Chuyên đề Giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu ở Cục Thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU. 3

1.1. Khái quát về thuế nhập khẩu 3

1.1.1. Khái niệm về thuế nhập khẩu 3

1.1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu 3

1.1.2.1. Thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng đối với ngân sách nhà nước 3

1.1.2.2. Góp phần bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát triển 4

1.1.2.3. Vai trò kiểm soát và điều tiết với hàng hóa nhập khẩu 5

1.1.2.4. Khẳng định vai trò chủ quyền quốc gia, chống phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế. 6

1.1.3. Một số nội dung cơ bản của thuế nhập khẩu 7

1.1.3.1. Phạm vi áp dụng 7

1.1.3.2. Căn cứ tính thuế 8

1.1.3.3. Thuế suất thuế nhập khẩu 9

1.1.3.4. Chế độ miễn thuế, giảm thuế thuế nhập khẩu 10

1.1.3.5. Hoàn thuế, truy thu thuế nhập khẩu 12

1.1.3.6. Thủ tục kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế nhập khẩu: 14

1.2. Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải chông thất thu thuế nhập khẩu 14

1.2.1. Khái niệm thất thu thuế nhập khẩu 14

1.2.2. Sự cần thiết phải chống thất thu thuế nhập khẩu 15

1.2.2.1. Đối với nền kinh tế 16

1.2.2.2. Đối với môi trường kinh doanh 17

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở CỤC THUẾ XNK THUỘC TỔNG CỤC HẢI QUAN. 18

2.1. Cơ cấu, chức năng nhiệm vụ của Cục thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan 18

2.1.1. Vị trí và chức năng 18

2.1.2. Đặc điểm cơ cấu tổ chức Cục thuế xuất nhập khẩu 18

2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn 18

2.2. Thực trạng thất thu thuế và công tác chống thất thu thuế. 21

2.2.1. Nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế nhập khẩu ở Việt Nam 21

2.2.2. Tình hình gian lận về thuế nhập khẩu 22

2.2.2.1. Gian lận trong việc áp mã số thuế để xác định thuế suất hàng hóa nhập khẩu 23

2.2.2.2. Gian lận trong việc xác định trị giá tính thuế nhập khẩu 24

2.2.2.3. Làm giả giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) của hàng nhập khẩu 26

2.2.2.4. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách ân hạn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. 28

2.2.2.5. Gian lận định mức trong xuất nhập khẩu hàng hóa. 29

2.2.2.6. Lợi dụng các chính sách ưu đãi của nhà nước trong xuất nhập khẩu hàng hóa. 30

2.2.2.7. Thiếu tính đồng bộ trong khâu tổ chức thu hồi nợ đọng thuế nhập khẩu 31

2.2.2.8. Thất thu thuế do các hành vi gian lận khác 32

2.2.3. Các hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu của Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan 33

2.2.3.1. Trong công tác thu Ngân sách Nhà nước 33

2.2.3.2. Công tác tham vấn và tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: 34

2.2.3.3. Về công tác quản lý nợ thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu 35

2.2.3.4. Công tác phối kết hợp với các cơ quan trong và ngoài ngành để kiểm tra, ra soát hàng hóa xuất nhập khẩu theo từng quy trình thủ tục hải quan. 36

2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động chống thất thu thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan 37

2.3.1. Kết quả 37

2.3.1.1. Góp phần quan trọng vào nguồn thu Ngân sách Nhà nước, và hạn chế nợ đọng, chống thất thu cho Ngân sách Nhà nước. 37

2.3.1.2. Cục Thuế xuất nhập khẩu góp phần thực hiện cải cách mạnh mẽ và hiệu quả thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hải quan 39

2.3.1.3. Phát hiện những sơ hở thiếu sót trong chính sách quản lý thường bị lợi dụng, từ đó đề xuất hoàn thiện chính sách, quy trình thủ tục hải quan và các chính sách quản lý nhà nước khác. 40

2.3.1.4. Quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế về Hải quan ngày càng mở rộng và đã đem lại hiệu quả thiết thực. 41

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 42

2.3.2.1. Những hạn chế 42

2.3.2.2. Nguyên nhân 43

CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC CHỐNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở CỤC THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU THUỘC TỔNG CỤC HẢI QUAN 46

3.1. Mục tiêu cơ bản của chống thất thu thuế nhập khẩu 46

3.1.1. Đảm bảo được nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước 46

3.1.2. Mục tiêu tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, đúng pháp luật 46

3.1.3. Mục tiêu nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật 46

3.2. Tham khảo kinh nghiệm chống thất thu thuế của hải quan một số nước trên thế giới. 47

3.2.1. Hoa Kỳ 47

3.2.2. Philippin 48

3.2.3. New Zealand 48

3.3. Một số giải pháp chống thất thu thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng Cục Hải quan 49

3.3.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu hàng hóa 49

3.3.1.1. Chuẩn hóa quy tắc phân loại hàng hóa để áp mã số thuế, hoàn thiện biểu thuế nhập khẩu, thuế suất hiện hành 50

3.3.1.2. Xác định đúng trị giá tính thuế trên cơ sở dữ liệu được hoàn thiện. 51

3.3.1.3. Về phương pháp tính thuế xuất nhập khẩu 52

3.3.1.4. Về thời hạn nộp thuế nhập khẩu 53

3.3.1.5. Về các chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu 54

3.3.2. Đẩy mạnh công tác kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa nhập khẩu 54

3.3.3. Nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý vi phạm về thuế của người nộp thuế 56

3.4. Điều kiện để thực hiện các giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu 57

3.4.1. Về con người 57

3.4.2. Về khoa học kỹ thuật 58

3.4.3. Về sự phối hợp Hải quan 59

3.4.3.1. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc tổ chức thu, kiểm tra, quản lý, chế tài xử lý vi phạm pháp luật về thuế. 59

3.4.3.2. Tăng cường hợp tác quốc tế với Hải quan các nước trong mặt trận đấu tranh chống gian lận thương mại. 59

KẾT LUẬN 60

TÀI LIỆU THAM KHẢO 62

 

 

doc66 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4440 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp chống thất thu thuế nhập khẩu ở Cục Thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mại cao hơn. Nhiều doanh nghiệp mua gom hàng hóa tại nước ngoài, sau đó tạo công ty giả để làm hợp đồng, hóa đơn hạ thấp giá trị hàng hóa. Hành vi gian lận thuế qua giá đối với hàng hóa nhập khẩu đang xuất hiện ngày một nhiều, ngày một phức tạp, không chỉ diễn ra đối với nhưng mặt hàng có giá trị lớn, thuế suất cao như điện thoại, ô tô, linh kiện điện tử, vi tính, rượu mà ngay cả với những mặt hàng giá trị thấp như quần áo, giầy dép cũng bị các doanh nghiệp khai trị giá thấp để giảm số thuế phải nộp. Như vậy, chỉ một chút nâng lên, hạ xuống giá tính thuế của các doanh nghiệp nhập khẩu mà chiếc túi ngân sách nhà nước cũng bị vơi đầy theo. 2.2.2.3 Làm giả giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) của hàng nhập khẩu Theo quy định, thuế suất đối với hàng nhập khẩu quy định cụ thể cho từng mặt hàng, bao gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và thuế suất thông thường. Trong đó, mức thuế suất ưu đãi đặc biệt thường thấp hơn nhiều so với thuế suất ưu đãi và với thuế suất thông thường. Thuế suất ưu đãi đăc biệt chỉ dành cho hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước và vùng lãnh thổ cam kết thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với Việt Nam theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác. Hiện nay, Việt Nam áp dụng mức thuế suất ưu đãi đặc biệt dành cho các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Do chênh lệch lớn về mức thuế suất nên hành vi làm giả giấy chứng nhận xuất xứ hoặc khai báo sai xuất xứ hàng hóa diễn ra phổ biến, nhất là sau khi Việt Nam tham gia cắt giảm thuế quan theo các hiệp định mậu dịch tự do song phương và đa phương với các nước. Hiện tượng gian lận xuất xứ hàng hóa nhập khẩu xảy ra rất phức tạp tại các cửa khẩu đường bộ lứn như Hữu Nghị, Tân Thanh, Lao Bảo, Cầu Treo, Mộc Bài… Các doanh nghiệp sử dụng nhiều thủ đoạn như: làm giả giấy chứng nhận xuất xứ; khai báo sai lệch nguồn gốc xuất xứ hàng hóa; giấu xuất xứ thật của hang hóa nhập khẩu bằng cách cho hàng hóa quá cảnh vào một nước thứ ba rồi làm giả giấy tờ thay đổi xuất xứ lô hàng; để lẫn hàng hóa xuất xứ từ hai nước khác nhau để giấu xuất xứ thực của hàng hóa khi làm thủ tục xuất khẩu… Điển hình là vụ nhập khẩu 23.886 tấn thép cán nguội khai báo từ Philippines, trị giá 206,6 tỷ đồng ở TPHCM. Thực tế là lô hàng không đủ điều kiện đảm bảo hàm lượng 40% Philippines để nhận C/O Form D theo quy định. Người bán (không nằm trong khu vực ASEAN) đã tiến hành mua lại công ty thép cán nguội của Philippines rồi chuyển nguyên vật liệu từ nước khác vào ASEAN để hợp thức hóa đầu tư và hưởng lợi thuế suất khi xuất khẩu hàng vào các nước ASEAN. Vụ việc nếu không được phát giác thì đã thất thu Ngân sách Nhà nước lên tới hàng chục tỷ đồng. Thực tế, việc chống C/O giả rất phức tạp, nguyên nhân là do việc xác minh liên quan đến nhiều nước, mất nhiều thời gian,công sức và kinh phí để giám định những giấy tờ đòi hỏi kỹ thuật cao, những thủ đoạn đối phó tinh vi của chủ hàng. Thêm vào đó, việc thay đổi người có thẩm quyền ký giấy C/O ở các nước thuộc khu vực ưu đãi, nhiều khi cơ quan chức năng không thể cập nhật kịp thời chữ ký. Ngoài ra, việc kiểm tra, đối chiếu trên các bản đăng ký chữ ký trên bản C/O gặp khó khăn vì tờ khai đã trải qua quá nhiều lần photo. Việc kiểm tra thông quan dưa trên cơ sở đánh giá rủi ro chứ không kiểm tra 100%. Chỉ trong trường hợp nghi ngờ về C/O hàng nhập khẩu, hải quan mới kiểm tra lại dấu và chữ ký trên C/O. Trường hợp phát hiện gian lận, cơ quan hải quan gửi công văn sang cơ quan hải quan chịu trách nhiệm cấp C/O của nước xuất khẩu để yêu cầu kiểm tra. Nếu cần, hải quan 2 nước phối hợp xử lý lô hàng làm giả giấy chứng nhận xuất xứ C/O. Với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thương mại quốc tế và sự tham gia của Việt Nam vào nhiều hơn các khu vực mậu dịch tự do khác nhau dự báo bọn tội phạm và các đối tượng tiếp tục sử dụng các thủ đoạn gian lận xuất xứ hàng hóa với số lượng hàng hóa ngày càng lớn hơn. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng phải khẩn trương có các biện pháp kịp thời bịt kín những sơ hở về mặt pháp luật để phòng chống gian lận, giảm thiểu thiệt hại cho Ngân sách Nhà nước và đảm bảo công bằng trong thực hiện chính sách ưu đãi thuế quan của Chính phủ. 2.2.2.4 Nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách ân hạn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo quy định của Luật thuế xuất nhập khẩu, với mỗi loại hàng hóa nhập khẩu khác nhau, doanh nghiệp sẽ được hưởng một thời gian ân hạn thuế tương ứng (chưa phải nộp thuế ngay). Từ thời điểm ngày 1/1/2006 đã bổ sung thêm quy định chỉ cho phép doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật về thuế hoặc được một tổ chức tín dụng bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp. Thực tế, điều kiện để doanh nghiệp được xét là chấp hành tốt pháp luật về thuế không quá khó, chỉ cần doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trong vòng 365 ngày, không bị pháp luật xử lý hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, không quá 2 lần bị xử lý vi phạm hành chính về hải quan với mức phạt vượt thẩm quyền Chi cục trưởng Hải quan, không trốn thuế, không bị truy tố hoặc bị phạt ở mức một lần số thuế phải nộp trở lên, không nợ thuế quá hạn. Do vậy mà phần lớn các doanh nghiệp đều đáp ứng đủ các điều kiện này và được hưởng ân hạn nộp thuế nhập khẩu. Từ đó, rất nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng chính sách ân hạn thuế sau khi nhập khẩu hàng hóa đã bỏ trốn, hoặc sau khi hàng hóa đã tiêu thụ thì không chịu nộp thuế nhập khẩu cho nhà nước. Thủ đoạn thường gặp của các doanh nghiệp là lợi dụng thời gian chậm nộp thuế cho phép để mở liên tiếp các tờ khai tại một hoặc nhiều nơi khác nhau rồi nhập ào ạt một số lượng lướn hàng hóa qua cửa khẩu và khi đến sát thời điểm nộp thuế của lô hàng đầu tiên (15 ngày, 30 ngày hoặc 9 tháng tùy theo từng loại hàng hóa) thì các doanh nghiệp này tự động biến mất, bỏ lại đằng sau những khoản nợ thuế hàng tỷ đồng. Theo thống kê của ngành hải quan, tính tới tháng 12/2009, có gần 1000 doanh nghiệp trốn thuế, số tiền nợ đọng thuế lên tới hơn 3.000 tỷ đồng. Sau khi phân loại, khoảng 2.500 tỷ đồng đã được xếp vào dạng khó đòi. Từ thực tế trên, một trong những vấn đề đặt ra là cần xem xét lại hiệu quả của chính sách ân hạn thuế và phải có những biện pháp hiệu quả và kịp thời về quản lý nợ thuế, thu hồi nợ đọng thuế để Ngân sách Nhà nước không bị thất thu hàng nghìn tỷ đồng như thời gian vừa qua. 2.2.2.5 Gian lận định mức trong xuất nhập khẩu hàng hóa. Gian lận định mức trong xuất nhập khẩu hàng hóa thường xảy ra với hàng hóa nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài, hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hàng hoa xuất khẩu. Với hàng hóa nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài theo hợp đồng gia công đã ký được miễn thuế nhập khẩu và miễn thuế xuất khẩu khi xuất trả sản phẩm cho nước ngoài. Giám đốc doanh nghiệp nhận gia công chịu trách nhiệm về định mức sử dụng, định mức tiêu hao và tỷ lệ hao hụt hàng hóa nhập khẩu để gia công. Với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hang hóa xuất khẩu nếu đã nộp thuế nhập khẩu sẽ được hoàn thuế tương ứng với tỷ lệ sản phẩm thực tế xuất khẩu. Định mức tiêu hao nguyên vật liệu được xem xét hoàn thuế được doanh nghiệp tự xây dựng, kê khai và đăng ký với cơ quan hải quan nơi nhập khẩu trước khi xuất khẩu sản phẩm. Lợi dụng sự thông thoáng của cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm, tra, xác định mức tiêu hao thực tế để làm cơ sở cho việc miễn thuế nhập khẩu gia công cho nước ngoài, hoàn thuế nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hang xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp đã kê khai định mức cao hơn định mức tiêu hao thực tế. Nhờ vậy, phần chênh lệch doanh nghiệp sử dụng để sản xuất hàng tiêu thụ trong nước hoặc bán vào nội địa mà không chịu thuế nhập khẩu. 2.2.2.6 Lợi dụng các chính sách ưu đãi của nhà nước trong xuất nhập khẩu hàng hóa. * Chính sách miễn giảm thuế Căn cứ điểm 7 Điều 100 Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/04/2009 có quy định các đối tượng miễn thuế nhập khẩu gồm có: Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án khuyến khích đầu tư quy định tại Danh mục A hoặc B Phụ lục I hoặc II ban hành kèm theo nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được miễn thuế nhập khẩu gồm: Thiết bị máy móc; Phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ được Bộ Khoa học và Công nghệ xác nhận; Phương tiện vận chuyển đưa đón công nhân gồm xe từ 24 chỗ trở lên và phương tiện thủy; Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp ráp đồng bộ , sử dụng đồng bộ với thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng; Nguyên liệu vật tư dùng để chế tạo thiết bị máy móc nằm trong dây chuyền công nghệ chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp ráp đồng bộ hoặc sử dụng đồng bộ với thiết bị, máy móc; Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được. Lợi dụng chính sách này, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu đã kê khai là tạo tài sản cố định nhưng trên thực tế lại không đưa về lắp ráp nhà xưởng để sản xuất mà đưa ra bán trên thị trường. Cũng có nhiều doanh nghiệp khai nhập khẩu ô tô để vận chuyển nguyên liệu nằm trong dây chuyền công nghệ nhưng lại sử dụng vào mục đích khác… * Chính sách theo tỷ lệ nội địa hóa Lợi dụng kẽ hở trong công tác xác nhận tỷ lệ nội địa hóa của Bộ Công nghiệp, nhiều doanh nghiệp sản xuất lắp ráp xe máy đã gian lận trong kê khai về tỷ lệ nội địa hóa và số lượng bộ linh kiện xe máy nhập khẩu để được hưởng mức thuế suất thấp đối với bộ linh kiện, phụ tùng nhập khẩu. Trước tình hình trên, cơ quan hải quan phải tính lại số thuế nhập khẩu phải nộp và quyết định truy thu thuế. Theo số liệu của ngành Hải quan thì số tiền thuế phải truy thu theo tỉ lệ nội địa hóa xe máy tại thời điểm năm 2001 lên tới 600 tỉ đồng, khi chấm dứt chính sách này vào cuối năm 2002 thì số nợ đọng thuế là 1.031 tỉ đồng, đến hết năm 2007 vẫn còn 723 tỉ đồng. Khoản tiền thuế nhập khẩu phải truy thu lớn như vậy khiến không ít doanh nghiệp chọn cách giải thể không tiếp tục hoạt động để trốn tránh khoản thuế bị truy thu. Và kết quả là ngân sách nhà nước vẫn thất thu tới hàng trăm tỉ đồng. 2.2.2.7 Thiếu tính đồng bộ trong khâu tổ chức thu hồi nợ đọng thuế nhập khẩu Việc thực hiện luật thuế không chỉ là trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nộp thuế, cơ quan quản lý thuế mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Tuy nhiên trong các văn bản luật, pháp luật về thuế hiện hành chỉ quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân là giám sát phối hợp với cơ quan hải quan trong việc thi hành pháp luật về thuế với hàng hóa xuất nhập khẩu nên trách nhiệm pháp lý của họ chưa cao và chưa rõ ràng, cụ thể. Các văn bản chưa quy định rõ tách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin về người nộp thuế nên thiếu nguồn thông tin để thực hiện cơ chế quản lý thuế mới theo hướng hiện đại. Ngoài ra, cũng chưa có một văn bản luật nào quy định cụ thể trách nhiệm các tổ chức, cá nhân nắm giữ tiền, tài sản của người nộp thuế phải nộp thuế trong khi người nộp thuế còn nợ tiền thuế dẫn đến việc cưỡng chế thuế kém hiệu quả và người nộp thuế dễ tẩu tán tiền, tài sản rồi bỏ trốn. Công tác thực hiện việc thu đọng thuế còn thiếu sự kết hợp, thống nhất giữa các cơ quan liên quan, thậm chí giữa các cơ quan trong ngành. Thậm chí đã có nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về việc phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành, đoàn thể về công tác đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế, song hầu như vẫn chỉ là trên giấy tờ, thiếu cơ sở pháp lý để thực hiện. Ví dụ như giải pháp phối hợp với ngân hàng để trừ nợ qua tài khoản của doanh nghiệp vẫn chỉ dừng lại trên quan điểm và chỉ đạo của ngành Hải quan, vẫn chưa được thể hiện cụ thể bằng các văn bản ký kết giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính. Cũng tương tự như vậy, nhiều giải pháp mang tính chất quyết liệt như kê biên tài sản, tạm giữ hàng hóa, truy tố đến nay chỉ nằm trên văn bản vì không có quy định hướng dẫn cụ thể về thủ tục pháp lý và biện pháp thực hiện. Do chưa có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ và kịp thời giữa các cơ quan quản lý trong việc xử lý nợ đọng theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình nên đã dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế vẫn còn phổ biến. Hơn nữa lại chưa có tố chức chuyên trách trong cơ quan hải quan thực hiện chức năng quản lý và cưỡng chế thu thuế nên việc theo dõi nợ chưa sát sao, đôn đốc nợ chưa triệt để là điều khó tránh khỏi. 2.2.2.8 Thất thu thuế do các hành vi gian lận khác Nhiều hành vi gian lận khác cũng được các doanh nghiệp sử dụng để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu như: khai giảm số lượng hàng hóa thực tế nhập khẩu, làm giả hóa đơn, chứng từ, giả chữ kí của công chức và con dấu của cơ quan Hải quan, giả chứng từ bảo lãnh của ngân hàng… Trước xu thế phát triển quan hệ thương mại quốc tế, hàng hóa lưu chuyển giữa các quốc gia ngày càng lớn gây nên sức ép về thời gian thông quan, do vậy khả năng kiểm soát trước khi hàng hóa được hoàn thành thủ tục hải quan ngày càng giảm. Thêm vào đó, trình độ quản lý kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn nhiều vấn đề bất cập như trình độ thanh toán qua ngân hàng của nền kinh tế còn lạc hậu, thông tin kinh tế đối ngoại còn nghèo nàn; thiếu thông tin về thị trường quốc tế liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại từ giá cả, chất lượng, xuất xứ hàng hóa đến các thủ tục pháp lý liên quan đến hàng hóa nhập khẩu. Nếu không có biện pháp kiểm soát kịp thời thì khi thực hiện theo Hiệp định trị giá GATT/WTO sẽ dẫn đến tình trạng gian lận để trốn thuế thông qua các hợp đồng, các thông tin khác liên quan đến hàng hóa. Ngoài ra, cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường của nước ta còn đang trong giai đoạn hoàn thiện, các thanh toán giao dịch thương mại phần lớn vẫn thông qua tiền măt, hàng đổi hàng,…nên rất khó kiểm soát thu nhập của doanh nghiệp và người dân. Việc triển khai các nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan cũng gặp nhiều khó khăn do các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong điều kiện hiện nay đòi hỏi cơ chế quản lý phải thay đổi hẳn trong phương pháp tổ chức, thực hiện mà nền tảng là dùng công cụ kiểm toán để xác định tính trung thực trong khai báo của doanh nghiệp nhập khẩu trước cơ quan, tổ chức thu và quản lý thuế xuất nhập khẩu. 2.2.3 Các hoạt động chống thất thu thuế nhập khẩu của Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan Tình trạng thất thu thuế nhập khẩu là một vấn đề khá nổi cộm và phức tạp mà bất cứ một quốc gia nào dù có nền công nghiệp phát triển đến đâu cũng đều bận tâm và luôn tìm cách giải quyết, khắc phục dấu hiệu gian lận. Nhận thức rõ điều này, Cục thuế xuất nhập khẩu đã rất quan tâm đến những tác động của tình trạng thất thu thuế nhập khẩu tới hoạt động thương mại và toàn bộ nền kinh tế. Từ đó, một loạt các biện pháp chống thất thu thuế đã từng bước được triển khai trong từng lĩnh vực, công tác, hoạt động của đơn vị. 2.2.3.1 Trong công tác thu Ngân sách Nhà nước Trong công tác tổ chức, thực hiện dự toán thu, để thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh do Quốc hội giao trong điều kiện số thuế năm sau luôn cao hơn năm trước từ 15-20%, mức thuế suất của hàng hóa xuất nhập khẩu năm sau luôn thấp hơn năm trước do phải cắt giảm thuế theo lộ trình đã cam kết với WTO, với các Hiệp định song phương và đa phương khác và trong điều kiện ngày càng gia tăng các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế với những thủ đoạn, hình thức ngày càng tinh vi, Cục đã tham mưu, đề xuất Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính tiến hành đồng bộ các giải pháp như: - Rà soát, phát hiện và kiến nghị Bộ Tài chính sửa đổi chính sách theo hướng đơn giản, rõ ràng, thuận tiện cho công tác thực hiện; điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu hoặc giải thích tiêu chuẩn phân loại của những mặt hàng dễ lẫn, có mức chênh lệch lớn, góp phần thu đúng, thu đủ mức thuế phải thu, chống gian lận trốn thuế. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2009, Cục đã rà soát kiến nghị Bộ Tài chính điều chỉnh kịp thời mức thuế suất thuế nhập khẩu của hơn 50 mặt hàng, trong đó có mặt hàng thép có nguyên tố Bo từ 0% lên tới 10%. Qua đó đã góp phần chặn đứng hiện tượng một số doanh nghiệp nhập khẩu thép sử dụng cho xây dựng có chứa nguyên tố Bo nhưng khai là thép hợp kim để hưởng mức thuế suất 0% gây ảnh hưởng lớn đến ngành sản xuất thép trong nước, gây thất thu thuế và làm xấu môi trường kinh doanh. - Đơn vị đã kiến nghị Tổng cục Hải quan, Bộ tài chính xây dựng cơ sở dữ liệu giá tính thuế và đặc biệt chú trọng đến cơ sở dữ liệu giá tính thuế của các mặt hàng nhạy cảm, dễ bị gian lận về giá tính thuế như: ô tô, xe máy, kính xây dựng, vải, thép hợp kim…Thông qua đó đã góp phần ngăn chặn kịp thời các trường hợp khai thấp trị giá tính thuế để trốn thuế, gây thất thu thuế nhập khẩu và ảnh hưởng đến yêu cầu bảo hộ sản xuất trong nước. - Tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện vi phạm quy định về đối tượng miễn thuế, nợ đọng thuế, chỉ đạo các Chi cục Hải quan địa phương thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra thuế. Kết quả kiểm tra đã phát hiện và ngăn chặn kịp thời nhiều trường hợp xin miễn thuế, hoàn thuế, xóa nợ thuế không đúng đối tượng, đồng thời chấn chỉnh các trường hợp hiểu và áp dụng chưa đúng chính sách pháp luật, từ đó kiến nghị lên Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính sửa đổi cơ chế, chính sách và thu hồi cho Ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng. 2.2.3.2 Công tác tham vấn và tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật: Cục Thuế xuất nhập khẩu đã nghiên cứu, soạn thảo và tham mưu đề xuất với Tổng cục Hải quan tham gia với Tổng cục Thuế, Vụ chính sách thuế, Vụ Hợp tác quốc tế Bộ Tài chính trong việc soạn thảo các Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế Giá trị gia tăng, Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt, các Nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện. Theo các quy định về thời hạn nộp thuế (trước khi triển khai áp dụng Luật thuế XNK số 45/2005/QH11) thì hàng hóa nhập khẩu sản xuất xuất khẩu áp dụng thời hạn nộp thuế là 275 ngày từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; hàng tạm nhập tái xuất là 15 ngày kể từ ngày hết hạn tạm nhập-tái xuất; hàng hóa khác là 30 ngày kể từ ngày khai hải quan mà không có sự phân biệt giữa đối tượng chấp hành tốt hay không tốt pháp luật. Lợi dụng quy định đó, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa chưa nộp thuế, sau một thời gian tự chấm dứt hoạt động hoặc chây ỳ không chịu nộp thuế nợ đọng. Để khắc phục tình trạng trên, Cục Thuế xuất nhập khẩu đã kiến nghị với lãnh đạo Tổng cục để báo cáo Bộ Tài chính trình Chính phủ và Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất nhập khẩu theo hướng chỉ cho những doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật mới được nộp thuế sau khi nhận hàng, còn đối với doanh nghiệp chưa chấp hành tốt pháp luật thì phải nộp thuế trước khi nhận hàng hoặc phải có bảo lãnh của các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Quy định này đã góp phần quan trọng trong việc giảm nợ thuế trong những năm qua. Cục Thuế xuất nhập khẩu còn kiến nghị bổ sung và sửa đổi một số quy định về miễn thuế, không thuộc đối tượng chịu thuế mà có thể là kẽ hở để xuất hiện các vi phạm, gian lận thương mại, trốn thuế. Cụ thể như: - Năm 2004, Cục đã đề xuất sửa đổi quy định về miễn thuế nhập khẩu với ô tô dưới 24 chỗ tạm nhập tái xuất của các dự án, công trình, nhà thầu nước ngoài, sử dụng vốn ODA tại thông tư 172/1998/TT-BTC ngày 22/12/1998 theo hướng phải nộp đủ thuế khi tạm nhập, lúc tái xuất sẽ hoàn lại thuế tương ứng với phần giá trị còn lại của xe. Nhờ đó đã ngăn chặn được hiện tượng các doanh nghiệp không tái xuất ô tô nhưng cũng không kê khai truy nộp thuế nhập khẩu, lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng ô tô. - Năm 2003, Cục đề xuất sửa đổi quy định về xử lý thuế đối với mặt hàng ô tô nhập khẩu từ nước ngoài vào khu chế xuất nhưng có lưu thông trên thị trường nội địa theo hướng phải nộp thuế và đã được chấp nhận. Nhờ vậy đã góp phần ngăn chặn hiện tượng một số doanh nghiệp nhập khẩu ô tô khai là sử dụng cho khu chế xuất , thực tế có sử dụng cho cả thị trường nội địa, trốn thuế, góp phần bảo hộ sản xuất trong nước, tạo thuận lợi cho quản lý thuế của cả cơ quan thuế và hải quan. 2.2.3.3 Về công tác quản lý nợ thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu Để quản lý tốt và giảm thiểu các hiện tượng nợ thuế, trốn thuế và gian lận về thuế nhập khẩu, đơn vị đã tham mưu cho Tổng cục Hải quan một số giải pháp sau: - Phân loại nợ thuế thành các loại khác nhau: nợ trong hạn, nợ quá hạn, nợ quá hạn 90 ngày. Trong nợ quá hạn lại phân loại thành nợ của doanh nghiệp giải thể, doanh nghiệp phá sản hay tự chấm dứt hoạt động, doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu, nợ phạt… để có cách quản lý, biện pháp xử lý phù hợp với đặc điểm và tính chất từng loại nợ - Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về nộp tiền thuế theo đúng thứ tự, cưỡng chế thuế, đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng cho người chấp hành tốt nghĩa vụ về thuế… - Tiến hành thực hiện cơ chế khen thưởng với doanh nghiệp không nợ thuế. - Kiến nghị với Tổng cục Hải quan chỉ đạo Cục Hải quan địa phương bố trí đủ lực lượng cán bộ làm công tác quản lý thu nợ thuế… Nhờ thực hiện tốt các giải pháp trên, trong thời gian qua, số nợ thuế của ngành hải quan đã được giảm đi đáng kể. Thành tích này không thể không kể tới đóng góp của Cục Thuế xuất nhập khẩu. 2.2.3.4 Công tác phối kết hợp với các cơ quan trong và ngoài ngành để kiểm tra, ra soát hàng hóa xuất nhập khẩu theo từng quy trình thủ tục hải quan. Công tác chống thất thu thuế nhập khẩu là một nhiệm vụ quan trọng và khó khăn, do đó cần phải sự phối kết hợp chặt chẽ của các cơ quan có liên quan. Trong những năm qua, Cục Thuế xuất nhập khẩu phối hợp với các đơn vị, cơ quan chức năng trong các công tác phân loại mã số hàng hóa để thống nhất giữa các Cục Hải quan địa phương trong toàn ngành, tăng cường công tác tham vấn, xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Song song với đó, các Cục Hải quan tỉnh, thành phố, các Vụ, Cục chuyên môn thuộc Tổng cục cũng tăng cường phối hợp và trao đổi thông tin với nhau để kịp thời phát hiện và xử lý triệt để các trường hợp buôn gian bán lận gây thất thu thuế, thông báo trong toàn ngành và tổ chức rút kinh nghiệm để có biện pháp kiểm tra phù hợp. Các hình thức trao đổi thông tin trong hoạt động kiểm hóa, chống buôn lậu, gian lận thương mại, các hoạt động tuyên truyền, đào tạo, phổ biến các văn bản pháp luật về Hải quan để nâng cao tính tự giác, tuân thủ luật pháp về Hải quan của doanh nghiệp… cũng được tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng. Để xây dựng thông tin về người nộp thuế cũng như phối hợp trong đấu tranh chống thất thu thuế, trong những năm qua, Cục Thuế xuất nhập khẩu cũng như toàn ngành Hải quan đã phối hợp với nhiều đơn vị liên quan xây dựng các quy chế phối hợp như Quy chế trao đổi thông tin giữa Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế và Kho bạc Nhà nước; Quy chế trao đổi thông tin giữa Bộ Tài chính với Ngân hàng Nhà nước; Quy chế phối hợp công tác giữa Tổng cục Hải quan và Tổng cục Cảnh sát nhân dân… Sự phối kết hợp này bước đầu đã đạt kết quả nhất định trong việc cung cấp thông tin cho quản lý và giải quyết nợ thuế. 2.3 Đánh giá thực trạng hoạt động chống thất thu thuế của Cục Thuế xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng cục Hải quan 2.3.1 Kết quả Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Tổng cục Hải quan, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trong và ngoài ngành, các Chi cục Hải quan địa phương, Cục Thuế xuất nhập khẩu đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao phó trên mặt trận phòng chống gian lận, trốn thuế gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước và đã đạt được những thành tựu sau đây: 2.3.1.1 Góp phần quan trọng vào nguồn thu Ngân sách Nhà nước, và hạn chế nợ đọng, chống thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Cục Thuế xuất nhập khẩu đã chủ động, tích cực đề xuất và triển khai nhiều giải pháp đồng bộ để hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu, đồng thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi trốn thuế, gian lận thuế ngày càng có hiệu quả. Như ta đã biết, thuế là một khoản thu quan trọng trong Ngân sách Nhà nước. Số thu Ngân sách Nhà nước luôn chiếm xấp xỉ 20%. Trong số đó, số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu chiếm khoảng trên 25% tổng thu Ngân sách Nhà nước và số thu thuế nhập khẩu thì lên tới hơn 10% tổng thu Ngân sách Nhà nước. Bảng 2.1: Tỷ trọng số thu thuế hàng hóa nhập khẩu trong tổng thu Ngân sách Nhà nước. Năm Tổng thu Ngân sách Nhà nước so với GDP Tỷ trọng số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu trong tổng thu Ngân sách Nhà nước Tỷ trọng số thu thuế nhập khẩu trong tổng thu Ngân sách Nhà nước 2002 23,1 25,5 16,77 2003 23,2 23,8 14,31 2004 23,4 21,3 11,07 2005 23,7 26,71 8,45 2006 21,2 30,73 7,68 2007 25,2 29,55 9,13 2008 21,5 33 9,24 2009 23,3 32,47 8, 3 2010 26,7 (ước tính) 35,3 (ước tính) 8.12 (ước tính) Nguồn: Cục Tin học và Thống kê – Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thuế Nhìn vào bảng trên ta thấy, tổng thu Ngân sách Nhà nước so với GDP nước ta trong giai đoạn 2002-2010 luôn chiếm trên 20%, có những năm đạt trên 25% (năm 2007 và năm 2010), thấp nhất là năm 2006 cũng đạt 21,2%. Số thu từ hàng hóa xuất nhập khẩu trong tổng thu Ngân sách Nhà nước liên tục có sự thay đổi: thấp nhất là chiếm 21,3% vào nă

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112566.doc
Tài liệu liên quan