Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK

Tiềm lực tài chính của Techcombank ngày càng được củng cố vững mạnh. Cùng với việc góp vốn mua cổ phần của HSBC, Techcombank trở thành một trong ba NHTMCP có vốn điều lệ lớn nhất và là ngân hàng có tỉ lệ cổ tức cao nhất Việt Nam. Với tổng tài sản hiện có là 18.000 tỷ đồng và số vốn điều lệ là 1.500 tỷ đồng, Techcombank có lợi thế rất lớn trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT. Ngoài ra, năm 2006, Techcombank mở mới hơn 30 chi nhánh và phòng giao dịch, nâng tổng số điểm giao dịch trên cả nước lên 80 điểm, trải rộng khắp 17 tỉnh thành. Có thể nói Techcombank là một trong số các ngân hàng có tốc độ gia tăng qui mô và phạm vi hoạt động nhanh nhất. Chính mạng lưới rộng khắp này là nhân tố quan trọng giúp Techcombank có điều kiện mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT về mặt số lượng

doc87 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1899 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên tục nhập khẩu máy móc, thiết bị để đổi mới công nghệ. Lúc đó, để đảm bảo an toàn cho quyền lợi của mình, các nhà xuất khẩu nước ngoài yêu cầu doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam mở L/C có xác nhận của ngân hàng uy tín thế giới HSBC. Trên thực tế, hiện nay Việt Nam vẫn còn là một nước nhập siêu nên doanh số L/C nhập khẩu vẫn khá cao so với L/C xuất khẩu. Do vậy, Techcombank không nên tìm mọi cách để tăng doanh số L/C xuất khẩu mà nên chú trọng duy trì mối quan hệ với các khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng. 2.4. Đánh giá hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tại Techcombank 2.4.1. Thành tựu Trong những năm qua (2002-2006), hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ của Techcombank không ngừng được mở rộng và nâng cao chất lượng. Từ chỗ chỉ sử dụng L/C trả ngay và L/C không hủy ngang là chính thì hiện nay ngân hàng đã sử dụng nhiều loại L/C hơn như: L/C không hủy ngang có xác nhận, L/C có điều khoản đỏ, L/C trả chậm… Bên cạnh đó, các dịch vụ thanh toán và tài trợ xuất nhập khẩu cũng từng bước được nâng cao. Các thành tựu nổi bật được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây: - Về qui trình nghiệp vụ Techcombank là ngân hàng duy nhất ở Việt Nam thực hiện thành công tập trung hóa giao dịch TTQT tại trung tâm thanh toán, mang lại cho ngân hàng lợi thế cạnh tranh rõ rệt trong việc cung cấp dịch vụ TTQT theo phương thức TDCT với chất lượng và hiệu quả cao hơn các ngân hàng khác. Ngoài ra, các qui trình, nghiệp vụ thanh toán L/C được tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của UCP500, ISBP, URR525 (Qui tắc thống nhất về bồi hoàn giữa các ngân hàng), ISP 98 (Qui tắc thực hiện thư tín dụng dự phòng quốc tế 98), Qui tắc thống nhất về bảo lãnh. - Về thu nhập/ chi phí từ hoạt động TTQT theo phương thức TDCT Hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ đã đem lại một khoản thu từ phí dịch vụ khá lớn và nguồn thu ngoại tệ ổn định cho ngân hàng. Ta có công thức tính lợi nhuận của hoạt động TTQT theo phương thức TDCT như sau: Lợi nhuận từ hoạt động TTQT theo phương thức TDCT = Doanh thu từ hoạt động này – Chi phí thực hiện. Qua xem xét biểu phí dịch vụ TTQT theo phương thức TDCT (chi tiết tại phụ lục số 4), ta thấy trong bối cảnh các NHTM đang cạnh tranh gay gắt về phí thì phí dịch vụ của Techcombank là hợp lý, được khách hàng chấp nhận và đánh giá cao. Do tính chất cạnh tranh mạnh mẽ như vậy nên rất khó để tăng giá phí dịch vụ nhằm tăng doanh thu. Vì thế muốn tăng lợi nhuận từ hoạt động này không còn cách nào khác là phải giảm chi phí. Điều này Techcombank đã thực hiện rất thành công. Bằng một qui trình kiểm soát chặt chẽ, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các đơn vị với TTTT nên Techcombank đã đảm bảo được tốc độ xử lý chứng từ nhanh, tính chính xác và hiệu quả của L/C. Do vậy mà tiết kiệm được chi phí cho cả ngân hàng và khách hàng do các lỗi sai sót chứng từ gây ra. Chính nhờ những nỗ lực vượt bậc đó mà mức lợi nhuận từ hoạt động TTQT theo phương thức TDCT của Techcombank là khá cao so với các NHTMCP khác. - Về khả năng hạn chế rủi ro trong hoạt động TTQT theo phương thức TDCT Techcombank hiện là một trong những ngân hàng đang áp dụng hệ thống quản trị và kiểm soát rủi ro tiên tiến nhất. Hệ thống quản trị rủi ro này được tổ chức ở nhiều cấp độ, bảo đảm tính độc lập và khách quan trong đánh giá. Ngoài ra, năm 2006, Techcombank đã nghiên cứu và tổ chức thành công hội thảo “phòng ngừa rủi ro với các công cụ tài chính phái sinh trong thương mại quốc tế”. Trong tương lai, Techcombank sẽ là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam cung cấp dịch vụ giao dịch hàng hóa qua các sàn giao dịch với mục đích đưa đến cho khách hàng những công cụ phòng ngừa rủi ro tốt nhất. Mặt khác, Techcombank cũng đưa ra các giải pháp tài chính kho vận trọn gói (logistic financing) cho các doanh nghiệp trong nước và xuất nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng. - Về khả năng và điều kiện mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT Có thể khẳng định chắc chắn rằng Techcombank hoàn toàn có đầy đủ khả năng và điều kiện để mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT. Techcombank là một trong những ngân hàng đi đầu về công nghệ của Việt Nam với việc đã nối mạng trực tuyến toàn hệ thống với phần mềm Globus của Temenos vào cuối năm 2003. Hệ thống quản l‎ý chất lượng 9001:2000 đã được thiết lập và cấp chứng chỉ tại Hội sở ngân hàng vào tháng 9 năm 2004 và hiện đang được triển khai tại các chi nhánh. Bên cạnh đó, năm 2005, Techcombank đã nâng cấp phần mềm corebanking lên phiên bản mới nhất T24 R5 của nhà cung cấp Temenos Holding (Thụy sĩ), hỗ trợ thực hiện giao dịch 24/24. Tiềm lực tài chính của Techcombank ngày càng được củng cố vững mạnh. Cùng với việc góp vốn mua cổ phần của HSBC, Techcombank trở thành một trong ba NHTMCP có vốn điều lệ lớn nhất và là ngân hàng có tỉ lệ cổ tức cao nhất Việt Nam. Với tổng tài sản hiện có là 18.000 tỷ đồng và số vốn điều lệ là 1.500 tỷ đồng, Techcombank có lợi thế rất lớn trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT. Ngoài ra, năm 2006, Techcombank mở mới hơn 30 chi nhánh và phòng giao dịch, nâng tổng số điểm giao dịch trên cả nước lên 80 điểm, trải rộng khắp 17 tỉnh thành. Có thể nói Techcombank là một trong số các ngân hàng có tốc độ gia tăng qui mô và phạm vi hoạt động nhanh nhất. Chính mạng lưới rộng khắp này là nhân tố quan trọng giúp Techcombank có điều kiện mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT về mặt số lượng. Nhờ những nố lực và thành công vượt bậc đó, tháng 09/2006, tổ chức xếp hạng Moody’s đã xếp hạng tín nhiệm của Techcombank ngang bằng với các ngân hàng hàng đầu Việt Nam. Điều đó chứng tỏ Techcombank đã tạo được niềm tin cho khách hàng và nâng cao vị thế, uy tín của ngân hàng trong hoạt động TTQT nói chung và TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Ngoài ra còn có một nhân tố khách quan nhưng không kém phần quan trọng giúp Techcombank ngày càng mở rộng hoạt động của mình hơn nữa. Đó chính là việc Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, những rào cản thương mại được xóa bỏ, hoạt động xuất nhập khẩu sẽ diễn ra sôi nổi hơn. Do vậy, trong thời gian sắp tới hoạt động TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức TDCT của Techcombank sẽ còn hứa hẹn nhiều tiềm năng mới với mức lợi nhuận đáng mơ ước. 2.4.2. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì hoạt động TTQT theo phương thức TDCT của Techcombank vẫn còn nhiều hạn chế, thể hiện ở các mặt sau đây: - Về qui trình nghiệp vụ Nhìn chung qui trình phát hành, điều chỉnh và thanh toán L/C của Techcombank khá chặt chẽ. Tuy nhiên, vẫn còn một số thiếu sót sau: Đối với nghiệp vụ thanh toán L/C hàng nhập, thời gian để chuyên viên khách hàng thẩm định tình hình tài chính của người nhập khẩu khá ngắn khiến cho ngân hàng không nắm rõ khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, đặc biệt là các khách hàng lần đầu đến mở thư tín dụng. Trong trường hợp nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản thì ngân hàng phải gánh chịu toàn bộ rủi ro. Hay trong trường hợp hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển giữa các nước gần nhau, thời gian vận chuyển chỉ mất 3 ngày, trong khi thời gian lưu chuyển chứng từ lâu hơn, khoảng 10 ngày. Như vậy, hàng đã đến cảng nhưng nhà nhập khẩu không thể bốc dỡ hàng được vì chưa nhận được chứng từ. Điều này gia tăng chi phí lưu kho bãi và gây bất tiện cho nhà nhập khẩu. Đối với nghiệp vụ thông báo và chấp nhận thanh toán L/C xuất khẩu, các ngân hàng nước ngoài thường tìm cách bắt lỗi chứng từ theo L/C để làm chậm hoặc kéo dài thời hạn thanh toán gây ứ đọng vốn cho người xuất khẩu. Hoặc có trường hợp giá hàng hóa trên thị trường biến động bất lợi, người nhập khẩu không muốn nhận lô hàng nên tìm mọi cách từ chối thanh toán gây thiệt hại cho nhà xuất khẩu. Techcombank chưa có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng này, chưa đảm bảo được quyền lợi của khách hàng xuất khẩu. Về khả năng hạn chế rủi ro trong hoạt động TTQT theo phương thức TDCT Mặc dù đã nghiên cứu, tổ chức các hội thảo về phòng ngừa rủi ro ngoại tệ song đó vẫn mới chỉ là thử nghiệm. Hiện tại, Techcombank chưa triển khai đưa vào thực tiễn được vì nghiệp vụ Hedging trong phòng chống rủi ro ngoại tệ vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam, việc đưa vào áp dụng thực tế vẫn còn nhiều khó khăn và bỡ ngỡ. - Về khả năng và điều kiện mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT Tuy Techcombank có đầy đủ khả năng và các điều kiện để mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức TDCT nhưng trên thực tế vẫn còn một số hạn chế sau: + Loại hình L/C được sử dụng chưa đa dạng: Mặc dù hiện nay, Techcombank đã sử dụng khá nhiều loại L/C nhưng về cơ bản doanh số L/C không hủy ngang và L/C xác nhận chiếm tới gần 80% tổng doanh số thanh toán L/C. Ngân hàng thường mở L/C theo yêu cầu của khách hàng nên trong doanh số L/C nhập khẩu thì doanh số L/C trả ngay là khá lớn. Đây là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu. Các loại L/C khác như: L/C đối ứng, L/C tuần hoàn, L/C dự phòng hầu như không được sử dụng. Đây không chỉ là điểm yếu của Techcombank mà còn là của các NHTMCP Việt Nam nói chung. + Doanh số thanh toán L/C xuất khẩu còn khá nhỏ: Tuy doanh số hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ tăng trưởng mạnh qua các năm nhưng tỷ trọng doanh số thanh toán L/C xuất khẩu vẫn còn khá nhỏ (như đã phân tích trong phần thực trạng ở trên). + Trình độ tác nghiệp của cán bộ nhân viên thực hiện hoạt động TTQT theo phương thức này chưa cao, chưa thực sự là nhà tư vấn thông thái và tin cậy cho khách hàng về loại L/C nên sử dụng: Hầu như nhân viên nghiệp vụ TTQT khi thực hiện mở L/C chỉ “máy móc” làm theo yêu cầu của khách hàng chứ chưa thực sự tư vấn cho khách hàng nên chọn loại L/C nào cho phù hợp nhất và làm đơn xin mở L/C như thế nào cho đúng để tiết kiệm thời gian. Ngoài ra, các thanh toán viên hay các chuyên viên khách hàng ít có dịp được trao đổi kinh nghiệm với nhau hoặc tham gia vào các lớp tập huấn nâng cao (các lớp này thường chỉ mở cho đối tượng lãnh đạo – những người chỉ thực hiện quản lý chứ không trực tiếp thực hiện nghiệp vụ TTQT với khách hàng). + Hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế: Hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút khách hàng đến thực hiện TTQT. Tuy vậy Techcombank cũng như hệ thống các NHTM nói chung chưa thực sự quan tâm đến hoạt động này. Kết quả là, các hình thức tài trợ chưa đa dạng, doanh số còn nhỏ, không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. + Khó khăn xuất phát từ phía khách hàng: Hình thức L/C là một hình thức thanh toán phức tạp, đòi hỏi sự am hiểu chuyên sâu về qui trình và nghiệp vụ. Do vậy vẫn còn nhiều khách hàng không có kiến thức về ngoại thương và TTQT nên kinh doanh theo thời vụ, chỉ tính lợi trước mắt. Họ thường đưa ra những đề nghị trái với nguyên tắc và thông lệ TTQT. Ví dụ như trường hợp biến động giá cả, hàng nhập về mất giá, họ yêu cầu ngân hàng trả ngay tiền đặt cọc để ký hợp đồng với bạn hàng khác hay có khách hàng lại không chịu thanh toán phần còn lại của lô hàng mặc dù hàng hóa đã được nghiệm thu. Gặp những khách hàng như vậy, ngân hàng rất khó giữ được chữ tín. Hay trường hợp vì thiếu kiến thức trong mua bán ngoại thương, một số doanh nghiệp trong nước chọn nhầm đối tác nước ngoài là các “công ty ma”, do vậy dẫn tới rủi ro thanh toán cho ngân hàng. 2.4.3. Nguyên nhân - Nguyên nhân khách quan + Hành lang pháp lý cho hoạt động TTQT còn chưa đồng bộ và nhiều thiếu sót. Hầu hết các quốc gia đều có các văn bản luật hướng dẫn việc thực hiện phương thức L/C trên cơ sở thông lệ quốc tế nhằm hạn chế rủi ro cho quốc gia mình khi có các tranh chấp phát sinh. Nhưng ở Việt Nam, việc áp dụng UCP500 gần như là tuyệt đối, không chịu bất cứ sự điều chỉnh nào. Techcombank cũng có các văn bản hướng dẫn nhưng chưa có văn bản pháp lý nào có tính chất hợp đồng trong giao dịch chứng từ. Do vậy, quyền hạn và nghĩa vụ của các bên không được phân định rõ. + Các chính sách vĩ mô của nhà nước, các chính sách hỗ trợ, tạo môi trường cho hoạt động XNK chưa ổn định và hiệu quả. Mặc dù Việt nam đã gia nhập WTO nhưng thực tế chính sách thương mại của nước ta chưa thực sự ổn định và tạo động lực cho các doanh nghiệp XNK trong nước. Cho đến tận lúc này, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự mất cân đối trong tỷ trọng doanh số thanh toán L/C nhập khẩu và L/C xuất khẩu (như đã phân tích ở phần thực trạng). + Sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn Trong quá trình hội nhập, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ngày càng được mở rộng. Với bề dày kinh nghiệm và tiềm lực tài chính vững mạnh, các ngân hàng có vị thế vững chắc trong hoạt động TTQT như ANZ, Citibank, Vietcombank…sẽ làm cho việc giành được “chiếc bánh thị phần” của Techcombank càng trở nên khó khăn hơn. - Nguyên nhân chủ quan + Công tác áp dụng Marketing vào việc thu hút khách hàng vẫn còn hạn chế, chưa thực sự hiệu quả Hiện nay, việc áp dụng Marketing ngân hàng là cả một quá trình khó khăn, không phải ngân hàng nào cũng thực hiện được. Những chiến lược Marketing của Techcombank như phân tích khách hàng, phân tích đối thủ cạnh tranh, thực hiện xúc tiến hỗn hợp (Promotion) vẫn chưa được chú trọng. Ngân hàng cũng chỉ tìm biện pháp giữ chân khách hàng cũ mà chưa quan tâm tìm biện pháp khai thác các phân đoạn khách hàng tiềm năng khác. + Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác TTQT chưa được nâng cao. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI TECHCOMBANK 3.1. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Techcombank trong thời gian tới - Định hướng đến 2010 Techcombank phấn đấu thuộc nhóm ngân hàng đô thị hàng đầu về độ tin cậy, chất lượng và hiệu quả. - Định hướng hoạt động trong năm 2007 Theo kế hoạch, năm 2007 Techcombank sẽ tiếp tục định hướng ngân hàng bán lẻ, hướng tới các khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp SMEs. Để tiếp tục phát triển theo hướng này, Techcombank sẽ đầu tư một cách đồng bộ, cả về mặt sản phẩm, nhân sự, mạng lưới, công nghệ và quản trị doanh nghiệp. Cụ thể, về mặt sản phẩm dịch vụ, Techcombank sẽ phát triển các sản phẩm dịch vụ mới trên nền công nghệ hiện đại, tập trung vào các sản phẩm huy động và tiết kiệm, cho vay tiêu dùng, sản phẩm thẻ và tài khoản. Đặc biệt, Techcombank sẽ ra mắt sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế vào quý 3 năm 2007. Đối với các doanh nghiệp, Techcombank sẽ đặc biệt chú trọng vào các sản phẩm mang tính trọn gói, cung cấp các dịch vụ “một cửa” cho khách hàng. Về mặt mạng lưới, Techcombank sẽ mở mới khoảng 40 phòng giao dịch và 6 chi nhánh, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Hồ Chí Minh, nâng tổng số điểm giao dịch trên cả nước đến cuối năm 2007 đạt trên 120 điểm. Công nghệ cũng tiếp tục là điểm nhấn của Techcombank trong năm 2007. Ngân hàng sẽ triển khai thêm các modun mới của hệ thống phần mềm ngân hàng lõi Temenos 24 về quản trị rủi ro, về treasury,… Công nghệ sẽ là nền tảng vững chắc để Techcombank phát triển thêm nhiều dòng sản phẩm dịch vụ mới và chắc chắn sẽ tiếp tục là thế mạnh của Techcombank. Năm 2007, Techcombank sẽ đặc biệt chú trọng cải tiến lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, đặc biệt khi có thêm nhân tố mới là đối tác chiến lược HSBC. - Định hướng hoạt động TTQT Việc Việt Nam gia nhập WTO mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức mà chúng ta phải đối đầu. Chúng ta cần tận dụng các ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu và thoát ra khỏi tình trạng của một nước nhập siêu. Nhưng khi các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam nhiều hơn thì “chiếc bánh thị phần” càng bị chia nhỏ và sự cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Muốn tồn tại, các doanh nghiệp Việt Nam phải ứng dung công nghệ mới, nhập khẩu máy móc, thiết bị, tăng qui mô sản xuất. Điều đó sẽ khiến TTQT trở thành hoạt động mũi nhọn. Đứng trước tình hình đó, Techcombank đã có chiến lược đẩy mạnh hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ thông qua các chỉ tiêu kế hoạch như sau: phấn đấu tốc độ tăng doanh số thanh toán XNK đạt 75% và tốc độ tăng tổng phí thu khoảng 60%, chiếm 75% tổng phí thu từ hoạt động kinh doanh đối ngoại. Ngoài ra, dự kiến trong năm 2007, Techcombank sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ Thanh toán quốc tế trên toàn hệ thống, phấn đấu đạt được chuẩn mực quốc tế để nâng cao uy tín của ngân hàng và tạo điều kiện để có bước tăng trưởng mạnh trong TTQT, đồng thời tiếp tục mở rộng tiếp thị quan hệ ngân hàng quốc tế, mở rộng hệ thống đại lý thanh toán có chọn lọc, đồng bộ và hợp tác toàn diện với các ngân hàng nước ngoài có chiến lược, tiềm năng phù hợp. 3.2. Giải pháp đề xuất nhằm mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Techcombank Việc mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức LC cần hướng tới các mục tiêu sau: - Thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng về loại hình LC, số lượng LC, qui mô, địa điểm và thời gian thanh toán. - Mở rộng cơ cấu khách hàng theo định hướng của ngân hàng là khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Đảm bảo an toàn, hiệu quả trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. - Nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trong mắt khách hàng, đối tác nước ngoài và các đối thủ cạnh tranh. 3.2.1. Hoàn thiện qui trình thanh toán theo phương thức LC 3.2.1.1. Qui trình nghiệp vụ thanh toán LC hàng nhập khẩu - Xem xét những điều kiện bất lợi để giảm thiểu rủi ro Trước khi mở LC, Techcombank cần cân nhắc các điều kiện bất lợi có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng từ phía nhà nhập khẩu. + Trường hợp hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển giữa các nước gần nhau, thời gian vận chuyển ngắn hơn thời gian lưu chuyển chứng từ. Do vậy, nhà nhập khẩu cần được ngân hàng ân hạn thêm thời gian để hàng tại cảng. Nếu quá thời gian đó mà nhà nhập khẩu không làm thủ tục nhập hàng thì sẽ phải chịu chi phí lưu bãi tính theo số hàng và số ngày thực tế. Khi đó, Techcombank nên nghiên cứu và cho phép nhà nhập khẩu được nhận trực tiếp 1/3 bộ chứng từ để bốc dỡ hàng nhanh hơn còn số chứng từ còn lại sẽ được gửi tới ngân hàng. + Trường hợp nhà nhập khẩu đề nghị trong đơn xin mở LC nhập hàng theo điều kiện FOB, CIF (2 trong 13 điều kiện của INCOTERMS 2000), tức là sau khi hàng được bốc lên tàu thì mọi rủi ro thuộc về nhà nhập khẩu: nếu họ không có thiện chí và cố tình tránh nghĩa vụ thanh toán thì sẽ đem lại rủi ro rất lớn cho ngân hàng. Vì vậy, căn cứ vào uy tín của nhà nhập khẩu mà Techcombank có thể yêu cầu họ bổ sung chứng từ bảo hiểm. - Thẩm định kỹ tình hình tài chính của người nhập khẩu Ngân hàng sẽ phải chịu rủi ro trong trường hợp nhà nhập khẩu bị mất khả năng thanh toán hay bị phá sản. Do vậy, ngân hàng cần nắm vững tình hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp lần đầu đến mở thư tín dụng, Techcombank nên hạn chế mức mở LC khoảng vài trăm USD để giảm thiểu rủi ro. 3.2.1.2. Qui trình nghiệp vụ thông báo và chấp nhận thanh toán LC xuất khẩu Trong việc thông báo, chấp nhận thanh toán LC xuất khẩu hiện nay có tình trạng là các ngân hàng nước ngoài thường tìm cách bắt lỗi chứng từ theo LC để làm chậm hoặc kéo dài thời hạn thanh toán, gây ứ đọng vốn của người xuất khẩu. Để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, Techcombank cần có các biện pháp sau: - Kiểm soát chặt chẽ LC và các điều khoản trong LC. - Tư vấn cho khách hàng lập các chứng từ thanh toán, tối thiểu hóa các sai sót để hạn chế khả năng từ chối thanh toán của ngân hàng nước ngoài. 3.2.2. Nâng cao năng lực kinh doanh và uy tín của ngân hàng - Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế nói chung và TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Hiện nay ngân hàng đã có được một đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao. Tuy nhiên, nguồn nhân lực này cần không ngừng được đào tạo để nâng cao kiến thức và cập nhật những công nghệ hiện đại trên thế giới về hoạt động TTQT. Ngân hàng nên có biện pháp khuyến khích các thanh toán viên tự học tập, nâng cao trình độ chuyên môn và ngoại ngữ. Ngoài ra Techcombank nên bố trí cho các cán bộ chủ chốt đi học hỏi kinh nghiệm ở các ngân hàng nước ngoài và tham gia các hội thảo chuyên ngành. Phong cách giao dịch của thanh toán viên với khách hàng cũng rất quan trọng. Hình ảnh của ngân hàng trong tâm trí khách hàng được hình thành qua quá trình khách hàng tiếp xúc, làm việc với nhân viên giao dịch của ngân hàng. Do vậy, việc đào tạo đội ngũ này với thái độ phục vụ niềm nở tận tình, hiểu biết sâu sắc các sản phẩm của ngân hàng là rất cần thiết trong việc thu hút khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ. Bên cạnh đó, Techcombank cũng nên tiêu chuẩn hóa cán bộ TTQT qua việc áp dụng qui định cụ thể về bằng cấp, trình độ tin học, ngoại ngữ, sự am hiểu luật pháp, thông lệ quốc tế liên quan đến hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ (UCP 500, ISBP, URR, ULC…). Ngân hàng cũng nên mạnh dạn sử dụng các cán bộ trẻ có năng lực, hiểu biết các thông lệ quốc tế, thích ứng nhanh với công nghệ mới. Ví dụ như sinh viên ngành kinh tế đối ngoại trường Đại học Ngoại Thương hoặc sinh viên khoa Ngân hàng Tài chính trường đại học Kinh tế quốc dân hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu này… - Áp dụng công nghệ mới của ngành ngân hàng Ngày nay khi áp lực cạnh tranh giữa sản phẩm và dịch vụ của các ngân hàng ngày càng cao thì việc áp dụng công nghệ cao làm tăng tốc độ xử lý giao dịch, giảm thời gian thực hiện giao dịch và thanh toán là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Chẳng thế mà mới có quan điểm “công nghệ hiện đại đem đến sự thành đạt cho khách hàng và ngân hàng”. Là thành viên của mạng thanh toán SWIFT, Techcombank có nhiều thuận lợi trong việc nâng cao chất lượng TTQT vì mạng này mang lại sự an toàn, độ chính xác cao, tiết kiệm thời gian và chi phí so với mạng TELEX. Trong thời gian tới, Techcombank nên triển khai và mở rộng dịch vụ e-banking trong TTQT. Ở Việt nam hiện nay, cách thức này còn mới mẻ nhưng trên thế giới thì đã hết sức phổ biến vì nó rất thuận tiện. Thông lệ quốc tế ngoài UCP 500 cũng đã có thêm eUCP để các ngân hàng áp dụng cho hoạt động TTQT qua Internet của mình. Cải thiện và nâng cao trình độ tự động hóa trong quy trình công nghệ ngân hàng là tạo điều kiện để quản lý vốn tập trung, hòa nhập vào thị trường tài chính tiền tệ thế giới. - Nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng Doanh nghiệp khi đến thực hiện giao dịch với ngân hàng thì việc đầu tiên họ quan tâm là năng lực tài chính của ngân hàng, liệu ngân hàng đó có thể bị phá sản trước những dòng người đến rút tiền hàng loạt hay không, khả năng thanh khoản của ngân hàng có cao hay không…Khi thực hiện vai trò là ngân hàng phát hành LC, ngân hàng sẽ không để số tiền ký quĩ của khách hàng “bất động” trong két sắt mà dùng nó vào hoạt động khác như cho vay, kinh doanh ngoại tệ…Mục tiêu kinh doanh của ngân hàng là an toàn và sinh lợi. Mặc dù Techcombank là ngân hàng có năng lực tài chính mạnh nhưng vẫn cần đẩy mạnh công tác huy động vốn, sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó để tăng cường năng lực tài chính. 3.2.3. Đẩy mạnh hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu Ngân hàng tài trợ xuất nhập khẩu giúp các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh lớn, mở rộng qui mô sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh. Điều đó cũng giúp ngân hàng mở rộng hoạt động TTQT. Thực tế có rất nhiều hình thức tài trợ cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ. Cụ thể là: - Tài trợ LC nhập khẩu Ngân hàng có thể tài trợ cho nhà nhập khẩu trong tất cả các giai đoạn từ khi hợp đồng được ký kết cho đến khi nhà nhập khẩu nhận được hàng. + Cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu: Trên thực tế, khoảng thời gian từ khi mở LC cho đến khi thanh toán LC là khá dài khiến nhà nhập khẩu bị ứ đọng vốn, nếu ngân hàng yêu cầu tỉ lệ ký quĩ cao và kiểm soát chặt chẽ số dư trên tài khoản sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của họ. Nhưng nếu ngân hàng cho ký quĩ dưới 100% thì sẽ gặp rủi ro trong trường hợp nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán khi LC đáo hạn. Để tránh điều này và đảm bảo uy tín của Techcombank thì ngân hàng nên thực hiện cấp tín dụng theo hạn mức cho nhà nhập khẩu. + Tài trợ trong giai đoạn giao hàng: Ngân hàng có thể cho nhà nhập khẩu mở LC trả ngay theo hạn mức tín dụng mà ngân hàng cấp, trên cơ sở phân tích kế hoạch nhập khẩu của khách hàng, tức là ngân hàng nhận chính lô hàng đó hoặc số tiền ký quĩ để mở LC làm tài sản đảm bảo. + Tài trợ trong giai đoạn nhận hàng: Ngân hàng thực hiện việc tài trợ cho nhà nhập khẩu trong giai đoạn nhận hàng theo các phương thức: chấp nhận hối phiếu, cho vay thanh toán, bảo lãnh nhận hàng… - Tài trợ cho hoạt đông xuất khẩu Để giúp nhà xuất khẩu bán được hàng, thu hồi vốn nhanh chóng, ngân hàng có thể tài trợ vốn giúp doanh nghiệp thực hiện hợp đồng ngoại thương. + Cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu: Ngân hàng cấp tín dụng để nhà xuất khẩu thu mua hoặc sản xuất hàng hóa căn cứ vào LC được thông báo hoặc hợp đồng ngoại thương. Việc làm này sẽ củng cố mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. + Chiết khấu bộ chứng từ hoàn hảo và chiết khấu hối phiếu: Ngân hàng có thể thực hiện chiết khấu bộ chứng từ đòi tiền hoàn hảo để giải phóng vốn cho khách hàng, giúp nhà xuất khẩu quay vòng vốn nhanh hoặc chiếu khấu các hối phiếu chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Để cạnh tranh với các ngân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại TECHCOMBANK.doc
Tài liệu liên quan