Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng

 

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 3

I. Tổng quan về Ngân hàng Thương mại. 3

1.Khái niệm. 3

2. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại. 5

1. Huy động vốn 5

2. Sử dụng vốn. 5

3. Hoạt động kinh doanh khác 7

II. Chất lượng tín dụng của ngân hàng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. 7

1. Khái quát về thành phần kinh tế ngoài quốc doanh 7

1.1. Khái niệm: 7

1.2. Vai trò của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường. 8

1.3. Cơ chế cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. 8

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng. 13

1. Nhân tố khách quan: 13

2. Nhân tố chủ quan. 14

2.4. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh 16

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG HÀ NỘI 18

I. Quá trình hình thành và hoạt động của chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng 18

1. Quá trình hình thành và phát triển. 18

2. Cơ cấu tổ chức - Bộ máy hoạt động của chi nhánh 19

II. Khái quát hoạt động của chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng 21

1. Nghiệp vụ huy động vốn 21

2. Tình hình sử dụng vốn 22

3. Nghiệp vụ kinh doanh khác 24

III. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng. 26

1. Tình hình dư nợ quá hạn 26

2. Vòng quay tín dụng 27

IV. Đánh giá chung về kết quả hoạt động tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. 27

1. Kết quả đạt được: 27

2. Tồn tại và nguyên nhân 27

CHƯƠNG III

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HAI BÀ TRƯNG 29

I. Định hướng hoạt động của chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng 29

1. Muc tiêu: 29

2. Giải pháp 29

II. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng. 30

KẾT LUẬN 37

 

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng tín dụng của ngân hàng kém hiệu quả. Môi trường xã hội: các yếu tố như uy tín, niềm tin, trật tự xã hội cũng ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Môi trường pháp lý: các quy định về luật pháp của Nhà nước, các văn bản pháp quy của tổ chức tín dụng và của ngân hàng phải chặt chẽ, ổn định và đồng bộ để tạo ra một môi trường pháp lý chung đối với tất cả các hoạt động cho vay công bằng và hiệu qủa. Các nhân tố ảnh hưởng khác: Ngoài các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến chất lượng tín dụng nêu trên còn nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng như: Thiên tai địch hoạ, văn hoá, tập quán, trình độ dân trí, dân số... nhưng đề tài này không đi sâu phân tích. 2. Nhân tố chủ quan. Về phía ngân hàng, do các yếu tố sau: + Hệ thống thông tin. Hoạt động tín dụng NHTM chứa đầy rủi ro , một mặt do NH có thể chọn nhầm khách hàng để cho vay tức là ngay từ đầu khách hàng đã có dấu hiệu không lành mạnh do không nắm bắt được thông tin, có thể khách hàng do năng lực sản xuất kinh doanh yếu kém, mạo hiểm, có ý lừa đảo... Mặt khác một số khách hàng có thể được đánh giá là tốt song trong quá trình kinh doanh, bản thân họ gặp rủi ro thua lỗ. Do vậy dẫn đến rủi ro tín dụng ngân hàng. Nhiệm vụ quan trọng nhất của ngân hàng là thu thập tổng hợp, phân tích thông tin về khách hàng nhằm loại trừ những khách hàng không đảm bảo được nguyên tắc tín dụng. + Năng lực của cán bộ ngân hàng: Ban lãnh đạo và cán bộ tín dụng là người trực tiếp quyết định cho vay. Năng lực ở đây bao hàm kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ học vấn và cả đạo đức của cán bộ ngân hàng. Sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của NHTM chủ yếu còn phụ thuộc vào năng lực của cán bộ ngân hàng, do đó đây là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng mỗi cán bộ tín dụng phải có sự nhạy cảm và khả năng đánh giá chính xác. Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng đó là quyết định độc lập của riêng mình trong mỗi giao dịch và không hề chịu ảnh hưởng bởi những người có liên quan. + Cơ chế tín dụng. Hoạt động kinh doanh của NHTM chịu sự chi phối của một hệ thống văn bản pháp luật như luật ngân hàng và các văn bản định chế khác, chính sách tín dụng, nó sẽ tạo điều kiện để các NHTM thu hút được khách hàng đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro ... Vì vậy chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào cơ chế tín dụng có đúng đắn không. Hiện nay cơ chế tín dụng ở nước ta đã đổi mới một cách căn bản, phù hợp với cơ chế thị trường tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề đang được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động an toàn hiệu quả. + Kiểm soát nội bộ. Kiểm soát nội bộ là kiểm tra việc thực hiện và chấp hành các chính sách tín dụng và các thủ tục liên quan đến các khoản cho vay. Để kiểm soát nội bộ có hiệu quả, bảo vệ được tài sản, ngân hàng cần bố trí cán bộ giỏi, am hiểu pháp luật và trung thực để kịp thời phát hiện và ngăn ngừa những vi phạm, nâng cao hiệu quả tín dụng. Về phía doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Năng lực kinh doanh, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Tư cách, uy tín của Giám đốc doanh nghiệp. Vốn và vật thế chấp của doanh nghiệp. Phương án sản xuất kinh doanh. 2.4. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta, kinh tế ngoài quốc doanh có một vai trò to lớn và phải được khuyến khích phát triển. Trong việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, kinh tế ngoài quốc doanh góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất, khai thác tiềm năng kinh tế, tạo ra và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường khai thác tối đa mọi khả năng kinh tế của mình về vốn, về sức lao động, về trí tuệ để phục vụ sản xuất kinh doanh, đem lại lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ, có tính tự chủ và năng động cao, vì vậy dễ thích nghi với những thay đổi của thị trường, có khả năng linh hoạt thay hướng sản xuất, thay đổi công nghệ để hạ giá thành sản phẩm, đem lại hiệu quả cao. Từ những vấn đề nêu trên, kinh tế ngoài quốc doanh cần được tiếp tục phát triển và trở thành một đối trọng với kinh tế quốc doanh, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước sớm có những chuyển biến kịp thời phù hợp với xu thế của nền kinh tế và thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển. Với ngành Ngân hàng, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là nhóm khách hàng lớn và quan trọng trên các mặt nghiệp vụ như huy động vốn, sử dụng và phát triển dịch vụ ngân hàng. Đại bộ phận tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng là từ các thành phần dân cư trong xã hội, đây là nguồn vốn có tính ổn định cao đối với ngân hàng. Mặt khác nhu cầu sử dụng vốn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là rất lớn, đối với doanh nghiệp họ có phần rất nhỏ vốn tự có, phần lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải sử dụng vốn vay để hoạt động. Không những thế khi kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, nó tạo ra mối quan hệ mua bán, chi trả lớn, tài khoản mở tại ngân hàng sẽ ngày một tăng lên và kéo theo các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng phát triển. Điều này có nghĩa là sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh kéo theo sự phát triển của ngân hàng thương mại. Vì vậy, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động v.v... thì vấn đề là cần phải phát triển hơn nữa kinh tế ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế thị trường, lòng tin của khách hàng là thước đo quan trọng đối với chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là đối với ngân hàng - một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực luôn luôn phải lấy chữ tín làm đầu, khi lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng càng tăng, thì quan hệ tín dụng được thực hiện một cách thông suốt và chứng tỏ chất lượng tín dụng được đảm bảo, khi đó tạo cho khách hàng sự tin tưởng vào ngân hàng. Trong thời gian vừa qua, tín dụng ngân hàng nói chung, tín dụng ngoài quốc doanh nói riêng, tỏ ra bất cập với tình hình thực tế của đời sống kinh tế xã hội, vì vậy phần nào đã không khai thác triệt để tiềm năng của khu vực kinh tế này. Thể hiện ở chỗ tín dụng ngân hàng còn chạy theo lợi nhuận cục bộ, ít quan tâm đến yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế, khu vực kinh tế nào, thành phần kinh tế nào, đầu tư mà có khả năng thu được nợ được lãi cao là đầu tư mà không quan tâm đến lợi ích của toàn bộ nền kinh tế, vì thế có những khu vực kinh tế, nơi này nơi khác ít được quan tâm hoặc bị bỏ quên. Trình độ cán bộ tín dụng còn chưa cập với nền kinh tế thị trường, cán bộ tín dụng không được chuyên môn hoá, các lĩnh vực kinh tế đều tham gia đầu tư, từ sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, xây dựng cơ bản, khoa học kỹ thuật, giao thông vận tải, luật dân sự, luật đất đai v.v... Từ tình hình thực tế đó, cán bộ tín dụng tỏ ra non yếu trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, hiệu quả công tác thẩm định, kiểm tra sử dụng vốn vay của cán bộ tín dụng còn hạn chế, dẫn đến khả năng đáp ứng vốn chưa kịp thời, hiệu quả, vì thế tiềm năng kinh tế ngoài quốc doanh không được khai thác triệt để. Từ những vấn đề trên, việc nâng cao chất lượng tín dụng ngoài quốc doanh là một việc cần thiết và thường xuyên đối với các tổ chức tín dụng Chương II Thực trạng về chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hai bà trưng Hà nội I. Quá trình hình thành và hoạt động của chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng 1. Quá trình hình thành và phát triển. Ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng là một chi nhánh của NHCT Việt Nam.Sau khi thực hiện nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của hội đồng bộ trưởng về tổ chức bộ máy NHNN Việt Nam chuyển sang cơ chế ngân hàng hai cấp,từ một chi nhánh NHNN cấp quận và một chi nhánh ngân hàng kinh tế cấp quận thuộc địa bàn quận Hai Bà Trưng,trực thuộc NHNN thành phố Hà Nội chuyển thành các chi nhánh NHCT khu vực I và II quận Hai Bà Trưng trực thuộc chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thuộc NHCT Việt Nam. Tại quyết định số 93/NHCT-TCCB ngày 1/4/1993 của tổng giám đốc NHCT Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức NHCT trên địa bàn Hà Nội theo mô hình quản lý hai cấp của NHCT Việt Nam, bỏ cấp thành phố, hai chi nhánh NHCT khu vực I và II Hai Bà Trưng là những chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam được tổ chức hạch toán kinh tế và hoạt động như các chi nhánh NHCT cấp tỉnh, thành phố.Kể từ ngày 1/9/1993,theo quyết định của tổng giám đốc NHCT Việt Nam, sáp nhập chi nhánh NHCT khu vựcI vào chi nhánh NHCT khu vực II Hai Bà Trưng. Như vậy kể từ ngày 1/9/1993 trên địa bàn quận Hai Bà Trưng(Hà Nội) chỉ còn duy nhất một chi nhánh NHCT. Nhiệm vụ chủ yếu của chi nhánh công thương Hai Bà Trưng là hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng. Hiện nay: Chi nhánh có trụ sở chính tại 285 Trần Khát Chân và 2 phòng giao dịch đặt tại chợ Hôm và chợ Trương Định, bên cạnh đó chi nhánh còn có 12 quỹ tiết kiệm và một cửa hàng vàng bạc nằm rải rác trên khắp điạ bàn. Chức năng, nhiệm vụ chính của ngân hàng hiện nay là huy động tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế để cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế. Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ khác như dịch vụ thanh toán quốc tế, thanh toán hộ qua ngân hàng, mở tài khoản và nhận tiền gửi, thực hiện các dịch vụ chuyển tiền, tư vấn, bảo lãnh … 2. Cơ cấu tổ chức - Bộ máy hoạt động của chi nhánh Bộ máy tổ chức của chi nhánh như sau: Phòng kinh doanh. Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Phòng kế toán. Phòng nguồn vốn. Phòng thông tin điện toán. Phòng hành chính tổ chức. Phòng kho quỹ. Phòng kiểm soát. 2 phòng giao dịch. Cửa hàng kinh doanh vàng bạc. 12 quỹ tiết kiệm. Với đội ngủ trên 700 cán bộ và trên 70% có trình độ đại học và trên đại học. Nằm trên địa bàn quận Hai Bà Trưng là một quận tương đối rộng, đông dân cư và tập trung khối sản xuất công nghiệp Trung ương và địa phương nhất là khu công nghiệp Sợi – Dệt –May và công nghiệp cơ khí, công ty thương nghiệp và nhiều loại hình kinh doanh khác như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và các loại hình hợp tác xã cùng các hộ tư thương buôn bán nhỏ. Nhưng trên địa bàn này tỷ lệ các doanh nghiệp kinh doanh thương nghiệp,XNK, dịch vụ du lịch và khách sạn không nhiều. Đây chính là điều kiện thuận lợi về mặt thị trường cho ngân hàng, với những đặc điểm trên địa bàn như vậy NHCT II- HBT có nhiều thuận lợi về huy động vốn chủ yếu là huy động tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu và nguồn gửi của các tổ chức doanh nghiệp. Song cũng có những yếu tố không thuận lợi như khả năng tăng trưởng đầu tư tín dụng là rất khó khăn vì tốc độ chững lại trong những năm gần đây của khu vực sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp dệt may và cơ khí. Cùng với sự thăng trầm của kinh tế nước ta Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng nhiều lúc cũng phải đối mặt với những khó khăn nhất định, hạn chế khả năng huy động tiền vốn cũng như cho vay đối với các tô chức kinh doanh ở một số lĩnh vực như khách sạn, cơ khí... với sự cố gắng không ngừng đến nay ngân hàng đã khẳng định được vị trí và vai trò của mình đối với kinh tế thủ đô, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng các mặt kinh doanh dịch vụ tiền tệ –ngân hàng, thường xuyên tăng cường nguồn vốn một cách có hiệu quả, thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế nhiều thành phần, tăng cường vật chất kỹ thuật để từng bước đổi mới công nghệ, góp phần vào quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Không dừng lại ở đó, hoạt động cuả ngân hàng không chỉ bó hẹp trong địa bàn quận Hai Bà Trưng mà còn vươn ra bình đẳng kinh doanh với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà Nội, hoà nhập với sự nghiệp đổi mới kinh tế, đổi mới hoạt động của nghành. Tập thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng đã phấn đấu thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ do cấp trên giao phó với mục tiêu:vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà, mọi doanh nghiệp, sự thành đạt trong doanh nghiệp cũng chính là sự thành đạt của ngân hàng. II. Khái quát hoạt động của chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng Cùng với quá trình đổi mới kinh tế của đất nước ta, trong hơn 10 năm qua NHCT II –HBT đã vượt qua những khó khăn trở ngại bằng ý chí vươn lên, phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực, thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo sát sao của NHCT Việt Nam, NHNN Hà Nội. Phương châm phát triển là an toàn- hiệu quả - cạnh tranh. Chi nhánh đã đạt được những thành công nhất định cũng như mở rộng được các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. 1. Nghiệp vụ huy động vốn Chi nhánh đã luôn chủ động tích cực và không ngừng mở rộng mạng lưới giao dịch thông qua các quỹ tiết kiệm, giải quyết nhanh chóng và thông thoáng các thủ tục, thái độ phục vụ văn minh lịch sự nhằm thu hút tối đa nguồn tiền gửi của dân cư. Công tác tiết kiệm được thực hiện đúng quy trình, đảm bảo an toàn, đã được sự yên tâm tin tưởng của người gửi tiền. Song song với việc huy động vốn trong dân cư, chi nhánh đã chú trọng đến việc thu hút tiền gửi của các doanh nghiệp, thông qua việc khẳng định uy tín của mình bằng chất lượng dịch vụ không ngừng hoàn thiện với tiêu chí là: nhanh chóng, chính xác, thuận tiện cho khách hàng. Trong công tác huy động vốn, mặc dù lãi suất huy động vốn không cao so với mặt bằng chung của các ngân hàng thương mại khác hệ thống trên địa bàn, đặc biệt là lãi suất huy động USD giảm mạnh, nhưng thường xuyên coi trọng chất lượng dịch vụ kết hợp tốt chính sách khách hàng nên nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng đều, đảm bảo được cân đối vốn cung cầu và tạo thế chủ động cho hoạt động kinh doanh. Công tác quản lý tiền gửi dân cư được chi nhánh thực hiện nghiêm túc thông qua công tác kiểm tra với nhiều hình thức. Qua đó đã khắc phục những sai sót, đảm bảo an toàn tuyệt đối nguồn tiền gửi của dân cư và các giấy tờ quan trọng, nâng cao uy tín của ngân hàng với khách hàng. Thực hiện chủ trương coi trọng hàng đầu nguồn vốn trong nước và tiếp tục huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, chủ động thay đổi cơ cấu nguồn vốn phù hợp với yêu cầu đa dạng hóa trong kinh doanh. Trong những năm qua chi nhánh đã đẩy mạnh công tác huy động vốn, đạt mức tăng trưởng nguồn vốn khá cao, tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Tình hình huy động vốn của chi nhánh được thể hiện ở phụ luc 3 : biểu 2: “Kết quả công tác huy động vốn của chi nhánh từ năm 2003 đên 2005”. Qua biểu 2 ta thấy , nhìn chung nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng lên đều qua các năm 2003-2005.Với số liệu cụ thể như sau : tính đến ngày 31 /12/2003tổng nguồn vốn huy động 2050 tỷ đồng (đây là con số tương đối cao trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam) đến ngày 31/12/2004 con số này đã tăng lên tới 2260 tỷ đồng , tăng 210 tỷđồng (đạt 110,2%)so với cùng kỳ năm 2003.Đặc biệt đến 31/12/2005 tổng nguồn vốn huy động tăng lên đạt 2600 tỷ đồng tăng lên 340 tỷ đồng bằng 115% (=1,15 lần ) so với năm 2004 số vốn huy động tính đến ngày 31/12/2005 Đây là kết quả của việc chi nhánh có những thế mạnh như uy tín, có mạng lưới rộng và có thái độ phục vụ nhiệt tình, nhanh gọn, thủ tục thuận lợi và hình thức huy động phong phú. Chi nhánh ngày càng thu hút được nhiều khách tới giao dịch, kết quả là nguồn vốn của chi nhánh vẫn tăng trưởng ổn định đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư tín dụng. Chi nhánh đã có những biện pháp để giữ vững tăng trưởng nguồn vốn huy động như : phối hợp với các ban dự án, ban giải phóng mặt bằng của quận để thu hút các khoản tiền đền bù, tăng cường mạng lưới huy động tiền gửi tiết kiệm trên địa bàn đông dân cư. Ngoài ra, chi nhánh tiếp tục duy trì quan hệ với khách hàng truyền thống và tích cực tìm kiếm thêm khách hàng có nguồn vốn tiền gửi lớn. Chi nhánh đã làm tốt chính sách phục vụ khách hàng, cải tiến phong cách phục vụ thuận lợi nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư và tổ chức kinh tế. Khi xem xét về cơ cấu nguồn vốn huy động của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh (xem phụ lục 3: biểu 2: Kết quả công tác huy động vốn của Ngân hàng công thương HBT từ năm 2003-2005) ta thấy trong những năm gần đây nguồn vốn huy động từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên liên tục cụ thể năm 2003 tiền gửi của DNNQD là 50 tỷ đồng, năm 2004 tăng lên 80 tỷ đồng và con số này tiếp tục tăng trong năm 2005 là 100 tỷ đồng . Đây là tiền gửi đặc biệt quan trọng bởi lãi suất của các khoản tiền gửi này thương nhỏ hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm. Vậy ngân hàng huy động càng nhiều tiền gửi của các tố chức kinh tế thì lãi suất đầu vào của ngân hàng càng nhỏ, tạo điều kiện cho các hoạt động cho vay và đầu tư của ngân hàng phát triển tốt. Ngân hàng công thương HBT đang năng dần tỷ trọng tiền gửi của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, mặc dù tiền gửi tiết kiệm , kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng phải huy động với một lãi suất khá cao làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Nhưng tổng nguồn vốn huy động được từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn tăng trưởng ổn định. Điều này là do ngân hàng đã nhận thức được vấn đề, nên ngân hàng đã tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán, tăng cường công tác tiếp thị khách hàng mở tài khoản thánh toán, thiết lập quan hệ giao dịch với khách hàng có tiềm năng để có thể huy động được nguồn vốn dồi dào, với chi phí thấp từ tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng, tạo một nền tảng phát triển bền vững. 2. Tình hình sử dụng vốn Đối với mỗi ngân hàng, huy động vốn được mà không sử dụng đồng vốn cho có hiệu quả, không làm cho đồng vốn sinh lời trong khi vẫn phải trả lãi suất huy động sẽ dẫn đến phá sản trong kinh doanh. Đặc biệt là sử dụng vốn đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vì đây là môi trường luôn có sự biến động . Trong thời gian qua chi nhánh Ngân hàng công thương HBT đã coi hoạt động tín dụng là trọng tâm tạo ra khoản thu nhập chính cho ngân hàng. Ngân hàng đã không ngừng mở rộng các hình thức tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của mình, đáp ứng nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế, gắn với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra. Do tình hình trong nước một vài năm gần đây có nhiều khó khăn, nền kinh tế thiếu các dự án đầu tư có hiệu quả , vì vậy lượng dự án có đủ điều kiện cho vay không nhiều, lại thêm sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng nên vốn đầu tư cũng bị hạn chế đối với từng ngân hàng. Nhưng với quyết tâm cao, Ngân hàng công thương HBT đã vận dụng kịp thời, linh hoạt các chủ trương chính sách đúng đắn của Nhà nước, các ngành, bám sát từng đơn vị kinh tế và có những giải pháp tích cực nên kết quả hoạt động của chi nhánh vẫn đạt kết quả tốt cả về tốc độ tăng trưởng và chất lượng các khoản đầu tư. Chi nhánh đã tăng cường đầu tư không những cho khu vực kinh tế quốc doanh mà còn đặc biệt chú trọng vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, ngành kinh tế trọng điểm, kinh tế mũi nhọn... Qua biểu 3 : phụ lục 4 : “ tình hình sử dụng vốn tại chi nhánh Ngân hàng công thương HBT năm 2003-2005” ta thấy : Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến 31/12/2003 đạt 1490 tỷ đồng đến năm 2004 doanh số cho vay tăng lên là 1670 tỷ đồng và con số này tiếp tục tăng năm 2005 tăng lên 2042 tỷ. Dư nợ cho vay của Ngân hàng công thương HBT không ngừng tăng lên qua các năm, nâng dần hệ số sử dụng vốn lên (xem biểu 4 : Hệ số sử dụng vốn của Ngân hàng công thương HBT qua các năm 2003-2005).Năm 2003 tổng nguồn vốn huy động là 2050 tỷ đồng, tổng nguồn vốn sử dụng là 1490 tỷ đồng với hệ số sử dụng vốn là 0.726.Năm 2004 tổng nguồn vốn huy động tăng lên 2260 tỷ đồng tổng nguồn vốn sử dụng là 1670 tỷ đồng và hệ số sử dụng vốn trong năm tăng lên và đạt 0.738. Năm 2005 các con số này đều tăng nhanh so với năm 2004, cụ thể là : tổng nguồn vốn huy động đạt 2600 tỷ đồng, tổng nguồn vốn sử dụng là 2042 tỷ đồng và hệ số sử dụng vốn là 0.785. Với hệ số sử dụng vốn tăng lên rõ ràng như vậy chứng tỏ tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng công thương HBT ngày càng được nâng cao hơn. Có được kết quả như trên chi nhánh đã có những giải pháp thích hợp với từng loại hình doanh nghiệp, áp dụng cơ chế linh hoạt...Đó là những giải pháp sau: Ngân hàng đã lựa chọn những khách hàng sản xuất kinh doanh có uy tín, có khả năng tài chính vững mạnh, lựa chọn những ngành, những mặt hàng mũi nhọn... Ngân hàng ưu tiên đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Mở rộng địa bàn hoạt động không chỉ trong quận HBT mà cón tới các khách hàng ở vùng khác. Ngân hàng bám sát các doanh nghiệp vừa và nhỏ xem xét đầu tư vốn hợp lý , giúp các doanh nghiệp từng bước ổn định sản xuất kinh doanh. Quan tâm đầu tư tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh. áp dụng các chính sách khách hàng thích hợp và mềm dẻo với từng doanh nghiệp nhằm tăng quy mô vốn đầu tư và tăng thị phần tín dụng với các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với các ngân hàng khác hệ thống để chuyển hẳn về vay vốn của chi nhánh trong số doanh nghiệp xây dựng... Qua đó ta thấy ngân hàng đã từng bước nâng cao nghiệp vụ tín dụng và tự khẳng định mình trên thị trường, dư nợ tăng liên tục qua các năm trong đó nợ quá hạn giảm dẫn từ 14 tỷ năm 2003 xuống còn 8 tỷ năm 2005. 3. Nghiệp vụ kinh doanh khác Cũng như mọi ngân hàng khác, NHCT Hai Bà Trưng cũng thực hiện chức năng chính của mình là đi huy động tiền gửi của nền kinh tế để cho vay. Điều này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội đó là tái sản xuất xã hội, còn đối với ngân hàng hoạt động cho vay có ý nghĩa sống còn vì có cho vay thì mới tạo ra lợi nhuận đảm bảo khả năng tồn tại của ngân hàng trong nền kinh tế. Xác định được điều quan trọng đó NHCT Hai Bà Trưng đang từng bước mở rộng thị phần và đối tượng cho vay, đang từng bước tăng tổng dư nợ. Trong công tác đầu tư cho vay, với bối cảnh môi trường đầu tư hết sức khó khăn, chi nhánh đặt ra quyết tâm đưa dư nợ tăng trưởng một cách lành mạnh vững chắc. Đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, chủ động bám sát các doanh nghiệp, phân tích kỹ những khó khăn, thuận lợi, dự đoán những vấn đề có thể nảy sinh để hạn chế rủi ro, những đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng. Quan trọng hơn là đồng vốn ngân hàng thực hiện đúng chức năng: Góp phần thúc đẩy nền kinh tế thủ đô phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chất lượng được xác định là mục tiêu hàng đầu, do vậy chi nhánh đã tích cực mở rộng thị phần, nâng cao chất lượng các khoản cho vay, không ngừng hoạn thiện việc thực hiện quy trình tín dụng kết hợp nâng cao trình độ chuyên môn và đề cao công tác thẩm định, bảo đảm hiệu quả các dự án cho vay nên vốn tín dụng của dự án có hệ số an toàn cao. Bên cạnh đó theo chỉ đạo của NHCT Việt Nam, để khắc phục những tồn tại cũ, làm lành mạnh các khoản nợ. Ban xử lý nợ tồn đọng đã được thành lập. Dựa trên cơ chế mới như: Thông tư liên bộ 03/2001/TTLB/NHNN-BCA-BTC-TCTD và các văn bản quy định khác, ban xử lý tài sản nợ tồn đọng đã nghiên cứu từng khoản nợ và đề ra những bước xử lý thích hợp, với những động thái tích cực đã tác động đến các khách hàng có nợ khó đòi.Kết quả đã làm tốt chỉ tiêu kế hoạch NHCT Việt Nam giao. Trong năm 2004 thu nợ được 5456 triệu đồng, trong đó xử lý nợ tồn đọng 4923 triệu đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn chỉ chiếm 1.09% trong tổng dư nợ và đầu tư trong năm 2004. Ngoài cho vay chính là các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh thì NHCT Hai Bà Trưng còn thực hiện cho vay đối với sinh viên. Việc cho vay sinh viên được triển khai thường xuyên và kịp thời hỗ trợ sinh viên trong quá trình học tập. Tính đến 31/12/2004 đã có 2218 sinh viên của các trường đại học :Bách Khoa, Xây Dựng, Viện Mở đã thực hiện vay vốn với tổng dư nợ 4,6 tỷ đồng ,tăng 35,3% so với cuối năm 2003. Cho vay cán bộ công nhân viên không có bảo đảm tài sản. Được thực hiện bảo đảm chế độ, cán bộ công nhân viên vay vốn chủ yếu là mua sắm phương tiện đi lại,sữa chữa nhà...đều trả nợ đúng cam kết. Đã có 470 cán bộ vay vốn với dư nợ là 3,6 tỷ đồng tăng 27% so với cuối năm 2003. III. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng. 1. Tình hình dư nợ quá hạn Nhìn vào bảng 8 phụ lục 8: thống kê nợ quá hạn ta thấy tỷ lệ nợ qúa hạn tại ngân hàng giảm dần qua các năm. Năm 2003 nợ quá hạn đối với DNNQD là 11 tỷ đến năm 2004 đã giảm xuống 8 tỷ và năm 2005 tiếp tục giảm xuống còn 6 tỷ. Tổng tỷ lệ nợ quá hạn của DNNQD so với DNNN là rất lớn. Điều đó chứng tỏ DNNQD vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận để nợ quá hạn chiếm đa số. Đây là vấn đề ngân hàng cần quan tâm, đi sâu tìm hiểu để có giải pháp cụ thể kịp thời, tạo môi trường thuận lợi giúp cho DNNQD phát triển hơn nữa, để ngân hàng không còn nợ quá hạn. Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng ngày càng nâng cao, với mức tăng trưởng cao qua các năm. Dư nợ cho vay của các tổ chức kinh tế đã tăng hơn so với các năm trước nhưng tỷ lệ số đơn vị vay còn thấp và nợ quá hạn tồn đọng, thu chậm, chưa có biện pháp xử lý đối với những món nợ chây ì. Trong tương lai chi nhánh Ngân hàng công thương HBT sẽ mở rộng hơn nữa về nghiệp vụ cho vay đối với thành phần kinh tế mới như xí nghiệp vừa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32623.doc
Tài liệu liên quan