Chuyên đề Một số biện pháp nhằm phát triển mở rộng thị trường Công ty may Sơn Chinh

Hiện nay ở nước ta có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc, có rất nhiều doanh nghiệp thuộc sự quản lý của Sở công nghiệp ngày càng lớn mạnh thị trường trong nước đã cạnh tranh gay gắt thị trường thế giới lại càng gay gắt hơn. Muốn cạnh tranh được các doanh nghiệp đòi hỏi phải có vốn lớn, vốn đang là nhu cầu cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp muốn tồn tại và vươn lên chiếm lĩnh thị trường thì phải có biện pháp huy động vốn phù hợp. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và sự chuẩn bị cho ra đời thị trường chứng khoán đang là những cơ hội hay thách thức cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cho Công ty may 19/5 nói riêng.

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nhằm phát triển mở rộng thị trường Công ty may Sơn Chinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thêm phần thị trường mới bằng các phương hướng khác nhau. Hình 1 : Phương hưóng mở rộng thị trường Thị trường sản phẩm liên quan trong sản xuất Thị trường sản phẩm mới Thị trường sản phẩm có thể thay thế Thị trường sản phẩm chuyên môn hoá cải tiến Thị trường sản phẩm liên quan trong sản xuất Thị trường sản phẩm chuyên môn hoá a. Củng cố thị trường hiện có và mở rộng thị trường này bằng cách cải tiến và hoàn thiện các sản phẩm đang chế tạo cho phù hợp hơn với yêu cầu của thị trường. b. Mở rộng sang thị trường các sản phẩm liên quan đến các nguồn lực sản xuất hiện có. Với tư cách này, công ty vừa mở rộng, vừa tiết kiệm đầu tư, bảo đảm hiệu quả cao trong kinh doanh. c. Mở rộng sang thị trường các sản phẩm liên quan đến sản phẩm chuyên môn hoá về mặt tiêu dùng, đáp ứng đồng bộ yêu cầu của người tiêu dùngvà một loại nhu cầu. d. Mở rộng sang thị trường các sản phẩm thay thế sản phẩm chuyên môn hoá ban đầu, đáp ứng đa dạng của các đối tượng khá nhau, cản trở đối thủ cạnh tranh thâm nhập thị trường. e. Mở rộng lĩnh vực sản phẩm/ thị trường mới. Như vậy phương hướng mở rộng thị trường của Công ty gắn bó trực tiếp với việc mở rộng danh mục sản phẩm vì quy mô sản xuất. Ngược lại mở rộng danh mục sản phẩm và quy mô sản xuất của doanh nghiệp phải tiến hành trên cơ sở điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. 3. Biện pháp mở rộng thị trường. 3.1. Nghiên cứu nhu cầu thị trường. Trong cơ chế thị trường, thị trường tạo nên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có khả năng thích ứng cao với sự đa dạng và động thái của thị trường, doanh nghiệp đó mới có điều kiện tồn tại và phát triển. Mặt khác, trên thị trường còn có nhiều doanh nghiệp khác cùng hoạt động, doanh nghiệp nào cũng đặt yêu cầu mở rộng phần thị trường của mình. Bởi vậy, để đảm bảo khả năng thắng lợi trong cạnh tranh, để tránh những rủi ro bất trắc trong kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải hiểu biết cặn kẽ thị trường và khách hàng trên thị trường ấy. Nghĩa là doanh nghiệp phải làm tốt công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là quá trình phân tích thị trường về mặt lượng và mặt chất. Nói một cách cụ thể hơn, nghiên cứu thị trường là nghiên cứu các thông tin. - thị trường cần gì ? - Số lượng cần bao nhiều ? - Chất lượng có thể chấp nhận ? - Thời gian cần ? - Giá cả có thể chấp nhận ? .... - Những người có khả năng cung ứng và thế lực của họ ? .... Đó là những thông tin cực kỳ cần thiết để đưa ra các quyết định sản xuất và quyết định thương mại : - Xác định cơ cấu sản phẩm doanh nghiệp sẽ sản xuất - kinh doanh trong mỗi thời kỳ. - Tổ chức các hoạt động mua các yếu tố nhằm đảm bảo yêu cầu của sản xuất và tiêu thụ. - Tổ chức công tác bán hàng ... Như vậy, mục tiêu của nghiên cứu thị trường là xác định khả năng tiêu thụ các sản phẩm của doanh nghiệp, các sản phẩm này bao gồm các sản phẩm doanh nghiệp đang sản xuất (đã có trong cơ cấu sản phẩm) và do vậy, có ý định thâm nhập thị trường ở phạm vi rộng lớn hơn, việc nghiên cứu thị trường chính là việc nghiên cứu các cơ hội kinh doanh để đưa ra các quyết định kinh doanh hợp lý. Tuỳ thuộc vào kết quả nghiên cứu, quyết định kinh doanh có thể là : - Giữ vững ở mức độ duy trì lượng sản xuất và bán hàng. - Giữ vững ở mức độ tăng cường lượng sản xuất và bán hàng. - Thâm nhập lĩnh vực sản phẩm thị trường mới. - Rời bỏ lĩnh vực sản phẩm thị trường hiện tại. Những quyết định cực kỳ quan trọng này chỉ có thể đảm bảo tính chính xác khi nghiên cứu thị trường được tiến hành chu đáo. Khi nghiên cứu nhu cầu thị trường về sản phẩm mà doanh nghiệp cần cung ứng là phải nắm được sự lựa chọn của khách hàng và người tiêu dùng về : - Sản phẩm vói những đặc tính chủ yếu của nó. - Quy cách , phẩm chất của sản phẩm. - Giá cả sản phẩm. - Thời gian đáp ứng. - Quy mô nhu câu (hay dung lượng thị trường ) về loại sản phẩm đó. Trong thực tiễn kinh doanh, người ta thường áp dụng các phương pháp Marketing để điều tra nhu cầu, chủ yếu là : điều tra tại chỗ, điều tra tại hiện trường và phương pháp bán hàng hoá. Việc ứng dụng các phương pháp này được thực hiện thông qua các hình thức điều tra khác nhau như : dùng phiếu điều tra trực tiếp phỏng vấn, chào hàng, quảng cáo, tham gia hội trợ triển lãm, mở cửa hàng bán giới thiệu sản phẩm, quà tặng, quà biếu ... Trên cơ sở điều tra, để có căn cứ lập chương trình bán hàng, cần xác định cụ thể nhu cầu thị trường bằng cách sử dụng các phương pháp sau : (1). Trong trường hợp đã có đơn đặt hàng hay hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, việc xác định nhu cầu thị trường tương đối đơn giản thông thường người ta tổng hợp nhu cầu của khách hàng theo các mức giá, theo chất lượng, theo thời gian và qui đổi chúng thành chỉ tiêu giá trị, Biểu tổng hợp nhu cầu thị trường có dạng tổng quát sau Giá bán đơn vị (Hoặc chất lượng thời gian) Khách hàng 1 Khách hàng 2 Khách hàng 3 Nhu cầu thị trường ......... ......... ......... ......... ......... ......... (2). Trong truờng hợp biết được dung lượng thị trường và phần thị trường tương đối (với các sản phẩm doanh nghiệp đã sản xuất và cung ứng), có thể tính : Nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh = nghiệp Dung lượng thị trường x Phần thị trường tương đối về sản phẩm đó của doanh nghiệp (3). Trường hợp biết được dung lượng thị trường, nhưng chưa biết được phần thị trường tương đối (với những sản phẩm mới thâm nhập thị trường), có thể tính : Nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh = nghiệp Dung lượng thị trường - Phần thị trường mà các doanh nghiệp trong ngành có khả năng cung ứng (4). Với những sản phẩm có liên quan với nhau trong tiêu dùng có thể dựa vào hệ số liên quan để tính nhu cầu thị trường. (5). Với những sản phẩm thoả mãn nhu cầu thiết yếu ít có sự biến động lớn về cầu, có thể dựa vào tình hình bán hàng qua các năm và tình hình bán hàng hiện tại để xác định nhu càu. (6). Với những sản phẩm mà đối tượng tiêu dùng đã được chỉ định (trang phục, đồng phục ...) có thể dựa vào qui mô biên chế và định mức cho phép để xác định lượng cầu. (7). Trong nhiều trường hợp và nhất là khi xác định những nhu cầu dài hạn, người ta cần áp dụng các phương pháp dự báo nhu cầu, chủ yếu là : phương pháp thống kê, phương pháp chuyên gia và phương pháp ngoại suy Việc tập hợp nhu cầu thị trường cần theo từng sản phẩm, từng khách hàng và toàn bộ các khách hàng đối với các loại sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quá trình đó cần chú ý đến sản phẩm, chất lượng, giá cả, sản lượng và cơ cấu sản phẩm, thời gian). Cần sử dụng cả đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị cho quá trình tập hợp này. 3.2. Tổ chức các hoạt động trong công tác tiêu thụ. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường sản xuất tốt chưa đủ để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình, mà còn phải biết tổ chức tốt công tác bán hàng. Một trong những nội dung tổ chức bán hành là tổ chức mạng lưới bán hàng. Mạng lưới bán hàng của doanh nghiệp là tập hợp các kênh nối liền giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Mạng lưới bán hàngcủa doanh nghiệp được cấu thành bởi các yếu tố sau. a. Người sản xuất, được coi là người bán thứ nhất, họ bán cái chính họ sản xuất ra. Điểm xuất phát của quá trình vận động của hàng hoá là từ nơi sản xuất , từ chính nơi mà nó được tạo ra. b. Người tiêu dùng là người sử dụng sản phẩm mua được vào việc thoả mãn các nhu cầu của họ. c. Người bán buôn : Thực hiện hoạt động thương mại thuần tuý (mua để bán). Đặc trưng cơ bản trong hoạt động của yếu tố này là mua bán với khối lượng lớn một loại hàng hoá nào đó. Người bán buôn thường có thế lực kinh tế lớn, có trường hợp họ khống chế thị trường lớn và có khả năng chi phối cả người sản xuất và người bán lẻ. d. Người bán lẻ cũng thực hiện hoạt động thương mại thuần tuý nhưng có thế lực yếu hơn người bán buôn, khó có khả năng chi phối người sản xuất và người bán buôn. Họ là người tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng, cho nên có thể nắm sát các thông tin của thị trường. e. Người đại lý : Một loại hình kinh doanh làm chức năng trung gian trong quá trình vận động hàng hoá. Đối với công tác bán hàng của doanh nghiệp cần quan tâm đến đại lý tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp chứ không phải đại lý cho người bán buôn hay đạ lý cho người bán lẻ. Về danh nghĩa, đó là một bộ phận hoàn toàn độc lập ; trên thực tế, có thể coi đó là bộ phận bên trọng doanh nghiệp làm chức năng tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, để thúc đẩy quá trình bán hàng, doanh nghiệp tiến hành một loạt các hoạt động hỗ trợ như : Thông tin quảng cáo, tham gia hội trợ triển lãm, tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế. * Công tác quảng cáo : Tuỳ thuộc vào sản phẩm, đối tượng tiêu dùng sản phẩm và khả năng tài chính, doanh nghiệp lựa chọn các phương tiện và phương thức quảng cáo thích hợp. Các phương tiện quảng cáo phổ biến là : báo chí, tivi, ra điô, áp phích panô... các phương thức thường dùng trong thực tiễn rất đa dạng : quảng cáo liên tục ; quảng cáo định kỳ ; quảng cáo đột xuất ; quảng cáo bằng chiến dịch, quảng cáo bằng tặng quà lưu niệm hoặc bảo trợ các hoạt động văn hoá thể thao .. Nội dung của quảng cáo có thể tóm tắt dưới bảng sau : Bảng chương trình quảng cáo. Tên sản phẩm Mục tiêu Người nhận thông tin Nội dung quảng cáo Phương tiện Phương thức Thời gian Kinh phí ..... * Tham gia hội trợ triển lãm : nhằm 3 mục đích chính là trưng bày, khuyếch trương sản phẩm và bán hàng. Khi tham gia hội chợ triển lãm doanh nghiệp phải lựa chọn những sản phẩm tiêu biểu nhất là về chất lượng, mẫu mã có khả năng cạnh tranh cao. Tham gia hội chợ triển lãm cũng là một hiện đại tích cực cho công tác bán hàng của doanh nghiệp. * Tổ chức hội nghị khách hàng. Để hội nghị khách hàng đạt hiệu quả cao, hội nghị phải có các mựt hàng lớn và những bạn hàng quan trọng. Trong hội nghị cần tạo ra được bầu không khí thân mật, cởi mở để khách hàng có thể tham gia đóng góp ý kiến đối với sản phẩm của doanh nghiệp, tổ chức bán hàng đã hợp lý chưa? Trong hội nghị, doanh nghiệp cũng cần công bố cho khách hàng biết những dự án, chính sách, biện pháp tiêu thụ sản phẩm của mình. Hội nghị khách hàng nên được tổ chức hàng năm, ngoài ra còn có thể tổ chắc các cuộc hội thảo nhằm giải quyết những vấn đề khó khăn liên quan trực tiếp tới tiêu thụ sản phẩm . * Các hiện đại liên kết trong tiêu thụ sản phẩm thể hiện sự phối hợp giữa các chủ thể trong việc chi phối thị trường, chống hàng giả. Đó cũng là hoạt động hỗ trợ bán tích cực trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường, liên kết trong tiêu thụ không phải là điều mới mẻ trong kinh tế đương đại. ngay từ xưa ta có câu “buôn có bạn, bán có phường”. Việt Nam đã ra nhập ASEAN và chuẩn bị hội nhập AFTA và chuẩn bị hội nhập AFTA trong tương lai. Đâu mới thực sự là cơ hội và thách thức lớn nhất cho tất cả các Công ty Việt Nam trong lịch sử phát triển kinh tế của mình. Vì sự hội nhập này sẽ tạo ra một thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn, một cơ hội tốt cho tất cả các Công ty vươn lên, phát triển mở rộng thị trường của mình. Nhưng Việt Nam cũng rất có thể trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm của các Công ty nước ngoài nếu như mình không đủ sức cạnh tranh với họ. Tuy nhiên, Công ty may 19/5 hoàn toàn có thể khai thác cơ hội, vận hội mới này. Nếu biết cách kết hợp sức mạnh của mình, sức mạnh của công nghệ với nguồn nhân lực, và uy tín của Công ty trên thị trường. b. Những nguy cơ của Công ty Hiện nay ở nước ta có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh hàng may mặc, có rất nhiều doanh nghiệp thuộc sự quản lý của Sở công nghiệp ngày càng lớn mạnh thị trường trong nước đã cạnh tranh gay gắt thị trường thế giới lại càng gay gắt hơn. Muốn cạnh tranh được các doanh nghiệp đòi hỏi phải có vốn lớn, vốn đang là nhu cầu cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp muốn tồn tại và vươn lên chiếm lĩnh thị trường thì phải có biện pháp huy động vốn phù hợp. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và sự chuẩn bị cho ra đời thị trường chứng khoán đang là những cơ hội hay thách thức cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cho Công ty may 19/5 nói riêng. Sự không ổn định của thị trường tài chính đang là nguy cơ cho tất cả các Công ty sự khủng hoảng tài chính của vực Đông á là bài học kinh nghiệm. Nếu thị trường tài chính hoạt động không tốt có thể dẫn tới khủng hoảng làm cho nền kinh tế suy thoái và các nhân dân phá sản. Đây thực sự là một đe doạ lớn lao mà khách quan đêm lại Công ty có thể dự đoán trước được. Việt Nam đang có sự chuẩn bị cho sự ra đời của thị trường chứng khoán thị trường này ra đời sẽ làm cho nền kinh tế hoạt động sôi nổi hơn, đòi hỏi thị trường tài chính hoạt động tốt hơn, vững mạnh hơn. thị trường hàng hoá sẽ phát triển hơn, các Công ty có thể huy động được nhiều nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Những mặt trái của nó là sự khủng hoảng và suy thoái nếu như không có các biện pháp kiểm soát và điều khiển tốt của chính phủ. V. Đánh giá những thành tựu và khó khăn của công ty may 19/5. 1. Những thành tựu của Công ty. Công ty đá giữ vững và luôn phát huy là đơn vị hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là các mặt hàng sản xuất cung cấp cho ngành công an được đánh giá cao về chất lượng, các mặt hàng may gia công xuất khẩu cũng được khách hàng tín nhiệm. Doanh thu của Công ty hàng năm không ngừng tăng lên, doanh thu của năm 2001 tăng 68,3 %. So với năm 1998. Đạt doanh số 88.000.000.000 đồng, các sản phẩm may gia công xuất khẩu cũng ngày càng tăng thường chiếm từ 25 - 30% doanh thu hàng năm. Công ty không những hoàn thành tốt kế hoạch của Bộ nội vụ giao cho, thực hiện đúng và đầy đủ các hợp đồng, tạo ra mối quan hệ tốt với khách hàng cũng như giữ chữ tín với khách hàng, mà còn hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đối với Ngân sách Nhà nước, tổng thuế nộp ngân sách Nhà nước năm 2001 đạt gần 5 tỷ đồng. Các phòng ban của Công ty luôn xây dựng được các kế hoạch thiết thực, bám sát được tình hình sản xuất của các xí nghiệp, bám sát thị trường ... luôn duy trì sản xuất các mặt hàng ở vị trí then chốt, ổn định thị trường trong và ngoài nước cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Các xí nghiệp, các phân xưởng luôn thực hiện tốt các kế hoạch chỉ tiêu mà Công ty giao cho hàng năm Công ty đều tổ chức các đợt thi đua khen thưởng cho các công nhân viên của mình đã có rất nhiều cán bộ, nhiều công nhân được Bộ nội vụ và được Công ty tặng bằng khen. Đây là những phần thưởng đáng khích lệ cho Công ty. Môi trường văn hoá của Công ty cũng rất tốt. Các phòng ban, các nhân viên đến tạo ra được một mối quan hệ thân thiết. Quan hệ giữa lãnh đạo Công ty và nhân viên, giữa nhân viên với nhau ngoài quan hệ công việc còn có mối quan hệ bằng hữu thân mật, giúp đỡ nhau. Bên cạnh đó Công ty là một đơn vị kinh doanh làm ăn có lãi, lợi nhuận năm 2001 đạt 3,5 tỷ động, phần lợi nhuận này hàng năm được tải trích lập mở rộng quy mô sản xuất. Đạt được kết quả trên là nhờ có sự lãnh đạo của bộ, các vụ chức năng, có sự hỗ trợ của tất cả bạn hàng trong và ngoài nước, sự nỗ lực cán bộ công nhân viên trong Công ty. 2. Những tồn tại và nguyên nhân. Cho đến nay các mặt hàng của Công ty sản xuất ra chủ yếu là thông qua các hợp đồng Công ty không sản xuất đại trà gửi bán các sản phẩm của mình thông qua các đại lý. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu vẫn là gia công thuê cho các đối tác nước ngoài. Việc xuất khẩu tư doanh hàng may vẫn chưa đạt được tổ chức thực hiện. Mặc dù rằng thị trường là vấn đề sống còn của tất cả các doanh nghiệp, nhưng Công ty vẫn chưa xây dựng được một chiến lược chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước. Công ty chỉ dừng lại ở việc xuất khẩu những mặt hàng thông thường chưa xuất khẩu được những mặt hàng có chất lượng cao, những mặt hàng thời trang, mốt và những mặt hàng tự thiết kế theo mẫu riêng. Đối với thị trường trong nước các sản phẩm đặc thù mới chỉ cung cấp cho ngành công an. Công ty chưa tổ chức sản xuất ra các mặt hàng có những nét tương đồng với các sản phẩm đặc thù cung cấp ra thị trường chẳng hạn như : các bộ đồng phục cho các cơ quan, khách sạn, nhà trường ... Mà nhu cầu của thị trường về những mặt hàng là rất lớn. Sở dĩ còn có những khó khăn và yếu kém đó là do những nguyên nhân sau : + Nguyên nhân đầu tiên và quan trọng nhất ở đây là hệ thống Marketing của Công ty hoạt động rất kém hiệu qủa, kể cả Marketing đầu vào lẫn Marketing đầu ra. Hoạt động Marketing vẫn chưa đi sát vào thực tế, chưa đúng với chức năng vốn có của nó các hoạt động quảng cáo hỗ trợ bán chưa phát huy được tính năng và tác dụng và gần như vẫn chưa được tổ chức khoa học. Mới chỉ quảng cáo bằng cách in lịch, triển lãm tại các hội trợ, hoặc giới thiệu sản phẩm ở các quầy hàng thì thực sự chưa đủ. Trong thời gian ngày nay do sự bùng nổ của khoa học thông tin, sự đa dạng hoá của sản xuất điều này đã làm cho người tiêu dùng rất khó khăn trong việc đưa ra các quyết định lựa chọn sản phẩm tiêu dùng. Cho dù là sản phẩm đạt chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá rẻ mà khâu tiêu thụ không hoạt độn tốt, không có các dịch vụ hỗ trợ bán, không tổ chức được mạng lưới tiêu thụ đồng bộ khoa học, không quảng cáo giới thiệu được tính năng của sản phẩm thì sản phẩm sẽ không bán được và doanh nghiệp đi đến phá sản là điều tất yếu. + Vấn đề cạnh tranh các sản phẩm trên thị trường. Với cơ chế thị trường và chính sách mở cửa các thành phần kinh tế được phép sản xuất ra các sản phẩm các mặt hàng mà nhu cầu thị trường cần. Cơ chế thị trường là một cơ chế cạnh tranh có đào thải mà phần thắng sẽ thuộc về kẻ mạnh. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp đều có xu hướng đa dạng hoá sản phẩm, mặt hàng kinh doanh của mình, tìm mọi cách nâng cao chất lượng, giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt và giành giật thị trường. Thị trường của Công ty may 19/5 được chia thành hai phần đối với phần thị trường công an thì Công ty độc quyền cung cấp nên sẽ không phải cạnh tranh, những quy định về sản phẩm thì rất khắt khe. Đối với thị trường ngoài ngành thì Công ty gặp phải rất nhiều đối thủ Công ty có uy thế trên thị trường. Quy luật Công ty là : không thể thiếu được trong cơ chế thị trường song tình trạng sản xuất thì ít người mua hàng hoặc gia công trong nước là quá nhiều. Do vậy dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hỗn loạn trên thị trường và gây đội giá đầu vào. Tình trạng này đã tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài ép giá đối với ta hoặc đưa ra những điều khoản trong hợp đồng hết sức bất lợi cho ta ... + Trang thiết bị ngành may mặc Việt Nam nói chung và của Công ty may 19/5 Bộ nội vụ nói riêng còn rất lạc hậu, không đủ khả năng để sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ở trình độ cao, hệ số hao mòn vô hình thấp, lạc hậu rất nhiều so với thế giới, hệ số hao mòn hữu hình lại cao (50%) gấp 3 lần so với mức trung bình của thế giới. Trong khi tốc độ phát triển của ngành may mặc ở khu vực Châu á là rất cao như ở Thái Lan, Hàn Quốc, chúng ta sẽ phải chịu sự Công ty gay gắt từ các nước đó. Với chất lượng đôi khi còn khó bảo đảm về yêu cầu kỹ thuật do thiếu máy móc chuyên dùng sẽ hạn chế rất lớn khả năng Công ty của ta trên thị trường thế giứoi ở Công ty hiện nay chủ yếu vẫn là lao động thủ công, năng suất lao động thấp. Mặc dù, Công ty đã trang bị một số máy móc dây truyền sản xuất của đức, Nhật nhưng hệ thống máy móc chưa đồng bộ, thiếu các thiết bị chuyên dùng, hoặc là có nhưng còn lạc hậu so với tình hình sản xuất chung nên chất lượng sản phẩm còn nhiều hạn chế, năng suất lao động chưa cao. + Tuy trình độ tay nghề của công nhân tương đối cao, cần cù và sáng tạo, song phần lớn cũng không được đào tạo chính quy, có hệ thống. Tình trạng thiếu chuyên viên kỹ thuật có tay nghề cao, thiếu cán bộ quản lý giỏi cho nên còn ảnh hưởng đến việc thực hiện những hợp đồng lớn yêu cầu sản phẩm cấp cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu mặc dù có được đào tạo chuyên môn về nghiệp vụ nhưng trình độ ngoại ngữ còn có giới hạn và chưa thực sự hiểu biết sâu về ngành hàng may mặc nên công tác tiếp thị còn nhiều yếu kém. + Nguồn nguyên liệu trong nước chưa phát triển, rất nhều loại nguyên vật liệu Công ty phải nhập từ nước ngoài làm cho chi phí cao, giá thành cao rất khó Công ty, hơn thế nữa lại bị động phụ thuộc vào nước ngoài, nhất là với mặt hàng may mặc có giá thành chủ yếu do nguyên vật liệu tạo nên. Do ngành dệt của nước ta chưa phát triển, việc sản xuất những loại vải có chất lượng phù hợp với sản xuất các mặt hàng cao cấp là chưa có. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến các mặt hàng sản xuất kinh doanh của Công ty. Đối với hoạt động xuất khẩu của các mặt hàng có chất lượng cao ra nước ngoài thì lại phụ thuộc vào phía nước ngoài có thuê gia công hay không ? Khả năng cạnh tranh sẽ yếu và xâm nhập mở rộng thị trường bị hạn chế rất nhiều. + Khó khăn về vốn : cũng như các đơn vị kinh doanh khác Công ty gặp rất nhiều khó khăn về vốn do hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển, nền kinh tế quốc dân do mới chuyển đổi kinh tế nên vẫn còn chưa ổn định, chưa đi vào hoạt động theo các quỹ đạo của các quy luật kinh tế. Đặc biệt có những yếu tố khủng hoảng của thị trường tài chính, tỷ lệ lạm phát giá cả hàng hoá, tỷ giá hối đoái ... luôn tăng ở mức cao, do vậy việc huy động các nguồn vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp rất nhiều khó khăn. Việc bảo toàn và phát triển các nguồn vốn cũng gặp phải khó khăn. Mặt khác, Công ty hoạt động trong điều kiện Nhà nước không còn bao cấp vốn, vốn dùng trong kinh doanh chủ yếu vốn là đi vay ngân hàng nên ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của Công ty về khả năng thanh toán cũng như lợi nhuận thực tế thu được. Chương II Những biện pháp chủ yếu nhằm khai thác mở rộng thị trường công ty may 19/5 bộ nội vụ Trong điều kiện phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu của xã hội ngày càng tăng khi đời sống nhân dân được nâng cao. Nhu cầu về hàng may mặc ở nước ta và trên thế giới ngày càng gia tăng. Để thực hiện được mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam đến 2010 và xây dựng triển khai thực hiện theo những hướng sau : - Tham gia một cách tích cực với vai trò là động lực và nòng cốt sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển sản xuất với nhịp độ cao, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của xã hội. - Chuyển mạnh từ một nền công nghiệp gia công sang nền công nghiệp sản xuất. Nâng dần tỷ trọng xuất khẩu FOB trong tổng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm dệt may, da giầy, phấn đấu đầu năm 2002 đạt 70%. - Phát triển ngành công nghiệp toàn diện, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá trong bản thân ngành công nghiệp theo hướng đi thẳng vào hiện đại, hạn chế nhập khẩu những thiết bị đã qua sử dụng nhưng công nghệ tiên tiến chấm dứt nhập khẩu công nghệ lạc hậu mặc dù thiết bị mới. - Đẩy mạnh, đa dạng hoá mặt hàng về mở rộng thị trường tăng nhanh tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến, hạn chế và tiến tới không xuất khẩu nguyên liệu thô, kế các loại nguyên liệu ta có dự trữ lớn. - Bộ công nghiệp đã xây dựng kế hoạch phát triển ngành dệt may đến năm 2002 đạt kim ngạch xuất khẩu 2,5 tỷ USD và năm 2010 đạt 5 tỷ USD. Đó là chỉ thị quan trọng mà ngành may đang giành nỗ lực thực hiện để tới năm 2002 có thể xuất khẩu hàng tỷ USD sản phẩm may, đồng thời đáp ứng 60-70% nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đứng trước tình hình đó, Công ty may 19/5 không còn cách nào khác là tiếp tục chiến lược đa dạng hoá kinh doanh của mình, đối với hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm ngày một đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn của thị trường hàng dệt may trong tương lai. Muốn thực hiện được điều đó, Công ty cần áp dụng một số biện pháp hữu hiệu sau đây nhằm khai thác tốt và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình. 1. Tăng cường và hoàn thiện các biện pháp nghiên cứu nhu cầu thị trường. Trong những năm công tác nghiên cứu thị trường của Công ty mặc dù đã thu được một số thành công nhất định, song xét trên bình diện chung nhất thì công tác này vãn chưa đạt được hiệu quả cao. Hệ thống Marketing của Công ty hoạt động còn rất yếu kém. Để có thể mở rộng và khai thác phát triển thị trường thì Công ty phải khắc phục nhược điểm này của mình. Công tác nghiên cứu thị trường của Công ty mới chỉ dừng lại ở chỗ dựa trên các mối quan hệ bạn hàng, uy tín cũng như danh tiếng của Công ty, vẫn chưa thành lập được một tổ chuyên nghiên cứu nhu cầu thị trường. Các biện pháp áp dụng chủ yếu là dựa vào số liệu thống kê, tình hình thực tế đã tiêu thụ của năm trước so với tốc độ tăng tiêu dùng bình quân hàng năm để xây dựng kinh doanh sản xuất với biện pháp này sẽ không khai thác được thế mạnh của Công ty, không khai thác hết được nhu cầu của thị trường. Nói chung các phương pháp, biện pháp mang tính chất truyền thống vẫn phát huy hiệu quả trong thời điểm hiện tại. Song trong tương lai Công ty phai xác định mình đang đứng trước vận hội mới nhưng đầy thách thức, nhu cầu về hàng dệt may sẽ tăng mạnh kéo theo sự đa dạng về chủng loại, phức tạp về cơ cấu, to lớn về quy mô. Điều này buộc Công ty phải bổ sung nhiều phương pháp mới như : điều tra nhu cầu thực tế, phương pháp chuyên gia, phương pháp ngoại suy, phương pháp kinh tế ... đồng thời ngày

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10285.DOC
Tài liệu liên quan