Chuyên đề Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I: Một số vấn đề chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư 2

I. Đầu tư và dự án đầu tư 2

1. Đầu tư 2

2. Dự án đầu tư 4

II. Thẩm định dự án đầu tư 12

1. Khái niệm 12

2. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư 12

3. Mục đích của thẩm định dự án đầu tư 13

4. Ý nghĩa của thẩm định dự án đầu tư 13

5. Nội dung thẩm định dự án đầu tư 14

6. Phương pháp thẩm định dự án đầu tư 40

7. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định 41

Chương II: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam 45

I. Giới thiệu chung về Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 45

1. Quá trình hình thành và phát triển 45

2. Cơ cấu tổ chức 49

3. Tình hình hoạt động của Sở giao dịch trong những năm gần đây 50

II. Công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 56

1. Quy trình và nội dung thẩm định 56

2. Đặc điểm hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 61

3. Đánh giá tình hình đầu tư vào dự án 63

4. Thẩm định dự án đầu tư: "Đầu tư dây chuyền sản xuất vải DENIM" 65

III. Đánh giá về hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 76

1. Những ưu điểm đã đạt được 76

2. Những tồn tại 79

3. Nguyên nhân của các tồn tại 81

Chương III: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 84

I. Phương hướng phát triển của Sở giao dịch từ nay đến năm 2005 84

1. Mục tiêu 84

2. Giải pháp và tổ chức thực hiện 85

II. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I 87

1. Chuyên môn hoá công tác thẩm định 87

2. Tăng cường đầu tư hiện đại hoá các phương tiện, trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định 88

3. Về nội dung và phương pháp thẩm định 89

4. Những giải pháp hỗ trợ cho công tác thẩm định 90

5. Giải pháp về con người 91

III. Một số kiến nghị 93

1. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 93

2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các ngân hàng thương mại khác 93

3. Kiến nghị với Nhà nước và các Bộ, Ngành liên quan 95

Kết luận 97

Tài liệu tham khảo

 

doc100 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1014 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khái quát dự án, hiểu rõ quy mô, tầm quan trọng của dự án. Thẩm định tổng quát ít khi phát hiện được vấn đề cần bác bỏ, bởi vì trừ trường hợp trình độ người soạn thảo quá yếu, không nắm được mối liên hệ cơ bản giữa các nội dung của dự án mới để xảy ra những sai sót. Đa số các dự án sau khi thẩm định chi tiết những sai sót mới được phát hiện. Tuy nhiên ngoài việc hình dung khái quát dự án, thẩm định khái quát còn cho phép đưa ra những nhận định tổng quát về dự án, sự đánh giá sau khi đối chiếu từng vấn đề riêng biệt. Kết quả này thường có được sau khi thực hiện các bước thẩm định chi tiết. - Thẩm định chi tiết : là thẩm định đi sâu vào từng nội dung của dự án. Trong từng nội dung thẩm định, đều có những ý kiến nhận xét, kết luận về sự đồng ý hay bác bỏ, về chấp nhận hay sửa đổi. Thẩm định theo phương pháp so sánh các chỉ tiêu : Đây là phương pháp được áp dụng phổ biến và rộng rãi để tiến hành thẩm định dự án. Theo phương pháp này khi thẩm định sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu của dự án với các chỉ tiêu, tiêu chuẩn để đánh giá tính hợp lý, ưu việt của dự án từ đó rút ra kết luận. Các chỉ tiêu được sử dụng làm cơ sở để đối chiếu thường là : - Các định mức, hạn mức được áp dụng ở Việt Nam.Chẳng hạn, khi thẩm định kỹ thuật xây dựng công trình dự án cần căn cứ vào tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng do Nhà nước quy định vào từng thời kỳ. - Các chỉ tiêu so sánh giữa trường hợp đã có dự án với trường hợp chưa có dự án. Chẳng hạn so sánh chỉ tiêu doanh thu trước và sau đầu tư mở rộng hoặc đổi mới thiết bị công nghệ. - Các chỉ tiêu của các dự án tương tự. Chẳng hạn so sánh các chỉ tiêu tương ứng như giá thành, giá bán giữa các dự án cùng ngành, cùng sản xuất ra sản phẩm cùng loại. Trường hợp không có chỉ tiêu để đối chiếu ở trong nước thì tham khảo của nước ngoài. Thực tế thẩm định một dự án thường phải tính toán và sử dụng nhiều chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu có một ý nghĩa và mức độ quan trọng khác nhau đối với từng dự án. Vì vậy khi thẩm định dự án, phải tuỳ từng dự án cụ thể mà lựa chọn các chỉ tiêu ra những chỉ tiêu quan trọng, cơ bản trong mỗi nội dung để xem xét thật kỹ, giúp cho công tác thẩm định đi đúng trọng tâm, rút ngắn được thời gian mà vẫn đảm bảo được chất lượng. Trong việc lựa chọn chỉ tiêu chú ý lựa chọn chỉ tiêu phản ánh bản chất của dự án, các chỉ tiêu liên quan đến những vấn đề khó khăn thường gây ra các tranh luận hay các vấn đề đang được xã hội quan tâm. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác thẩm định : Các nhân tố chủ quan : - Thông tin sử dụng trong quá trình thẩm định : Trong quá trình thẩm định dự án, ngân hàng phải tiến hành thu thập các tài liệu, thông tin cần thiết cho phân tích, đánh giá doanh nghiệp, dự án và tiến hành sắp xếp các thông tin một cách hợp lý theo các nội dung của quy trình thẩm định. Ngân hàng thường coi hồ sơ xin vay vốn của khách hàng là nguồn thông tin cơ bản nhất cho việc thẩm định. Tuy nhiên, những thông tin thu thập từ nguồn này thường mang tính chủ quan của chủ đầu tư. Những thông tin còn lại phần lớn dựa vào các nguồn thông tin đại chúng mà các nguồn thông tin này không mang tính pháp lý, chỉ có ý nghĩa tham khảo khi tiến hành phân tích đánh giá. Bên cạnh đó việc sàng lọc, xử lý thông tin của ngân hàng nhiều khi không cânt thận, do vậy chưa phát hiện ra được các bất hợp lý trong các báo cáo tài chính cũng như các dự án đầu tư mà chủ đầu tư gửi đến ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn chưa phát triển như hiện nay, mạng lưới thông tin, trang thiết bị thông tin nhìn chung còn ít ỏi, đơn giản. Thêm vào đó, các loại thông tin này hầu như chưa được cập nhật liên tục. Tính kịp thời của thông tin ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thẩm định, do đó ảnh hưởng đến mối quan hệ của ngân hàng đối với khách hàng và còn có thể làm mất cơ hội tài trợ cho dự án tốt trong điều kiện cạnh tranh hiện nay. - Phương pháp và nội dung thẩm định : Với nguồn thông tin có được, cán bộ thẩm định phải lựa chọn phương pháp nào thẩm định là quan trọng. Mỗi một dự án có một đặc trưng nhất định, không phải bất cứ một dự án nào cũng có thể áp dụng được tất cả các chỉ tiêu trong hệ thống thẩm định. Việc sử dụng phương pháp nào cho phù hợp với từng dự án phụ thuộc vào quyết định riêng, nghệ thuật của các cán bộ thẩm định. Với mỗi dự án đầu tư, phương pháp tốt nhất là phương pháp phù hợp nhất nhưng chưa chắc chắn rằng phương pháp đó là hiện đại nhất. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay những phương pháp thẩm định hiện đại đã giúp cho việc phân tích, đánh giá dự án được toàn diện, chính xác, hiệu quả hơn. Song điều quan trọng là ngân hàng phải biết áp dụng đồng bộ các chỉ tiêu đảm bảo tính toàn diện và cũng phải lựa chọn những chỉ tiêu quan trọng nhất phù hợp với tình hình thực tế của ngành, dự án cũng như khả năng điều kiện cụ thể của ngân hàng. Nhưng cho dù áp dụng phương pháp nào đi chăng nữa thì ngân hàng cũng phải quan tâm đến giá trị theo thời gian của đồng tiền tức là quan tâm đến lãi suất chiết khấu. Tuổi thọ của dự án càng cao, thì việc xác định một tỷ lệ chiết khấu càng trở nên quan trọng. Việc thay đổi lãi suất có ảnh hưởng lớn đến giá trị hiện tại của các khoản thu nhập và chi phí. Nếu lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư vào các dự án đầu tư kém hiệu quả, nếu nó quá cao thì sẽ hạn chế đầu tư. Hơn nữa trong điều kiện biến động của thị trường thì cần xem xét dự án trong cả trạng thái tĩnh và trạng thái động, cần phân tích độ nhậy của dự án và điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu theo rủi ro mà sự biến động này mang lại. - Trình độ, kinh nghiệm, phẩm chất đạo đức của cán bộ thẩm định : Trong công tác thẩm định của ngân hàng, cán bộ thẩm định là người trực tiếp thu nhận thông tin từ các nguồn và thực hiện toàn bộ quy trình thẩm định. Lấy thông tin ở đâu, chất lượng ra sao hoàn toàn do người thẩm định quyết định, áp dụng các phương pháp thẩm định gì, các chỉ tiêu nào, kỹ thuật phân tích ra sao cũng hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ và kinh nghiệm của cán bộ thẩm định. Hơn nữa thẩm định dự án đầu tư không phải là nghiệp vụ đơn giản, đòi hỏi cán bộ thẩm định không những phải có kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ, am hiểu các lĩnh vực cho vay, đầu tư của ngân hàng mà còn phải hiểu biết các vấn đề có liên quan như thị trường, khoa học công nghệ, thuế Thực tế cho thấy, một số cán bộ thẩm định cũng khá bối rối khi phải phân tích đánh giá dự án trên những phạm vi mà mình phụ trách. Điều này khiến cho cán bộ thẩm định chưa có được những nhận xét, đánh giá sắc bén, chưa có quan sát toàn diện, tổng hợp về mọi mặt của dự án, chưa có khả năng dự đoán các rủi ro tiềm tàng. Với cùng một dự án, những cán bộ kinh nghiệm sẽ thu được nhiều thông tin hơn và đầy đủ các khía cạnh hơn.Với cùng một lượng thông tin, cán bộ thẩm định có trình độ và kinh nghiệm hơn sẽ phân tích được chính xác kỹ càng hơn. Bên cạnh trình độ, kinh nghiệm của cán bộ thẩm định cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định, tính kỷ luật và phẩm chất đạo đức có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ công việc, sự an toàn trong hoạt động cho vay, mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn bị chi phối bởi tư tưởng truyền thống rất cổ điển của ngân hàng là sẽ dễ dàng hơn, tin cậy hơn khi phát tiền cho vay cho các khách hàng lâu năm đã từng vay vốn của ngân hàng, nên nhiều khi không xem xét kỹ lưỡng tính khả thi của dự án. Kết qủa là ngân hàng chỉ dựa vào mối quan hệ của sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp mà tiến hành thẩm định một cách qua loa, thiếu tinh thần trách nhiệm. - Tổ chức điều hành thẩm định : Thẩm định dự án đầu tư là tập hợp của nhiều hoạt động liên quan chặt chẽ với nhau. Hoạt động thẩm định bao gồm ba bước : trước, trong và sau khi cho vay nên việc phân cấp điều hành là rất cần thiết để các bước được thực hiện trong một quy trình khép kín, tránh tình trạng làm việc không khoa học, tận dụng được mặt mạnh và hạn chế được những điểm yếu của mỗi cá nhân. Do đó, giảm bớt chi phí tiến hành thẩm định và cũng rút ngắn thời gian thẩm định. Cần có sự phân công, phân nhiệm khoa học, chặt chẽ tận dụng tối đa năng lực sáng tạo và sức mạnh tập thể, đồng thời tạo ra những cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ bằng cách thành lập bộ phận kiểm soát nội bộ, kiểm soát tổng hợp, được tổ chức độc lập với các bộ phận khác và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của ban giám đốc thì những rủi ro trong việc thẩm định sẽ được hạn chế, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. Các nhân tố khách quan : Một dự án đầu tư thường có tuổi thọ dài, các nhân tố môi trường bên ngoài như tình hình kinh tế, sức ép cạnh tranh trong ngành, các quy định của pháp luật cũng có những ảnh hưởng nhất định đến công tác thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Những nhân tố này luôn thay đổi và nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Nền kinh tế chưa phát triển, cơ chế thiếu đồng bộ cùng với sự bất ổn của các điều kiện kinh tế vĩ môhạn chế việc cung cấp thông tin chính xác phản ánh đúng diễn biến, mối quan hệ thị trường, những thông tin dự báo về tình trạng kinh tế. Đồng thời các định hướng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội theo vùng ngành chưa được xây dựng cụ thể, đồng bộ và ổn định cũng là một yếu tố rủi ro trong phân tích. Khi những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh xảy ra, ngân hàng không thu hồi được vốn bởi loại rủi ro này cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến dự án và doanh nghiệp không thể chống đỡ được. Các quyết định, chính sách của Chính phủ cũng như các văn bản điều chỉnh lãi lãi suất, quy chế cho vay của ngân hàng Trung ương cũng tác động đến công tác thẩm định dự án. Hơn nữa, trình độ lập, thẩm định, thực hiện dự án của chủ đầu tư cũng như độ trung thực của các báo cáo tài chính còn hạn chế cũng làm ảnh hưởng đến công tác thẩm định dự án. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp Việt Nam, khả năng quản lý cũng như tiềm lực về tài chính còn nhiều hạn chế, rủi ro dự án đi vào hoạt động không hiệu quả như dự kiến cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động thẩm định. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM Giới thiệu chung về Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( SGD I - NHĐT & PTVN ) : Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam : NHĐT & PTVN là một doanh nghiệp Ngân hàng Nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước mang tính hệ thống thống nhất bao gồm hơn 112 chi nhánh và các Công ty trong toàn quốc, có 3 đơn vị liên doanh với nước ngoài, hùn vốn với 5 tổ chức tín dụng. Trọng tâm hoạt động và là nghề nghiệp truyền thống của NHĐT & PTVN là phục vụ đầu tư phát triển, các dự án thực hiện các chương trình phát triển kinh tế then chốt của đất nước. Thực hiện đầy đủ các mặt nghiệp vụ của Ngân hàng phục vụ các thành phần kinh tế, có quan hệ hợp tác chặt chẽ với các Doanh nghiệp, Tổng công ty. NHĐT & PT không ngừng mở rộng quan hệ đại lý với hơn 400 ngân hàng và quan hệ thanh toán với 50 ngân hàng trên thế giới. NHĐT & PTVN là một ngân hàng chủ lực thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và phục vụ đầu tư phát triển. Quá trình 45 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển của Ngân hàng có thể được chia thành các giai đoạn sau: Giai đoạn 1957 - 1975: Ngày 26/4/1957, Thủ tướng Chính phủ ký nghị định 177/ TTg thành lập "Ngân hàng kiến thiết Việt Nam" trực thuộc Bộ tài chính thay thế cho "Vụ cấp phát vốn kiến thiết cơ bản". Chức năng của Ngân hàng là cấp phát (gần như chỉ định) vốn và giải ngân cho các đơn vị nhận thầu thi công xây dựng cơ sở hạ tầng như trường học, bệnh viện, sân bay...góp phần khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân. Các công trình hoàn thành vào thời kỳ này như: hệ thống đê điều, công trình đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải - công trình đại thủy nông đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau chiến tranh chống Pháp; khu công nghiệp Việt Trì; khu gang thép Thái Nguyên; khu công nghiệp Cao Xà Lá Thượng Đình - Hà Nội; các trường Đại học Bách Khoa, Đại học Kinh tế - kế hoạch, Đại học Thuỷ Lợi, Đại học Giao thông vận tải... Giai đoạn 1976 - 1989: Ngày 24/6/1981, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 259/ CP về việc chuyển Ngân hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính thành "Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam" trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với quyết định này, Ngân hàng có chức năng mới: cấp phát vốn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, thẩm định và giải ngân cho các dự án đầu tư. Thời kỳ này, NHĐT & PTVN đã góp phần đưa vào sử dụng 358 công trình lớn, trong đó có những công trình quan trọng như: Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đài truyền hình Việt Nam, cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, hồ Dầu Tiếng... Giai đoạn 1990 đến nay: Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập NHĐT & PT thay thế cho Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng cũ. Bây giờ Ngân hàng có chức năng huy động vốn trung và dài hạn trong nước và ngoài nước và nhận vốn từ ngân sách Nhà nước cho vay các dự án chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Từ năm 1995, NHĐT & PT được thành lập lại, hoạt động theo mô hình Tổng công ty Nhà nước và chuyển sang hoạt động kinh doanh như một Ngân hàng thương mại đa năng. Một số nét cơ bản về Sở giao dịch I - NHĐT & PTVN Sở Giao dịch I (SGD I) là đơn vị thành viên lớn nhất của hệ thống NHĐT & PTVN, được thành lập theo quyết định 76/ QĐ - TCCB ngày 28/3/1991 của Tổng giám đốc NHĐT & PTVN. SGD I là đại diện pháp nhân của NHĐT & PTVN, hạch toán nội bộ trong hệ thống NHĐT & PTVN, có con dấu riêng, có bảng tổng kết tài sản và có trụ sở chính đặt tại Hà Nội. Khách hàng của Sở là các Tổng công ty Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư. SGD I phục vụ các công trình dự án khắp cả nước trong các lĩnh vực: điện lực, dầu khí, viễn thông, xây dựng, công nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, dịch vụ... Thời gian đầu khi mới thành lập (1991 - 1997), SGD I - NHĐT & PTVN là một đơn vị phụ thuộc thực hiện cho vay, nhận gửi từ trên xuống. Mọi hoạt động của SGD đều mang tính bao cấp thực hiện theo chỉ thị (SGD chủ yếu cho vay đối với các dự án phát triển kinh tế do NHĐT & PTVN chỉ định), lỗ lãi không tự hạch toán, chủ yếu do ngân hàng mẹ đỡ đầu. Từ năm 1998 đến nay, SGD đã có bước chuyển biến lớn thật sự tách ra trở thành một ngân hàng hạch toán độc lập. Năm 1998 - 1999, mặc dù đã chính thức được tách ra nhưng SGD vẫn còn mang dấu ấn của sự bao cấp, chỉ thị. Một số chỉ tiêu về hoạt động kinh doanh của Sở như: nợ, lợi nhuận, lương, chi phí... đều do NHĐT & PTVN đề ra và áp đặt cho sở. Năm 2000, các chỉ tiêu đề ra trên không còn, tuy vậy một số dự án lớn từ trước vẫn còn kéo dài đến nay. Trong đó có nhiều dự án vẫn còn mang tính bao cấp, chỉ thị. Năm 2001 là năm mà SGD chính thức trở thành một đơn vị hạch toán độc lập có quyền tự chủ thực sự trong mọi hoạt động kinh doanh. Với chức năng của một ngân hàng thương mại, SGD được tổ chức thực hiện các nghiệp vụ sau: Huy động vốn: SGD I được huy động vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn bằng VNĐ và bằng ngoại tệ từ mọi nguồn vốn trong nước dưới các hình thức như: nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán tất cả các tổ chức và dân cư; vay vốn của các ngân hàng, của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác. Nghiệp vụ tín dụng: cho vay ngắn hạn các tổ chức kinh tế, cá nhân; cho vay dự án đầu tư phát triển; tài trợ xuất nhập khẩu; phát hành bảo lãnh các loại; cho thuê tài chính; chiết khấu các chứng từ có giá; tư vấn đầu tư, thương mại, thẩm định đối tác. Thanh toán trong nước và quốc tế: mở tài khoản cho cá nhân và tổ chức kinh tế, chuyển tiền nhanh, thu hộ chi hộ, chi trả hộ lương, mua bán chuyển đổi ngoại tệ, tư vấn thanh toán xuất nhập khẩu, nghiệp vụ ngân hàng đại lý... Các nghiệp vụ khác: chuyển tiền điện tử, rút tiền tự động bằng máy ATM, ngân hàng tại nhà - Homebanking; cất giữ hộ giấy tờ có giá cho khách hàng; tham gia đấu thầu mua trái phiếu, tín phiếu; đấu thầu và sửa chữa cải tạo nâng cấp tài sản thế chấp, cầm cố; dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, hỗ trợ các doanh nghiệp có quan hệ hợp tác với Lào.. SGD I được quản lý, sử dụng vốn tài sản và các nguồn khác của NHĐT & PTVN và các nguồn vốn huy động, tiếp nhận và đi vay theo quy định của pháp luật và NHĐT & PTVN để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ được giao. Trong khuôn khổ các quy định, SGD I được quy định mức lãi suất các loại tiền gửi, tiền vay đối với khách hàng, quy định các tỷ lệ hoa hồng, phí và lệ phí, quy định tỷ giá mua bán, chuyển đổi ngoại tệ và phí giao dịch ngoại tệ. SGD hiện nay hoạt động như một chi nhánh nhưng là một chi nhánh đặc biệt bởi quy mô hoạt động cũng như vai trò của nó trên địa bàn. SGD còn là đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong thanh toán ngoại tệ theo uỷ quyền, là nơi thử nghiệm và thực hiện các cơ chế chính sách, hệ thống công nghệ ngân hàng mới để rút kinh nghiệm chỉ đạo triển khai ra toàn hệ thống. Cơ cấu tổ chức của SDG I - NHĐT & PTVN : Được thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1991, cho đến nay quy mô của SGD I đã không ngừng được mở rộng và ngày càng phát triển. Trước ngày 11/1/1999, SGD I chỉ có 3 phòng chức năng : - Phòng tín dụng và kinh doanh - Phòng kế toán và kho quỹ - Phòng huy động vốn Nhưng hiện nay, SGD I đã đổi mới và cơ cấu lại bộ máy hoạt động của mình với 11 phòng chức năng, 1 chi nhánh ở Gia Lâm ( sắp tới sẽ có thêm một chi nhánh ở Bắc Thăng Long ), 3 phòng giao dịch vùng 12 quầy tiết kiệm. Các phòng chức năng hiện nay là : - Phòng nguồn vốn kinh doanh - Phòng tín dụng 1,2 - Phòng quan hệ khách hàng - Phòng kiểm tra kế toán - Phòng tổ chức hành chính - Phòng thông tin điện toán - Phòng thanh toán quốc tế - Phòng kế toán tài chính - Phòng ngân quỹ - Phòng giao dịch 1,2,3 Đầu tháng 4 năm 2003, bộ phận thẩm định của SGD I được tách ra hoạt động độc lập ( trước đây phụ thuộc phòng nguồn vốn kinh doanh ), tiến tới sẽ thành lập phòng thẩm định. Điều này thể hiện tầm quan trọng của công tác thẩm định trong giai đoạn hiện nay. Điều hành SGD I là ban giám đốc bao gồm 1 Giám đốc và 2 Phó giám đốc. Giám đốc SGD I là Phó tổng giám đốc NHĐT & PTVN. Hiện nay, SGD I có 260 cán bộ công nhân viên, trong đó chi nhánh Gia Lâm là 65 người. Số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học là 144 người, chiếm 74 % ( không tính chi nhánh Gia Lâm ). Tình hình hoạt động của SGDI trong những năm gần đây 3.1. Hoạt động huy động vốn Công tác huy động vốn đã trở thành một công cụ quan trọng giúp Ban lãnh đạo ngân hàng quản lý sử dụng nguồn vốn hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, đảm bảo an toàn nguồn vốn thanh toán, bước đầu thực hiện việc kinh doanh tiền tệ nhằm tăng thêm thu nhập cho ngân hàng. Trong những năm gần đây, SGDI luôn có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động cao, bình quân đạt gần 65% một năm. Thị phần tăng từ mức 6,76% cuối năm 99 lên 8,5% năm 2002, chiếm vị trí thứ 2 về nguồn vốn huy động trên địa bàn, đóng góp gần 25% vào mức tăng trưởng nguồn vốn của toàn hệ thống, đưa tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động trong toàn ngành của SGD tăng từ 15,8% năm 99 lên 18,5% năm 2002. Tính đến 31/12/2002, nguồn vốn huy động của SGD đã đạt quy mô gần 8.000 tỷ VND, trong đó vốn trung dài hạn chiếm 70%, tạo nên tiềm lực phát triển hoạt động kinh doanh, đã cơ bản tự đảm bảo được nguồn vốn hoạt động, giảm bớt sự căng thẳng về nguồn vốn của ngành, đóng góp một phần nguồn vốn cho hoạt động của toàn hệ thống. Tính đến cuối năm 2002, SGD đã đạt được những kết quả như sau: Bảng 1: Cơ cấu vốn huy động của SGDI - NHĐT & PTVN Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Triệu đồng % Triệu đồng % Triệu đồng % 1. Tiền gửi khách hàng 14484995 27.81 1953133 29.37 2338372 30.66 2. Tiền gửi dân cư 3854027 72.19 4697723 70.63 5555197 69.34 Tổng vốn huy động 5339022 100 6650856 100 7893569 100 Trong đó: - VND 2776291 52 3910703 58.8 5888602 74.6 -Ngoại tệ 2562731 48 2740153 41.2 2004967 25.4 ( nguồn: "Phòng nguồn vốn kinh doanh - SGD I - NHĐT & PTVN" ) Cơ cấu nguồn vốn có sự thay đổi theo hướng ngày càng hợp lý và tích cực: - Theo loại tiền: Năm 2000 tiền VND chiếm 52% trrong tổng nguồn huy động, đến năm 2001 tỷ lệ này là 58,8%, năm 2002 là 74,6%. Có tình trạng này là do năm 2001 và 2002 lãi suất đồng USD liên tục giảm, trong khi đó lãi suất VND vẫn được giữ nguyên. Mặc dù điều này gây khó khăn cho hạot động ngân hàng nhưng trong tình hình tỷ giá diễn biến phức tạp, cơ cấu này là phù hợp. - Tiền gửi khách hàng chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng vốn huy động, trong đó chủ yếu là tài khoản tiền gưỉ thanh toán của các tổ chức kinh tế. Tỷ trọng này tăng đều qua các năm: năm 2000 là 1.484.995 triệu đồng, chiếm 27,81% trong tổng vốn huy động; năm 2001 chiếm 29,37%, tăng tương đối so với năm 2000 là 31,5%; năm 2002 chiếm 30,66%, gần bằng mức bình quân toàn ngành. Đó là do SGD đã tăng cường các hoạt động Marketing khách hàng, thông qua các hoạt động khác để mở rộng quan hệ tiền gửi, tăng thêm các dịch vụ cung ứng phục vụ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. - Đặc biệt, nguồn vốn huy động dân cư có sự tăng trưởng mạnh (nguồn này bao gồm tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu). Tốc độ tăng trưởng bình quân là 18%/ năm, chiếm tỷ trọng gần 70% trong tổng nguồn vốn. Đây là kết quả của việc áp dụng các hình thức huy động vốn đa dạng: tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, tài khoản tiền gửi với nhiều kỳ hạn, nhiều phương thức thanh toán lãi phong phú (trả trước, trả sau, trả hàng tháng, quý...), qua chính sách lãi suất hấp dẫn, luôn luôn linh hoạt với thị trường, qua áp dụng công nghệ cao chất lượng giao dịch đã góp phần quan trọng tạo nên tín nhiệm với nhân dân, với bạn hàng. Trong năm 2003, cùng với cả hệ thống, SGD đã thực hiện thành công đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi. Đợt phát hành bắt đầu vào ngày 12/2, dự kiến kết thúc vào ngày 14/4/2003, nhưng chỉ đến ngày 18/2/2003 tổng số tiền huy động đã đạt 50% mức kế hoạch đề ra, làm cho cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn huy động thay đổi theo hướng tích cực. 3.2. Hoạt động cho vay Trong những năm qua, SGD I đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc phát triển kinh tế, với việc đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở, các chương trình phát triển, dự án trọng điểm quốc gia. Tính đến cuối năm 2002, Sở giao dịch đã đạt được kết quả như sau: Bảng 2; Cơ cấu tín dụng của SGD - NGĐT & PTVN Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1. Cho vay theo kế hoạch nhà nước 2490268 1026498 1012176 2. Cho vay các tổ chức tín dụng 42899 381097 184877 3. Cho vay uỷ thác, ODA 356343 387955 432392 4. Cho vay đồng tài trợ 6400 304738 934905 5. Cho vay thương mại trong đó: 1664252 3123538 3396018 Cho vay ngắn hạn 938288 1310429 830339 Cho vay trung dài hạn 725964 1813109 2265679 Tổng cộng 4560162 5223826 5960368 (Nguồn: "Phòng nguồn vốn kinh doanh - SGD I - NHĐT & PTVN") Trong tình hình cạnh tranh quyết liệt, doanh số cho vay của SGD vẫn tăng liên tục qua các năm. Dư nợ tín dụng của SGD trong năm 2001 đạt gần 5.224 tỷ đồng, tăng 115% so với năm 2000. Năm 2002 dư nợ tín dụng của Sở đạt 5.960 tỷ đồng, tăng 108% so với năm 2001. Thị phần tín dụng trên địa bàn được giữ vững ở mức 14,4%. - Tín dụng kế hoạch Nhà nước giảm dần. Đó là do năm 1999 Quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia ra đời, điều này tất yếu kéo theo sự suy giảm Quỹ đầu tư phát triển của NHĐT & PT nói chung và SGD nói riêng trong thời gian tới. - Về tín dụng trung dài hạn thương mại: đây là lĩnh vực truyền thống của SGD. Doanh số cho vay trung dài hạn thương mại luôn ở mức cao và tăng đều qua các năm: năm 2001 đạt hơn 1.813 tỷ đồng, tăng 49,75% so với năm 2000; năm 2002 là 2.265 tỷ đồng, tăng 24,96% so với năm 2001. Dư nợ tín dụng trung dài hạn thương mại chiếm 40% tổng dư nợ. - Tín dụng ngắn hạn: dự nợ ngắn hạn trong năm 2001 tăng nhanh, đạt doanh số1.310 tỷ đồng, tăng 40% so với năm 2000, chiếm 25% tổng dư nợ. Tuy nhiên năm 2002 lại giảm mạnh, doanh số cho vay là 830 tỷ đồng, chỉ bằng 63% so với năm 2001. Nguyên nhân giảm dư nợ là do nhiều khách hàng tập trung trả nợ. Thực tế, SGD luôn cố gắng tăng tỷ trọng tín dụng thương mại trong tổng dư nợ bằng việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, chú trọng công tác Marketing, phục vụ tốt khách hàng sẵn có, mở rộng tìm kiếm khách hàng mới, tăng doanh số cho vay. - Về cơ cấu tín dụng phân theo nội, ngoại tệ: trong năm 2002 doanh số cho vay bằng nội tệ đạt 2950 tỷ đồng, chiếm 41,78% tổng doanh số cho vay. Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ (quy đổi sang VND theo tỷ giá bình quân 15000), đạt 3.872 tỷ đồng, chiếm 58,22% tổng dư nợ (trong khi năm 2001 là 51%). Sở dĩ doanh số cho vay bằng ngoại tệ tăng lên là do lãi suất đồng USD liên tục giảm, còn lãi suất VND vẫn giữ nguyên nên các doanh nghiệp có xu hướng gửi vào bằng tiền Việt Nam và vay bằng ngoại tệ. Cùng với việc tăng trưởng quy mô tín dụng, chất lượng tín dụng của SGD ngày càng được nâng cao. Trong năm doanh số thu nợ ước đạt 5.900 tỷ đồng, các khoản nợ quá hạn nhiều năm trước đã được phân loại, đánh giá và phân bổ đưa vào quỹ dự phòng rủi ro (năm 2002 đã trích dự phòng rủi ro45.933 triệu đồng). Các khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi từ năm cũ chuyển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4056.doc
Tài liệu liên quan