Chuyên đề Giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ thức ăn chăn nuôi của Công ty TNHH VIC giai đoạn 2006 - 2010

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 2

1. Các vấn đề chung về thị trường 2

2. Tiêu thụ sản phẩm và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm 7

3. Vai trò của thị trường tiờu thụ sản phẩm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 11

4.Các mô hình lý thuyết cơ bản sử dụng trong nghiên cứu thị trường. 14

5.Sản xuất thức ăn gia súc và vai trò của nó trong nền kinh tế Việt Nam 24

6.Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ thức ăn gia súc. 26

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TIÊU THỤ CỦA CÔNG TY TNHH TM VIC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2005 28

I. Tổng quan về nghành chăn nuôi và sản xuất thức ăn chăn nuụi tại Việt Nam. 28

2.Tổng quan về ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam 29

II.Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH TM VIC 40

III. Phân tích môi trường ngành 49

IV. Kết luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 54

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM THỨC ĂN CHĂN NUÔI CỦA CÔNG TY TNHH TM VIC GIAI ĐOẠN 2006-2010 58

1. Thuận lợi và khó khăn đối với việc phát triển thị trường 58

2. Định hướng phát triển thị trường 60

3. Giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ ở Việt Nam 61

 

 

docx72 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2712 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ thức ăn chăn nuôi của Công ty TNHH VIC giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t thức ăn chăn nuôi đã đóng góp một phần công sức không hề nhỏ bé vào quá trình chuyển mình của đất nước trước ngưỡng của của thời đại. 6.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG TIÊU THỤ THỨC ĂN GIA SÚC. - Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận chuyển hàng hoá của các doanh nghiệp. Khi cơ sở hạ tầng giao thông thuận lợi việc vận chuyển hàng tới địa bàn tiêu thụ sẽ dễ dàng và kịp thời hơn, còn nếu cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém thì ngược lại. - Điều kiện tự nhiên: Khi điều kiện tự nhiên thuận lợi người chăn nuôi sẽ chăn nuôi nhiều hơn bởi họ kỳ vọng cao vào tương lai, từ đó hàng hoá sẽ bán chạy hơn. Ngược lại khi điều kiện tự nhiên không thuận lợi, bệnh dịch hay sảy ra người chăn nuôi sẽ lo sợ thua lỗ vì thế hàng hoá sẽ khó tiêu thụ. - Lợi nhuận của người chăn nuôi cũng là một ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp. Khi người chăn nuôi nhận thấy việc sử dụng thức ăn chăn nuôi công nghiệp trong chăn nuôi là có hiệu quả thì họ sẽ sử dụng nhiều hơn và ngược lại. - Nhận thức của người chăn nuôi cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp. Những vùng nhận thức của người dân thấp họ sẽ chỉ quen với việc sử dụng phương thức chăn nuôi truyền thống, và việc thuyết phục họ chuyển sang dùng thức ăn chăn nuôi công nghiệp vào chăn nuôi là rất khó khăn. Ngược lại, những vùng có dân trí cao, người chăn nuôi sẽ hiểu được việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi là rất cần thiết và họ sẽ dễ dàng chấp nhận sản phẩm của các doanh nghiệp nếu nó đem lại hiệu quả. - Các chính sách khuyến nông cũng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của các hãng sản xuất thức ăn chăn nuôi. Khi Chính phủ có những chính sách khuyến nông, người chăn nuôi sẽ có nhiều vốn hơn để đầu tư vào chuồng trại, giống và thức ăn. Như vậy họ sẽ sử dụng nhiều thức ăn chăn nuôi hơn và các doanh nghiệp sẽ dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình hơn. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TIÊU THỤ CỦA CÔNG TY TNHH TM VIC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2005 I. TỔNG QUAN VỀ NGHÀNH CHĂN NUÔI VÀ SẢN XUẤT THỨC ĂN chăn nuôi TẠI VIỆT NAM. 1.Tổng quan về ngành chăn nuôi Trong lịch sử ,nền nông nghiệp nước ta vốn đã là nền nông nghiệp trồng lúa nước, chăn nuôi chưa được chú trọng phát triển như là môt ngành sản xuất độc lập, mà mới được coi là một hoạt động sản xuất phụ nhằm hỗ trợ cho ngành trồng trọt. Mục đích chính của chăn nuôi lấy thịt, trứng, sữakhông được người sản xuất nhắc đến mà người ta chỉ hướng muc tiêu về cung cấp sức kéo làm đất và cung cấp phân bón cho cây trồng . Sau ngày hoà bình thống nhất đất nước, nền kinh tế bước vào giâi đoạn phục hồi và phát triển-vị trí và vai trò của ngành chăn nuôi đã dược nhìn nhận và đánh giá đúng với mục tiêu phấn đấu đưa chăn nuôi thành một ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Nhờ đó, ngành chăn nuôi ở nước ta đã có bước chuyển biến tích cực so với năm 1975. Gía trị sản xuất ngành chăn nuôi (tính theo giá cố định năm 1994) năm 2000 tăng gấp 3,93 lần trong khi đó giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng 3,08 lần. Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp. Đơn vị: % Năm Ngành chăn nuôi Ngành trồng trọt 1975 4,62 95,38 2000 19,7 80,3 Nguồn: Giáo trình Kinh tế nông nghiệp Điều đáng ghi nhận là, trước đây chăn nuôi trâu, bò chủ yếu để lấy sức kéo, thì đến nay đang chuyển sang mục tiêu là chăn nuôi lấy thit, sữa, theo mô hình chăn nuôi theo phương thức công nghiệp đã phát triển mạnh. Năm 2004 cả nước có 2.869.802 con trâu, 1.558.360 con bò, 26.143.727 con lợn, 218.152.800 con gia cầm(1) (1) Sè liÖu Tæng côc thèng kª 1/8/2004 . Nhìn chung đàn vật nuôi không chỉ phát triển về số lượng mà đã có sự biến đổi tích cực trong việc đưa các giống mới có năng xuất chất lượng cao, sản xuất theo phương thức thâm canh, xoá bỏ dần phương thức chăn nuôi tự nhiên theo kiểu tận dụng. 2.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI VIỆT NAM Năm 1989 cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi đầu tiên của Viêt Nam ra đời, đó là công ty liên doanh GUIOMARCH-VCN của trung tâm nghiên cứu Thụy Phương Hà Nội trực thuộc Viện chăn nuôi liên doanh với CH Pháp. Đến nay cả nước đã có trên 200 nhà máy sản xuất thứ ăn chăn nuôi, hàng năm cho ra đời hàng chăm nghìn tấn thức ăn chăn nuôi góp phần thúc đẩy phương thức chăn nuôi công nghiệp phát triển mạnh trong những năm gần đây. Đóng góp trực tiếp hàng nghìn tỷ đồng vào GNP 2.1.Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. 2.1.1 Nhóm các yếu tố chính sách. - Yếu tố luật pháp: Bất kỳ một ngành nghề nào cũng cần một khung pháp lý. Hành lang pháp lý có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của ngành. Hiện nay hành lang pháp lý đang là một vấn đề của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi ở nước ta hiện nay. Ví dụ: “Nghị định 15 Chính phủ ra đời năm 1996 thì giám đốc Sở có thể ra quyết định đình chỉ sản xuất DN làm ăn sai quy định so với chất lượng đã công bố. Thế nhưng, Pháp lệnh xử lý hành chính ra đời năm 2002 thì Chánh thanh tra chuyên ngành là người quyết định. Nói vậy, nhưng các Sở NN-PTNT có thanh tra chuyên ngành vẫn còn là ước mơ”. Như vậy ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi hiện nay giống như một sân chơi mà chưa có luật rõ dàng. Mà kết cục một chò chơi không luật thì ai cũng biết đó là vô cùng hỗn loạn. Như vậy để cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi phát triển thành một ngành độc lập xứng đáng là đòn bẩy đưa ngành chăn nuôi Việt Nam lên thành trở một ngành sản xuất hàng hoá lớn thì cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật doanh nghiệp,luật cạnh tranh…nói chung và các luật sử lý của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi nói riêng. - Các chính sách phát nông nghiệp nông thôn: Có thể nói các chính phát triển nông nghiệp nông thôn có ảnh hưởng trực tiếp nhất đến quá trình phát triển của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Việc định hướng của Đảng và Nhà nước cho phát triển ngành chăn nuôi thành một ngành sản xuất chính, độc lập mang tính công nghiệp cao thì song song với nó cũng cần một ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi được quy hoạch phát triển xứng tầm là đòn bẩy cho ngành chăn nuôi phát triển. Mặt khác các chính sách khuyến nông cũng ảnh hưởng mạnh đến ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Ví dụ, Năm 2006 dự tính cho khuyến nông là 110 tỷ(website Bộ nông nghiệp). Như vậy người chăn nuôi sẽ được vay vốn ưu đãi, có tiền để đầu tư vào thức ăn và giống. Có thể nhận ngay ra lợi ích của các doanh nghiệp chăn nuôi qua chương trình khuyến nông này. - Các chính sách tài chính: Chính sách tài chính tác động đến ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi thể hiện rõ dàng nhất qua đầu tư phát triển và chi trợ cấp. Việc đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn sẽ giúp cho các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi dễ dàng hơn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác sự trợ cấp của nhà nước đối với các doanh nghiệp cũng là rất cần thiết trong một số trường hợp. - Chính sách ngoại thương: Cũng như nhiều ngành kinh tế khác, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi cũng chịu sự tác động của chính sách ngoại thương của chính phủ. Việc bảo hộ hay không bảo hộ của nhà nước với ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước có ảnh hưởng tới tương lai của ngành. Ngoài ra, các nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi hiện nay của các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi ở nước ta chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài vì thế chính sách ngoại thương của chính phủ có ảnh hương rất lớn đến đầu vào của sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước. - Chính sách công nghiệp và công nghiệp hoá: Tác dụng, vai trò của công nghiệp hoá đối với việc phát triển kinh tế nói chung bao gồm quá trình đô thị hoá, thúc đẩy các mối liên kết trong kinh tế, là con đường cơ bản nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Còn đối với riêng ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi thì công nghiệp và công nghiệp hoá tác động trực tiếp trong hai chính sách đó là: Chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ - chính sách này sẽ giúp đa phần các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước (đa phần la các doanh nghiệp vừa và nhỏ) đứng vững và phát triển. Chính sách phát triển chăn nuôi (theo hướng công nghiệp chủ yếu theo hình thức trang trại với quy mô phù hợp, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, an toàn dịch bệnh)-chính sách này sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu sản phẩm của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi phải có sự chuẩn bị sẵn sàng cho bước chuyển mình. Mặt khác việc khuyến khích áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất giống, thức ăn công nghiệp, thú y và kiểm tra chất lượng sản phẩm sẽ là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi đổi mới công nghệ, đưa vào các sản phẩm mới, nâng cao năng xuất… 2.1.2 Ảnh hưởng của quá trình hội nhập - Ảnh hưởng đến đầu vào: Việc gia nhập vào khối thương mại tự do thế giới WTO và quá trình hội nhập AFTA là điều kiện để các doanh nghiệp nhập khẩu những công nghệ sản xuất mới với giá thành ưu đãi. Mặt khác sau khi gia nhập WTO trong tương lai thì giá của các nguyên liệu đầu vào sẽ giảm xuống giúp các doanh nghiệp sản xuất giảm được chi phí đầu vào, tăng đầu tư, nâng cao lợi nhuận. Năm 2013, thuế của tất cả các mặt hàng nông sản sẽ giảm xuống dưới 5%. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi giảm chi phí sản xuất bởi các nguyên liệu chính để sản xuất thức ăn chăn nuôi của các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam hiện nay như: đậu tương, bột cá, bột thịt… chủ yếu là nhập từ nước ngoài ( Trung Quốc, Argentina, Hoa Kỳ, Ấn Độ..) . - Ảnh hưởng đến đầu ra: Quá trình hội nhập sẽ giúp các doanh nghiệp sản xuất thức ăn gia súc trong nước được tiếp cận với các thị trường lớn với hàng trăm triệu khách hàng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước cũng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các công ty nước ngoài với tiềm lực tài chính và công nghệ hơn hẳn. Có thể nói đây vừa là thách thức vừa là cơ hội đối với ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. 2.1.3 Sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá nông thôn - Ảnh hưởng về tổng cầu: Công nghiệp hoá nông thôn trong những năm qua đã ghi nhận rất nhiều thành tựu. Cơ sở hạ tầng liên tục được nâng cấp, thu nhập của người dân gia tăng đáng kể, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân được cải thiện, dân trí được nâng cao. Từ đó có thể thấy điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi phát triển. Việc thu nhập của người dân nông thôn tăng lên sẽ giúp họ có điều kiện sử dụng đầu tư vào giống vật nuôi và thức ăn chăn nuôi, mặt khác dân trí được nâng lên người dân sẽ hiểu được cần phải từ bỏ phương thức chăn nuôi truyền thống là sử dụng các phế phẩm thừa trong sản xuất và sinh hoạt nông nghiệp, áp dụng phương pháp chăn nuôi bằng sản phẩm thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Như vậy, có thể dự báo sự gia tăng của tổng cầu thức ăn chăn nuôi trong thời gian tới là rất lớn. - Ảnh hưởng tới cơ cấu sản phẩm: Cùng với quá trình công nghiệp hoá nông thôn thì phương thức chăn nuôi trong nông nghiệp cũng dần chuyển sang hình thức chăn nuôi công nghiệp – chăn nuôi theo trang trại lớn, vừa và nhỏ. Từ đó có thể thấy cơ cấu sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi sẽ phải dần chuyển từ sản phẩm thức ăn đậm đặc (thức ăn được cho vật nuôi ăn cùng với các phế phẩm trong sản xuất và sinh hoạt trong nông nghiệp) như hiện nay sang sản phẩm thức ăn chăn nuôi hỗn hợp (cho vật nuôi ăn trực tiếp không cần phụ phẩm). 2.1.4 Một số yếu tố cơ bản khác - Các dịch vụ thú y: Trước đây các dịch vụ thú y như: thuốc thú y, các y bác sỹ chuyên khoa thú y…. là rất hiếm và chủ yếu chỉ tập trung ở các vùng đồng bằng gần các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng (Đồng bằng Sông Hồng), Thành phố Hồ Chí Minh (Đồng bằng Sông Cửu Long). Vì vậy, việc chăm sóc sức khoẻ cho vật nuôi là rất hạn chế đối với các địa phương khác. Trong khi đó các loại gia súc lớn như: Trâu, Bò, Dê… lại chủ yếu được nuôi ở các vùng cao nguyên và trung du miền núi. Tuy nhiên với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong những năm qua dịch vụ thú y ở các tỉnh miền núi trung du phía Bắc và các tỉnh Tây Nguyên, Trung bộ đã phát triển mạnh mẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu chăm sóc cho vật nuôi. Như vậy rủi ro trong chăn nuôi sẽ được giảm đi, từ đó các hộ chăn nuôi sẽ mạnh dạn đầu tư vào chăn nuôi dẫn đến sự phát triển tất yếu của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. - Các yếu tố về thiên tai: Trong một vài năm vừa qua các đại dịch lớn đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến ngành chăn nuôi Việt Nam (lở mồm long móng, cúm gia cầm), điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, thậm chí có những doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ phá sản do không thể tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy để bảo vệ cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi còn non trẻ trong nước- để xứng tầm là đòn bẩy cho chăn nuôi Việt Nam đi lên công nghiệp, thì Đảng và Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi. 2.2.Đôi nét về ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi hiện nay *Tiềm năng cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. - Trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại nhiều hệ thống canh tác đa dạng, cho nên nguồn thức ăn gia súc cũng rất phong phú. Hệ thống canh tác lúa nước và hệ thống canh tác cây trồng cạn là 2 hệ thống chính sản xuất các nguồn thức ăn giàu tinh bột. Với trên 30 triệu tấn thóc từ hệ thống canh tác cây lúa nước, hàng năm đã có gần 4,5 triệu tấn cám và tấm vốn là nguồn thức ăn năng lượng cổ truyền cung cấp cho đàn lợn và gia cầm. Hệ thống canh tác cây trồng cạn trồng các loại hoa màu như ngô, sắn, khoai lang, khoai sọ, kê,...Ngô là loại cây trồng lâu đời hiện có nhiều khả năng về mở rộng diện tích gieo trồng và tăng năng suất. Đầu thế kỷ 20 các nước Đông Dương đã từng xuất khẩu ngô qua Pháp làm thức ăn gia súc, thời gian 10 năm qua diện tích trồng ngô tăng gần gấp 2 lần, hiện đã đạt xấp xỉ 700.000 ha. Việc sử dụng rộng rãi các giống ngô lai, với 6 vùng ngô tập trung, cùng với sắn và khoai lang, chăn nuôi sẽ có cơ sở thức ăn mới khả dĩ tạo được bước ngoặt chuyển từ chăn nuôi tự túc sang chăn nuôi hàng hoá. Hệ thống canh tác cây trồng cạn, không chỉ sản xuất nguồn thức ăn giàu tinh bột mà còn sản xuất đậu đỗ, đậu tương, lạc, vừng, bông. Hạt cây có dầu ngắn ngày là nguồn thức ăn giàu protein đa dạng của chăn nuôi. Hệ thống canh tác cây công nghiệp dài ngày có liên quan đến nguồn thức ăn giàu protein còn có dừa và cao su. Việt Nam hiện đã có 500.000 ha trồng dừa và trên 400.000 ha cao su (Niên giám thống kê, 2000). Trong hệ thống canh tác cây công nghiệp còn phải đề cập đến cây mía. Cây mía đã từng trồng ở Việt Nam từ lâu đời, hiện nay sản xuất mía đường đang được khuyến khích phát triển. Các vùng trồng mía tập trung ở Duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long sẽ là chỗ dựa lớn của chăn nuôi về thức ăn thô xanh và rỉ đường. Hệ thống canh tác vườn ao có năng suất rất cao, tạo ra nguồn rau xanh đủ loại thích hợp với mọi mùa vụ. Việt Nam có 1 triệu km2 lãnh hải, 314.000 ha mặt nước và 56.000 ha đầm hồ. Với tài nguyên mặt nước như vậy, chăn nuôi lại có thêm nguồn thức ăn dạng thực vật thủy sinh trong đó đáng giá nhất là nguồn thức ăn protein động vật. Để vượt qua sự hạn chế về đất, người nông dân Việt Nam cần cù và sáng tạo đã tích luỹ được nhiều kỹ thuật phong phú về tăng vụ, gối vụ, trồng xen. Do kết quả của quá trình lao động và sáng tạo này mà vừa tăng được nguồn lương thực, thực phẩm cho người vừa tạo cho chăn nuôi nhiều nguồn lớn về phụ phẩm làm thức ăn gia súc. Ước tính hàng năm có 25 triệu tấn rơm và gần 10 triệu tấn thân cây ngô già, ngọn mía, dây lang, dây lạc, cây đậu tương.v.v. Với việc mở rộng các nhà máy chế biến hoa quả, sẽ lại có thêm nguồn phụ phẩm lớn làm thức ăn gia súc có giá trị như bã dứa, bã cam chanh... Thiên nhiên Việt Nam thuận lợi cho việc sản xuất thức ăn gia súc, nhưng hình như bao giờ cũng vậy, cùng với thuận lợi đồng thời cũng có những khó khăn phải khắc phục ở công đoạn sau thu hoạch và bảo quản. Khai thác và sử dụng có hiệu quả cao các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ của hệ thống canh tác đa dạng nói trên là nhiệm vụ to lớn của những người làm công tác nghiên cứu cũng như những người làm công tác quản lý. Việt Nam không có những cánh đồng cỏ bát ngát và tương đối bằng phẳng như các nước khác. Cỏ tự nhiên mọc trên các trảng cỏ ở trung du và miền núi, còn ở đồng bằng cỏ mọc ở ven đê, ven bãi các con sông lớn, dọc bờ ruộng, đường đi và trong các ruộng màu. Các trảng cỏ tự nhiên vốn hình thành từ đất rừng do kết quả của quá trình lâu dài khai thác không hợp lý đất đồi núi (thói quen đốt nương làm rẫy). Có tài liệu cho biết, đất có trảng cỏ Việt Nam ước tính 5.026.400 ha. Một đặc điểm lớn trên các trảng cỏ và bãi cỏ tự nhiên là rất hiếm cỏ họ đậu, chỉ có hoà thảo thân bò, tầm thấp chiếm vị trí độc tôn. Lượng dự trữ chất hữu cơ trong đất thấp, các trảng cỏ dốc ở các độ dốc khác nhau, lại bị rửa trôi mạnh nên năng suất cỏ tự nhiên thấp. Qui luật chung là đầu vụ mưa cỏ tự nhiên phát triển mạnh nhưng rồi chóng ra hoa và đến cuối vụ mưa, phát triển chậm và ngừng phát triển trong vụ khô hanh. Trảng cỏ tự nhiên ở trung du miền núi chưa được tận dụng hết vì liên quan đến độ dốc, nguồn nước cho gia súc uống, phân bố dân cư thưa (35 người/km2) trái lại vùng đồng bằng (635 người/km2), cỏ tự nhiên được tận dụng triệt để bằng biện pháp vừa chăn thả vừa thu cắt cho ăn tại chuồng. Do có ưu thế về điều kiện khí hậu mà cỏ trồng có tiềm năng năng suất cao, nhất là đối với cỏ voi và cỏ ghi-nê. Có những hộ chăn nuôi bò sữa trồng cỏ voi thâm canh, một năm thu hoạch 9-10 lứa với tổng lượng sinh khối trên 300 tấn /ha. Do đất canh tác rất hạn hẹp (bình quân diện tích đất trên đầu người Việt Nam đứng thứ 128 trong tổng số gần 200 nước trên thế giới), phụ phẩm làm thức ăn gia súc phong phú, quy mô chăn nuôi còn nhỏ, cho nên diện tích cỏ trồng không đáng kể, chủ yếu phân bố lẻ tẻ ở các vành đai chăn nuôi bò sữa. Đối với nhiều nước nguồn thức ăn phốt pho dễ tiêu thường đắt tiền. Việt Nam có trữ lượng lớn về phân lân. Đã có những đề án xây dựng cơ sở sản xuất phốt phát khử flo làm thức ăn gia súc không những đủ tiêu dùng trong nước mà còn thừa để trao đổi với các nước khác. Có thể nói nước ta có tiềm năng lớn về nguồn phốt phát và nguồn can xi cho gia súc. *Cơ hội và thách thức. Đứng trước ngưỡng cửa hội nhập ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi cũng giống như bao ngành khác đều đứng trước những cơ hội và thách thức cho quá trình phát triển của mình. Khi các hàng rào thuế quan đã được bãi bỏ thì các doanh nghiệp sản xuất thức ăn gia súc trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các công ty sản xuất thức ăn gia súc nước ngoài. Sẽ là rất khó khăn bởi các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm năng rất lớn về vốn, công nghệ và trải qua quá trình phát triển cùng với ngành chăn nuôi đã được công nghiệp hoá lên có rất nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước cũng đồng thời đứng trước cơ hội lớn đó là khi hàng rào thuế bãi bỏ họ sẽ có cơ hội tiếp cận với các thị trường lớn với hàng trăm triệu khách hàng, tiếp cận với nguồn nguyên liệu dồi dào và phong phú giá dẻ (năm 2013 thuế các loại nông sản nhập khẩu giảm xuống dưới 5%).Vấn đề đặt ra là Đảng và Nhà nước phải có những hỗ trợ cần thiết để các doanh nghiệp sản xuất thức ăn gia súc trong nước có bước chuyển mình an toàn . *Thành tựu và hạn chế tồn tại. Từ khi cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi đầu tiên (Công ty liên doanh GUIOMARCH-VCN ra đời năm 1989) đến nay cả nước đã có trên 200 doanh nghiệp sản xuất, hàng năm cung cấp gần một triệu tấn thức ăn chăn nuôi các loại, góp phần rất lớn vào con đường đi lên công nghiệp của ngành chăn nuôi Việt Nam. Giúp bà con nông dân có phương pháp chăn nuôi mới hiệu quả hơn .Hỗ trợ người chăn nuôi các biện pháp khoa học nhằm phòng chống dịch bệnh. Tuy nhiên ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam hiện nay còn một số hạn chế tồn tại rất đáng quan tâm. Trước tiên phải nói đến đó là hành lang pháp lý của Nhà nước về vấn đề chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi còn chưa rõ dàng, và cũng chưa có những biện pháp sử lý rõ dàng néu các doanh nghiệp vi phạm.Ví dụ: “Trường hợp của bà Lê Thị Đẹp ở Cần Thơ mới đây kiện Cty TNHH New Hope là một điển hình sinh động nhất của chuyện "con kiến đi kiện củ khoai" trong thời gian gần đây. Bà Đẹp nuôi đàn gà đẻ từng cho ăn TĂ hỗn hợp- mã số 544 của New Hope. Một ngày, bà cho ăn phát hiện tỷ lệ trứng tăng đột biến, gà đẻ cứ đẻ và... chết cứ chết. Nghi có sử dụng chất kích thích tăng trưởng (bà Đẹp từng học chuyên ngành Thú y- ĐH Cần Thơ), bà mang mẫu TĂ đi giám định. Có cơ sở bà Đẹp kiện New Hope ra toà. Chúng tôi chưa bình luận sâu vào vấn đề này. ở đây chỉ xin nhấn mạnh rằng, qua 2 phiên xử bà Đẹp đều thua kiện. Trong phiên xử phúc thẩm, nhân chứng đến toà là chị P, (cán bộ của Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm TPHCM). Chị P. đã đưa ra một chứng cứ rất quan trọng như sau: Đó là biên bản kiểm tra chất lượng hàng hoá, biên bản lấy mẫu TĂ hỗn hợp gà đẻ kí hiệu 544 ở Cty New Hope (có đại diện của Sở NN-PTNT Cần Thơ, đại diện Cục Nông nghiệp) và kết quả của Trung tâm khẳng định kết quả phân tích Clebuterol là 238 ng/kg (bioparrm: pp cho thịt LOD= 4 ng/kg). Thế nhưng, dù nhân chứng trình bày một số chi tiết rất "đắt giá" nhưng những người đang đại diện cho cán cân công lí đã không đề cập đến chi tiết này trong xét xử. Đây cũng là lí do bà Đẹp đang tiếp tục đeo đuổi vụ kiện... Nếu có khung pháp lý rõ nét hơn, các địa phương không quyết liệt hơn nữa thì chắc chắn người chăn nuôi sẽ còn gặp đại hoạ. Theo anh H- (công tác tại Sở NN-PTNT Đồng Nai) vấn đề quản lý của ta còn nhiều cái lấn cấn. Nghị định 15 Chính phủ ra đời năm 1996 thì giám đốc Sở có thể ra quyết định đình chỉ sản xuất DN làm ăn sai quy định so với chất lượng đã công bố. Thế nhưng, Pháp lệnh xử lý hành chính ra đời năm 2002 thì Chánh thanh tra chuyên ngành là người quyết định. Nói vậy, nhưng các Sở NN-PTNT có thahh tra chuyên ngành vẫn còn là ước mơ! Anh H. bộc lộ rằng, anh biết các Sở NN-PTNT hằng năm hoặc trực tiếp hoặc phối hợp để kiểm soát một số cơ Sở sản xuất tại địa phương kiểm tra chất lượng hàng hoá có đúng với tiêu chuẩn công bố. Còn các DN nước ngoài là do Cục Nông nghiệp thanh, kiểm tra. Thế nhưng, khả năng phân tích hóc môn, kháng sinh cấm sử dụng Clebuterol, Chloramphenicol, Carbuterol... hiện nay ở phía Nam chỉ có Viện KHKTNN miền Nam và Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm (trực thuộc Sở KH-CN TPHCM) là đủ năng lực”.(trích báo nông nghiệp số 259 ra ngày 29/12/2005) Chính điều này đã làm ảnh hưởng đến uy tín của các hãng sản xuất thức ăn chăn nuôi làm ăn chân chính, khiến cho người chăn nuôi quay trở lại phương thức chăn nuôi cổ truyền, làm chậm quá trình phát triển . Mặt khác một số bệnh dịch trong thời gian gần đây đã làm cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm(lở mồm nong móng, cúm gia cầm), và đứng trước nguy cơ phá sản thế nhưng các ban ngành chức năng không những không có biện pháp trợ giúp thậm chí có địa phương còn có lệnh cấm chăn nuôi. Ví dụ:Thành phố HCM cấm chăn nuôi gia cầm đến năm 2007. II.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY TNHH TM VIC 1.Thực trạng về quá trình sản xuất kinh doanh năm 2001-2005 Như chúng ta đã biết thu nhập của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là thu nhập từ hoạt động kinh doanh, nó đảm bảo trang trải các chi phí, thực hiện tái sản xuất và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Doanh thu bán hàng là nguồn thu chủ yếu trong thu nhập hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng, sản phẩm được coi là kết thúc quá trình tiêu thụ, vì vậy qua số lượng sản phẩm tiêu thụ này có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu bán hàng. Bảng 1: Tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh (2001 - 2005) Chỉ tiêu Năm Tổng doanh thu Tài sản cố định và lưu động Thuế thu nhập doanh nghiêp Lợi nhuận sau thuế 2001 27.065.326.265 4.583.215.640 272.386.773 700.423.132 2002 138.213.448.281 18.892.097.753 764.765.386 1.966.539.564 2003 310.594.383.754 29.112.320.987 1.024.042.269 2.633.251.548 2004 375.484.410.573 98.456.321.338 562.719.236 1.446.992.321 2005 505.112.458.951 161.208.359.448 1.249.323.290 3.212.545.603 Nguồn: Phòng kế toán công ty TNHH TM VIC Qua bảng số 1 ta thấy sản lượng tiêu thụ của công ty năm 2005 đã tăng lên 18,66 lần so với năm 2001 tương đương 119.500 tấn (quy hỗn hợp) điều đó chứng tỏ sản phẩm của công ty trên thị trường được người chăn nuôi rất ưa chuộng cả về chất lượng sản phẩm cũng như các dịch vụ của công ty về chăm sóc khách hàng sau bán hàng. - Giá thành đơn vị sản phẩm: Do có nhiều biến động về thị trường giá cả của nguyên liệu trong và ngoài nước đặc biệt là giá nhập khẩu nguyên liệu khô đậu nguyên liệu chính trong sản xuất thức ăn gia súc, điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm của công ty, cụ thể 09 tháng đầu năm 2005 tăng 17,85% tương đương 1.038đ/đv SP so với 09 tháng đầu năm 2004.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxGiải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ thức ăn chăn nuôi của Công ty TNHH VIC giai đoạn 2006 - 2010.docx
Tài liệu liên quan