu mới. Chế Lan Viên đã có ý thức tự giác cao về yêu cầu chuyển giọng này: "Xưa tôi hát giọng cao, giờ tôi hát giọng trầm" và khao khát muốn được về làm "nhà thơ cưỡi trâu", để được nghe lại "mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ". Một số nhà thơ của thế hệ chống Mỹ vẫn kiên trì gắn bó với thơ và không từ bỏ chính mình, họ tiếp tục cuộc hành trình nhọc nhằn với thơ trên hướng dấn thân đầy đủ hơn vào cuộc đời và tìm sâu hơn vào những giá trị vững bền, muôn thuở của dân tộc, của nhân dân. Nguyễn Duy dù phiêu bạt nơi xứ lạ hay giữa cuộc sống phức tạp nơi đô thị, vẫn hướng về thiên nhiên, đồng ruộng, quê hương khó nghèo, về mẹ và em như những điểm tựa cho niềm tin và cho thơ của mình. Thanh Thảo rất tỉnh táo ở Khối vuông Ru - Bích trước sự biến ảo của đời sống hiện tại, lại vẫn nồng nhiệt ngợi ca và đặt niềm tin ở nhân dân trong Những ngọn sóng mặt trời. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã thúc đẩy tinh thần dân chủ và sự phát triển mạnh mẽ ý thức cá nhân trong văn học. Thơ ở thời kỳ này thể hiện khát vọng đào sâu vào bản ngã, vào con người bên trong con người, đặc biệt là thế giới tâm linh, những vùng mờ của tiềm thức, vô thức; cũng trong tinh thần dân chủ ấy mà nhiều xu hướng thơ được nảy nở, nhiều thể nghiệm mạnh bạo được ra mắt công chúng. Quan niệm thơ có nhiều biến đổi và ý thức cách tân thơ ngày một mạnh mẽ. Khởi động cho những cách tân này lại là một số nhà thơ thuộc các thế hệ trước 1975. Sự xuất hiện một số tập thơ (mà phần lớn các bài trong đó được viết từ trước 1975) của Hoàng Cầm (Về Kinh Bắc, Mưa Thuận Thành), Lê Đạt (Bóng chữ), Trần Dần (Cổng tỉnh, Mùa sạch, Jờ joạcx), rồi Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng... đã đem lại nhiều cái mới từ quan niệm đến sự thể nghiệm trên văn bản những xu hướng hiện đại trong thơ, từ bóng dáng siêu thực đến thứ "thơ vụt hiện", thơ như trò chơi của ngôn từ... Một thế hệ mới xuất hiện từ thời kỳ đổi mới đã đem đến thêm sự phong phú, đa dạng và nhiều khát vọng cách tân táo bạo cho thơ Việt Nam ở cuối thế kể XX và sang đầu thế kỷ XXI. Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quốc Chánh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Vi Thùy Linh... là những gương mặt khá nổi bật của thế hệ này. 2. Một số xu hướng trong thơ từ sau 1975 Trong diện mạo rất đa dạng và sự vận động khá phức tạp của thơ từ sau 1975, cũng có thể và cần phải chỉ ra một số xu hướng ít nhiều nổi rõ, có vai trò đáng kể trong ba mươi năm thơ từ sau 1975. Những xu hướng này có thể chỉ nổi lên ở một chặng đường nhất định, có thể thu hút hoặc nhiều hoặc ít nhà thơ và công chúng, nhưng đều là những đường nét không thể thiếu để nhận diện được diện mạo của một giai đoạn thơ. Xu hướng ở đây cũng chỉ là một hướng tìm tòi về nội dung hoặc hình thức nghệ thuật, và một tác giả có thể ở nhiều xu hướng khác nhau trong các chặng đường sáng tác, thậm chí có thể ở ngay trong một thi phẩm. Có nhiều ý kiến phân loại khác nhau về các khuynh hướng hay xu hướng trong thơ từ sau 1975. Lê Lưu Oanh trong công trình Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, dựa trên tiêu chí cái tôi trữ tình, chia thành: khuynh hướng sử thi, khuynh hướng thế sự - đời tư và khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa. Nguyễn Đăng Điệp (trong Thơ Việt Nam sau 1975, diện mạo và khuynh hướng phát triển) thì chia thành bốn khuynh hướng: 1. Xu hướng tiếp tục nói về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân tộc. 2. Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật. 3. Xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh đậm chất tượng trưng siêu thực. 4. Xu hướng hiện đại chủ nghĩa. Dưới đây chúng tôi nêu lên một số xu hướng chính trong sự phát triển của thơ từ sau 1975. 2.1. Tiếp tục mạch cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân Hầu hết các trường ca viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ xuất hiện ngay sau khi kết thúc chiến tranh, trong khoảng từ 1976 đến 1980, về cơ bản vẫn tiếp tục cách tiếp cận từ quan điểm sử thi với hiện thực chiến tranh. Nhưng cũng có thể dễ dàng nhận ra những nét mới từ cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu khi so sánh những tác phẩm này với những hiện tượng cùng loại xuất hiện trước 1975. Hành trình của dân tộc đi qua một cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt để tới đích cuối cùng đã được hình dung, tái hiện ở các trường ca của Thanh Thảo (Những người đi tới biển), Hữu Thỉnh (Đường tới thành phố). Họ nói về niềm vui chiến thắng, nhưng còn nói nhiều hơn về sự hy sinh, về những chịu đựng thầm lặng của nhân dân, về những gương mặt đồng đội, kẻ còn người mất nhưng không thể phai nhòa trong ký ức của những người hôm nay tới được cái đích của cuộc hành trình. ý thức về thế hệ mình với sự lựa chọn trách nhiệm trước lịch sử, bây giờ bên cạnh lòng tự hào còn có cả niềm xót xa: Chúng tôi đã đi không tiếc cuộc đời mình. Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc. (Thanh Thảo - Những người đi tới biển) Cảm hứng sử thi cũng còn được tiếp tục khai thác trong những trường ca về lịch sử (Những ngọn sóng mặt trời của Thanh Thảo), về đất nước trong cuộc hồi sinh và dựng xây hôm nay (Sức bền của đất của Hữu Thỉnh, Trầm Tích của Hoàng Trần Cương, Ba dan khát của Thu Bồn). Tuy nhiên, nhìn chung thì khuynh hướng sử thi cũng chỉ được tiếp tục ở trong khoảng gần mười năm đầu kể từ sau 1975. Trạng thái sử thi của xã hội đã phai nhạt dần, không còn môi trường tinh thần thuận lợi để nuôi dưỡng cảm hứng này trong văn học. Mặc dù thơ và cả nền văn học nói chung trong mấy chục năm qua không hề xa rời những vấn đề của đất nước, của đời sống xã hội, nhưng quan điểm tiếp cận thì đã chuyển dịch theo hướng cái nhìn thế sự với nhiều cảm hứng khác. 2.2. Hướng vào đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân Đây là xu hướng bao trùm và chiếm số lượng lớn hơn cả trong thơ từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước đến nay. Hướng vào đời sống thế sự và chiêm nghiệm về nhân sinh, phần lớn các nhà thơ đều đã mất đi cái cảm giác bình yên mà thay vào đấy là nỗi âu lo, nỗi buồn nhân thế. Mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội trong một hoàn cảnh mới đã đổi khác rất nhiều so với thời chiến tranh. Khi ý thức cá nhân được trỗi dậy mạnh mẽ thì cũng là lúc các quan hệ cộng đồng trở nên lỏng lẻo, phai nhạt. Cô đơn dường như thành cảm giác thường trực trong thơ, ngay cả trong thi đề tình yêu. Nhưng việc kể lể quá nhiều về nỗi buồn, nỗi đau, về những ngang trái của cuộc đời và thân phận con người rồi cũng đến lúc trở thành mòn sáo, nhất là có khi đó chỉ là những nỗi đau giả, khóc vờ. Nhưng nhìn chung, chính ở xu hướng này thơ sau 1975 đã khẳng định được vị trí của nó trong đời sống tinh thần của xã hội và đã có được những gương mặt thơ, những bài thơ lưu giữ được trong tâm trí của công chúng. Một số nhà thơ kiên trì và thủy chung với định hướng đã chọn, đưa thơ về với cuộc đời giữa muôn cái xô bồ, hỗn tạp, bụi bặm mà vẫn không đánh mất mình. Nguyễn Duy và hành trình thơ của anh từ sau 1975 là một trường hợp như thế. Vừa đưa vào thơ mình cả bụi bặm, hỗn tạp của cuộc sống nơi đô thị, nhưng vẫn chắt lọc được những giá trị bền vững từ những nguồn sâu xa của đời sống dân dã và cả những vẻ đẹp mong manh, thoáng qua chưa phải đã mất hết. Mượn truyện "cơm bụi", nhà thơ bày tỏ quan niệm của mình: Đừng chê anh khoái bụi đời Bụi dân sinh ấy bụi người đấy em. Xin nghe anh nói cực nghiêm Linh hồn cát bụi ở miền trong veo (Cơm bụi Ca) Xuân Quỳnh ngay từ khi đến với thơ đã bộc lộ rõ cá tính tâm hồn mình: vừa sôi nổi, bồng bột, vừa tha thiết, chân thành. Thơ Xuân Quỳnh, nhất là từ sau 1975, là tự bạch của một tâm hồn luôn khát khao hạnh phúc đời thường. Xuân Quỳnh cứ phơi trải những đam mê, những lo âu, niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống thường nhật của một người phụ nữ lên những trang thơ. Chính vì thế mà thơ của chị lại nhận được rất nhiều sự đồng cảm chia sẻ của bạn đọc nhất là bạn đọc cùng giới. Khát khao tình yêu, hạnh phúc, lại cũng hiểu rằng những điều đó phải đâu là vĩnh viễn "hôm nay yêu, mai có thể xa rồi". Nhưng chính vì thế mà niềm khát khao ấy lại càng da diết và thành thực, xen lẫn sự lo âu về những đổi thay biến suy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuyen de 3.doc
Tài liệu liên quan