Chuyên đề Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

 

Chương I : Những lý luận cơ bản về khu công nghiệp 3

1.1. Khái quát chung về KCN 3

 1.1.1. Khái niệm về KCN 3

 1.1.2 . Đặc điểm cơ bản của KCN. 3

 1.1.3. Phân biệt giữa KCN và KCX 5

 1.1.4. Vai trò của các KCN 8

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới KCN. 14

 1.2.1. Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý 15

 1.2.2. Cơ chế chính sách . 15

 1.2.3. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội của vùng. 16

 1.2.4. Vấn đề giải phóng mặt bằng và giá thuê đất 16

 1.2.5. Tổ chức quản lý , điều hành các KCN. 17

1.3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng khai thác sử dụng . 17

 1.3.1 Tỷ lệ diện tích được điền đầy. 17

 1.3.2. Số dự án đầu tư 18

 1.3.3. Tổng số vốn đầu tư 18

 1.3.4 . Tỷ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích 18

 1.3.5. Số lao động. 18

 1.3.6. % Đóng góp GDP. 19

1.4. Kinh nghiệm xây dựng và khai thác sử dụng các KCN của một số nước và bài học rút ra. 19

 1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước ASEAN 19

 1.4.2. Kinh nghiệm của Đài loan 22

 1.4.3. Những bài học kinh nghiệm 24

1.5. Khái quát tình hình phát triển các KCN ở Việt nam 27

 1.5.1. Số lượng các KCN & KCX đã hình thành. 27

 1.5.2. Thực trạng xây dựng và phát triển hạ tầng các KCN & KCX . 28

 1.5.3. Những đóng góp của các KCN & KCX Việt nam. 30

Chương II : Thực trạng của việc xây dựng và khai thác sử dụng của các KCN tại Hà nội trong thời gian qua. 34

2.1. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội của Hà nội 34

 2.1.1. Vị trí vai trò của thủ đô Hà nội. 34

 2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội . 35

 2.1.3. Những lợi thế của Hà nội trong việc thu hút đầu tư 37

2.2. Thực trạng xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà nội. 39

 2.2.1. Tình hình tổ chức và quản lý . 39

 2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển các KCN cũ . 41

 2.2.3. Quá trình xây dựng và hình thành các KCN của Hà nội. 42

 2.2.4. Tình hình khai thác sử dụng và những kết quả đẫ đạt được. 46

2.3. Đánh giá chung những thuận lợi ,khó khăn và vấn đề tồn tại đối với các khu công nghiệp Hà nội . 54

 2.3.1. Nhóm các vấn đề về khung pháp lý 54

 2.3.2. Nhóm các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước và thủ tục hành chính . 57

 2.3.3. Nhóm các vấn đề về tổ chức bộ máy của Ban quản lý 59

 2.3.4. Nhóm các vấn đề lên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở 60

 2.3.5. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ. 65

 2.3.6. Nhóm các vấn đề liên quan tín dụng và thị trường vốn . 68

 2.3.7. Chính sách thuế. 69

Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội 71

3.1. Quan điểm , phương hướng nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội trong thời gian tới. 71

 3.1.1 Sự cần thiết phải đẩy nhanh qúa trình xây dựng và khai thác các KCN tại Hà Nội. 71

 3.1.2 Quan điểm vấn đề xây dựng và khai thác sử dụng KCN tại Hà Nội. 74

 3.1.3. Phương hướng xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội. 74

3.2. Một số giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại đối với các khu công nghiệp Hà nội . 77

 3.2.1. Nhóm các giải pháp về khung pháp lý , quản lý nhà nước và thủ tục hành chính. 79

 3.2.2. Tiếp tục củng cố tăng cường nâng cao năng lực của bộ máy quản lý KCN. 81

 3.2.3. Xem xét lại quy hoạch phát triển KCN của Hà nội . 82

 3.2.4. Những giải pháp liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng . 83

 3.2.5. Những giải pháp liên quan đến dịch vụ 85

 3.2.6. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước. 88

 3.2.7. Tăng cường liên kết kinh tế giữa KCN và ngoài KCN. 89

 3.2.8. Giải quyết nhanh chóng khâu đền bù giải phóng mặt bằng 90

 3.2.9. Giải quyết nhà ở cho công nhân khu công nghiệp. 90

 3.2.10. Áp dụng phương thức đầu tư xây dựng nhà xưởng bán trả chậm cho các doanh nghiệp có nhu cầu di dời nhà xưởng từ nội thành vào các khu công nghiệp 91

 3.2.11. Tăng cường công tác tiếp thị đầu tư, vận động, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp hoạt động 92

 3.2.12. Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp . 93

3.3. Một số giải pháp về chính sách vĩ mô để khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư vào các KCN ở Việt nam nói chung và tại Hà nội nói riêng nhằm phát huy nội lực . 94

 3.3.1. Khẳng định vai trò của DNV & N ( Đặc biệt là DNV & N ở khu vực ngoài quốc doanh ) trong sự nghiệp phát triển kinh tế, tôn vinh các nhà doanh nghiệp. 94

 3.3.2. Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập và rút khỏi thị trường của các Doanh nghiệp, đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật 96

 3.3.3. Cải cách chính sách đất đai theo hướng tận dụng cơ sở hình thành thị trường đất đai , bất động sản. 97

 3.3.4. Cải cách hệ thống tín dụng phát triển thị trường vốn 99

 3.3.5. Cải cách chính sách lao động, hình thành phát triển thị trường lao động. 101

 3.3.6. Xây dựng chính sách cạnh tranh, kiểm soát độc quyền trong kinh doanh 103

 3.3.7. Đổi mới chính sách thương mại. Hỗ trợ DNV& N trong xuất khẩu

 106

Kết luận 112

Tài liệu tham khảo 113

 

 

 

doc116 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1073 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng và khai thác sử dụng các KCN tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c đưa ra từ lâu nhưng trên thực tế, các thủ tục hành chính rườm rà và tuỳ tiện còn được sửa đổi chưa đáng kể. Hệ thống phê duyệt đầu tư phức tạp này không những gây ra sự chậm trễ và không chắc chắn này đã làm gia tăng mức độ rủi ro và các chi phí giao dịch cho các dự án đầu tư ngay từ giai đoạn đầu tiên đồng thời có thể làm cho các nhà đầu tư mất đi cơ hội đầu tư và kinh doanh. Hệ thống cấp phép phức tạp, không rõ ràng trên không những làm tốn thời gian tiền bạc của các nhà đầu tư nước ngoài mà còn là cơ hội xuất hiện nạn tham nhũng trong quá trình xét duyệt, cấp phép cho các nhà đầu tư nước ngoài. Những vấn đề này là một trong những nguyên nhân làm cho mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt nam và Hà nội sụt giảm. Trong tình hình khoa học kỹ thuật và công nghệ đang có những bước tiến chưa từng có trong lịch sử, với điều kiện nhu cầu cuộc sống ngày càng đa dạng, thì việc thay đổi quy mô và lĩnh vực kinh doanh một cách linh hoạt nhằm thích nghi với thị trường là một nhân tố quan trọng của các nhà thầu đầu tư. Nhưng, theo quy định của pháp luật Việt nam, mỗi lần thay đổi quy mô và lĩnh vực, các nhà đầu tư lại phải xin phép và quy trình này cũng hầu như không khác gì so với xin phép đầu tư ban đầu. Như vậy, riêng việc đăng ký và bổ sung, sửa đổi đăng ký kinh doanh, khâu đầu tiên của cả quá trình kinh doanh đã là một trở ngại lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi có ý đồ đầu tư vào Việt nam cũng như đầu tư vào các KCN tại Hà nội làm ảnh hưởng không tốt tới quá trình xây dựng và khai thác sử dụng . Đối với các nhà đầu tư trong nước, thủ tục xin phép thành lập và đăng ký kinh doanh đã được cải thiện cơ bản từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực. Tuy vậy, việc đưa Luật Doanh nghiệp vào đời sống thực tế hoàn toàn không dễ dàng, quá trình này còn phải vượt qua một số khó khăn sau: Lâu nay, giấy phép, giấy chứng nhận vẫn được nhiều công chức, nhiều cơ quan coi như là một “công cụ quản lý Nhà nước”. Việc bãi bỏ giấy phép làm cho họ lúng túng, chưa xác định được phải tiếp tục quản lý các doanh nghiệp như thế nào. Một số giấy phép bị bãi bỏ vào thay bằng những điều kiện mà nhà đầu tư phải cam kết thực hiện trong suốt quá trình kinh doanh. Những bộ, ngành có liên quan còn chưa kịp thời nghiên cứu để đưa ra những điều kiện kinh doanh cụ thể, gây lúng túng cho các nhà đầu tư cũng như cơ quan đăng ký kinh doanh. Một số văn bản hướng dẫn cần thiết vẫn chưa được ban hành, đặc biệt là hệ thống tổ chức cơ quan đăng ký kinh doanh. Số lượng và trình độ cán bộ của cơ quan đăng ký kinh doanh nói chung còn thiếu và yếu, trang thiết bị còn kém, chưa đủ khả năng để nối mạng toàn quốc. Điều này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc thực hiện chức năng của mình. Mặc dù Chính phủ đã có một số chính sách về phân cấp tạo điều kiện cho Ban Quản lý KCN Hà nội thực hiện chính sách "một cửa", song các cơ quan chức năng khác lại quá chậm trễ khi ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể làm cản trở tác dụng tích cực của những chính sách này. Trên thực tế tại Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội, cơ chế “một cửa”, “ tại chỗ ” vẫn đang còn bị vướng mắc tương đối nhiều , giấy phép xây dựng, giấy phép lao động vẫn chưa được uỷ quyền cho Ban Quản lý, các nhà đầu tư và những người lao động vẫn phải theo cơ chế "nhiều cửa", nhiều nơi" với những thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian , Một số chủ trương phân cấp và uỷ quyền đã được TW ban hành nhưng chưa được Thành phố Hà nội thực hiện . Tương tự như một số Bộ, ngành ở cấp TW, UBND Thành phố Hà Nội vẫn chưa kịp thời ban hành những hướng dẫn cụ thể để triển khai một số chủ trương phân cấp và uỷ quyền cho Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội, ví dụ việc phân cấp giấy phép đầu tư cho các doanh nghiệp trong nước và đầu tư vào KCN vẫn chưa được phân cho Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội mà do cơ quan quản lý Nhà nước khác phê duyệt. làm giảm tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư khi đầu tư vào các KCN . 2.3.2. Nhóm các vấn đề liên quan đến quản lý Nhà nước và thủ tục hành chính. 2.3.2.1. Sự phối hợp giữa Ban Quản lý và Ban, ngành của TW và Thành phố cũng như với Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng chưa thực hiện sự thông suốt. Trong điều kiện chưa thực hiện được cơ chế "một cửa", tại chỗ", việc phối hợp giữa Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội và các cơ quan chức năng của TW và Thành phố cũng như với Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng sẽ có ý nghĩa quyết định cho việc đơn giản hoá các thủ tục cho nhà đầu tư. Trong thời gian qua, do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là việc phân công và sự nỗ lực của cán bộ trong Ban Quản lý và các cơ quan liên quan, nên việc phối hợp này còn chưa kịp thời và nhịp nhàng. Điều đó đã gây trở ngại cho các nhà đầu tư, nhất là việc kéo dài thời gian thực hiện các thủ tục cần thiết. 2.3.2.2. Thủ tục Hải quan chưa thực sự thuận lợi cho doanh nghiệp. Do hầu hết các doanh nghiệp trong KCN đều có hoạt động xuất nhập khẩu nên công tác hải quan tại KCN sẽ có một vai trò quan trọng cho việc hỗ trợ các doanh nghiệp tại đây. Cho đến nay, các doanh nghiệp này vẫn phải trải qua đầy đủ tất cả các thủ tục, gặp tất cả các khó khăn trong quá trình này giống như các doanh nghiệp ngoài KCN. Sau khi Nghị định 57/1998 được ban hành, thủ tục hải quan đã có những bước chuyển biến cơ bản trong năm 1999, thời gian thông qua đã được rút ngắn đáng kể. Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể, nhưng hiện nay, hải quan vẫn là một trở ngại không nhỏ cho các doanh nghiệp trong quá trình xuất nhập khẩu. Một số trở ngại chính là: - Thủ tục khai hải quan còn phức tạp, có thể đơn giản hoá tiếp được. - Công tác giám quản vừa phiền hà, vừa không hiệu quả. - Việc áp dụng mã thuế hải quan vẫn còn mang tính tuỳ tiện, gây phiền hà và tạo cơ hội cho nạn tham nhũng phát triển. Việc cải tiến thủ tục hải quan cho các doanh nghiệp trong KCN sẽ là một nhân tố làm hấp dẫn môi trường đầu tư vào các KCN trên địa bàn Hà Nội. 2.3.2.3. Thời gian giải quyết một số thủ tục hành chính còn kéo dài so với các địa phương khác. Bên cạnh sự phối hợp thiếu nhịp nhàng và kịp thời giữa các cơ quan chức năng như đã nêu trên , thời gian giải quyết thủ tục hành chính còn kéo dài hơn nhiều so với các địa phương khác, ví dụ quá trình thẩm định thiết kế kỹ thuật, thẩm định môi trường cho các sự án nằm trong KCN. Cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian phê duyệt trên cơ sở phân tích từng công đoạn của quá trình thực hiện thủ tục này sẽ là một yếu tố giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí giao dịch trong quá trình sản xuất kinh doanh. 2.3.3. Nhóm các vấn đề về tổ chức bộ máy của Ban Quản lý. 2.3.3.1. Bộ máy tổ chức của Ban quản lý chưa hoàn chỉnh. Cho đến nay, mặc dù đã thành lập được hơn 5 năm song tổ chức bộ máy của Ban quản lý các KCN và CX Hà Nội vẫn chưa được hoàn chỉnh theo quy định của Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ. Theo quy định, Ban Quản lý KCN cấp tỉnh được phép có 7 bộ phận là: Phòng quản lý doanh nghiệp, Phòng quản lý xuất nhập khẩu, Phòng quản lý đầu tư. Phòng quy hoạch môi trường, Đại diện ban quản lý tại các KCN, Phòng quản lý lao động và Văn phòng ban. Hiện nay ban quản lý các KCN và CX Hà Nội chưa có Phòng Quản lý Lao động và Đại diện ban quản lý tại các KCN. 2.3.3.2. Định biên chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Số biên chế chính thức tại Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội hiện nay là 25, số lao động hợp đồng là 7. Với số lượng biên chế như vậy, Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội khó có khả năng đáp ứng được yêu cầu công việc tại Ban. So sánh với Ban Quản lý KCN tại một số tỉnh thành khác (ví dụ: TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương...) thì số lượng này còn quá ít ỏi. 2.3.3.3. Cơ sở vật chất, tài chính và trang thiết bị còn yếu và thiếu. Hiện nay trụ sở Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội còn quá chật hẹp, không những không đủ điều kiện để tiếp khách, đặc biệt các nhà đầu tư nước ngoài, mà còn thiếu cả chỗ làm việc cho các chuyên viên trong Ban. Trang thiết bị còn thiếu, không đủ cho các cán bộ nhân viên của Ban sử dụng. Tổ chức bộ máy chưa hoàn chỉnh, trình độ cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc cùng với cơ sở thiết bị yếu và thiếu là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả trong công việc quản lý Nhà nước của Ban. Mặc dù điều kiện ngân sách Nhà nước còn eo hẹp nhưng với ngân sách hàng năm cấp cho Ban chỉ đủ trả lương và một phần chi phí hành chính thì Ban khó có khả năng nâng cao chất lượng công tác của mình, đặc biệt trong vấn đề tư vấn hỗ trợ cho doanh nghiệp trong KCN. Điều này cũng gây khó khăn cho Ban trong việc nâng cao tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư trong các KCN. 2.3.3.4. Vị trí pháp lý hiện tại của Ban chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của Chính phủ. Theo quyết định thành lập Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội, thì Ban quản lý là một tổ chức theo ngành dọc, có sự phối hợp với cơ quan hành chính tại địa phương. Tuy vậy, từ một năm nay, sau khi Ban Quản lý các KCN và CX TW giải thể, vị trí pháp lý của Ban Quản lý các KCN và CX Hà Nội trở nên không rõ ràng. Đây cũng là một yếu tố gây trở ngại cho Ban trong các hoạt động của mình, đặc biệt là trong các hoạt động phối hợp với các cơ quan chức năng khác. 2.3.4. Nhóm các vấn đề liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở . 2.3.4.1. Khung giá đất còn cao, khó thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Theo Luật đất đai, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được quyền thuê đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Thời gian thuê phụ thuộc vào nhiều yếu tố mang tính chủ quan cho từng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, để có thể thuê được mảnh đất phù hợp hoàn toàn không dễ dàng. Có lẽ vì vậy, các doanh nghiệp nước ngoài thường lựa chọn hình thức Liên doanh, trong đó doanh Việt nam đóng góp quyền sử dụng đất. Theo Quyết định 137 - HĐBT (năm 1992), giá thuê đất do Nhà nước quy định, việc điều chỉnh giá cho phù hợp với tình hình biến động tại các địa phương phải do Chính phủ phê duyệt. Quá trình xác định giá thuê đất kéo dài quá lâu, khi giá được xác định thì trên thực tế nó đã bị chênh lệch tương đối nhiều so với thị trường phi chính thức. Ngoài ra, khi nhận được quyết định thuê đất, các doanh nghiệp vẫn chưa "thoát hiểm", để có thể tiến hành thi công, nhiều doanh nghiệp phải còn thực hiện việc đền bù cho người sử dụng đất trước đó. Theo quy định, giá đền bù cũng do Nhà nước quy định, song trên thực tế các bên phải tiến hành đàm phán tương đối lâu và nhiều dự án đã bị đổ bể vì không thoả thuận được giá và phương thức đền bù. Do vậy đất đai luôn là một trong những vấn đề khó khăn nhất đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong suốt thời gian qua. Do nhiều lý do, thị trường bất động sản chính thức vẫn chưa được hình thành ở Việt nam. Tuy vậy, bất động sản, đặc biệt bất động sản tại các đô thị vẫn được chuyển nhượng và nhiều "cơn sốt đất" đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế của địa phương. Đối với các KCN Hà nội thì vấn đề đất đai còn có thêm những yếu tố phức tạp hơn, nổi bật nhất là cơ chế định giá: giá đất không thể hiện cung cầu của thị trường, mà theo một cơ chế hành chính cứng nhắc. Khung giá đất lại do Trung ương quản lý nên Hà nội không có điều kiện điều chỉnh kịp thời khi thị trường biến động hoặc môi trường đầu tư thay đổi. Giá đất tại các KCN ở Hà Nội hiện nay là cao nhất so với tất cả các KCN trên cả nước, bên cạnh đó quản lý phí tại các KCN Hà Nội cũng còn quá cao so với ở những KCN khác. Những điều này làm giảm đáng kể sức hấp dẫn của các KCN Thủ đô. Tận dụng lợi thế cơ sở hạ tầng của Hà Nội, các tỉnh giáp ranh đã xây dựng những KCN ở ngay gần ranh giới và vì thế, nhiều nhà đầu tư đã chuyển các dự án đến những KCN này thay vì đầu tư vào các KCN của Hà Nội. 2.3.4.2. Thành phố có biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp khi thuê đất tại Khu Công nghiệp. Với mục tiêu "lấy đầy", các KCN không được phép chỉ chú ý tới nguồn đầu tư nước ngoài mà bên cạnh đó còn phải quan tâm tới việc thu hút các nguồn đầu tư trong nước. Mặt khác, một số doanh nghiệp trong nước muốn mở rộng quy mô sản xuất nhưng lại gặp một số trở ngại lớn là giới hạn về mặt bằng sản xuất tại cơ sở cũ (thường là ở nội thành). Nhiều doanh nghiệp sẵn sàng hoán đổi diện tích trong nội đô lấy diện tích rộng hơn ở KCN song cho đến nay chưa thể thực hiện được do chưa có chính sách khuyến khích thoả đáng đáp ứng được yêu cầu này. Việc di dời một số doanh nghiệp ra khỏi nội đó là một chủ trương đúng đắn để bảo vệ môi trường, đảm bảo cơ sở cho sự phát triển bền vững. Tuy vậy, chủ trương này mới chỉ được nêu ra trên hình thức, giấy tờ, chưa được Hà Nội khuyến khích bằng các biện pháp cụ thể, chưa có một chính sách tài trợ nào giúp đỡ cho các doanh nghiệp thực hiện quá trình này. 2.3.4.3. Khó khăn trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các doanh nghiệp thuê lại đất trong Khu Công nghiệp. Hiện tại, quyền sử dụng đất được bảo đảm trên cơ sở tự do sử dụng có chỉ rõ mục đích sử dụng và người sử dụng. Khả năng chuyển nhượng đất vẫn còn bị hạn chế. Những hàng rào cản trở việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất chính là nằm trong các thủ tục hành chính. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể còn mất năm nữa mới có thể hoàn tất mặc dù Chính phủ đã có chủ trương kết thúc việc này trong năm 2000 và Tổng Cục địa chính đã ban hành thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong khi đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một yêu cầu bắt buộc trong bất cứ giao dịch nào liên quan đến đất đai. Hậu quả là người ta phải vi phạm pháp luật: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất, xây dựng các công trình để ở hoặc kinh doanh mà không đủ các giấy tờ cần thiết. Ngoài việc hạn chế sử dụng hiệu quả đất đai, những cản trở về chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn làm giảm giá trị của đất đai. Do đó, có khi giá chuyển nhượng thấp hơn giá trị thực của nó , điều này làm cho nguồn lực bị phân bố kém hiệu quả. Mặc dù người sử dụng đất trong nhiều trường hợp được thế chấp quyền sử dụng đất tại Ngân hàng Việt nam để vay vốn, nhưng các yếu tố cản trở việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó làm giảm mức độ hữu ích của quyền sử dụng với tư cách là vật thế chấp để vay vốn do giá trị của đất không chắc chắn và khả năng dựa vào thế chấp đất để thu hồi nợ không rõ ràng. Hiện nay, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới chỉ được trao cho doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng. Tiếp theo đó, khi doanh nghiệp đầu tư vào KCN, phải trả tiền thuê đất một lần cho thời gian nhiều năm không nhận được giấy chứng nhận "con". Đây là một điều thiệt thòi cho các doanh nghiệp hoạt động trong KCN bởi lẽ mặc dù họ đã phải bỏ một khoản vốn tương đối lớn song lại không có quyền dùng tài sản này (bằng quyền sử dụng đất) để thế chấp khi cần vay tín dụng. Khó khăn này không chỉ riêng hà Nội, vấn đề đặt ra ở đây có lẽ thuần tuý là một vấn đề kỹ thuật. Nếu cơ quan địa chính cùng ngân hàng nỗ lực giải quyết thì chắc chắn chỉ cần một thời gian ngắn họ sẽ gỡ được một vướng mắc quan trọng cho các doanh nghiệp trong KCN. 2.3.4.4. Giải phóng mặt bằng khó khăn, chi phí cao. Vấn đề giải phóng mặt bằng hiện nay đang là một vấn đề bức xúc trong xã hội. Việc khiếu kiện của dân trên lĩnh vực này có lẽ chiếm tỷ lệ cao nhất trong các đơn khiếu kiện. Cần nhìn nhận vấn đề này từ lợi ích của Nhà nước và từ lợi ích của người dân theo ít nhất 3 khía cạnh sau: - Giá đền bù: Nguyên tắc đền bù hiện nay vẫn theo quy định của Nhà nước. Vì giá thường quy định tương đối cứng nhắc nên bao giờ cũng bị phía người dân phàn nàn quá thấp, trong khi đó các cơ quan Nhà nước lại cho rằng quá cao. Điều đó thường dẫn đến kéo dài thời gian thoả thuận và thậm chí quá trình này bị dây dưa trong vòng nhiều năm. Nhiều nơi, do những thoả thuận ban đầu chưa chặt chẽ , người dân lợi dụng những điều kiện đền bù hoa màu, trồng bổ sung thêm cây hoặc dụng thêm nhà để được hưởng giá đền bù cao hơn. - Thủ tục: Thủ tục đền bù không đơn giản cũng dẫn đến việc kéo dài thời gian xử lý việc đền bù. Đặc biệt, do nhu cầu sinh hoạt, quá trình xác định đất đền bù hoán đổi cũng không được thực hiện nhanh làm cản trở quá trình đền bù để giải phóng mặt bằng cho KCN. Thái độ: Đất đai là một vấn đề nhạy cảm, dễ bị khiếu kiện. Có lẽ vì thế nên vấn đề này thường bị các công thức và các cơ quan Nhà nước có liên quan hoặc là lạm dụng hưởng lợi (số vụ tham nhũng với lý do liên quan đến đất đai chiếm tỷ lệ rất cao trong các vụ tham nhũng bị phát hiện trong thời gian qua) hoặc né tranh, không muốn can thiệp, giải quyết dứt điểm. Lý do thứ hai đã làm cho việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai không dứt khoát, tạo điều kiện cho những kẻ chây ỳ cản trở quá trình giải phóng mặt bằng. Nguy hiểm hơn, có địa phương việc chây ỳ này lại còn được thực hiện một cách có tổ chức dưới sự bao che của một số cán bộ ở thôn, xã. 2.3.4.5. Quy hoạch thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch đất đai và không gian ở Việt nam trong suốt thời gian qua chưa có cơ sở khoa học, đặc trưng chủ yếu của việc quy hoạch là tính không ổn định và không tường minh. Điều này là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra những cơn "sốt đất" đồng thời cũng là một mầm mống cho sự phát triển của căn bệnh tham nhũng ở Việt nam. Quy hoạch là một vấn đề nổi cộm không chỉ tại Hà Nội mà còn ở nhiều địa phương khác trên cả nước. Quy hoạch rồi điều chỉnh quy hoạch rồi lại sửa đổi quy hoạch đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng trong việc tạo mặt bằng sản xuất. Quá trình quy hoạch thường được thực hiện thiếu công khai, thiếu dân chủ đã tạo điều kiện cho một số quan chức tham nhũng hoặc lạm dụng thu lợi bất chính. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng tiêu cực đến lòng tin của ngươì dân vào Đảng , vào chính quyền, gây ra nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội. 2.3.4.6. Cơ sở hạ tầng trong và ngoài Khu Công nghiệp thiếu đồng bộ. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Việt nam và Hà nội còn quá yếu, ít nơi đạt được yêu cầu của các nhà đầu tư. Ngoài điện, nước, giao thông, các doanh nghiệp còn cần một hệ thống thoát nước, liên lạc... với chất lượng cao. Nhiều doanh nghiệp đã phải tự bỏ tiền ra để đầu tư công trình hạ tầng, kể cả ngoài hàng rào (ví dụ: trạm biến thế, đường, cầu...) hoặc có doanh nghiệp còn phải xây dựng một hệ thống phát điện độc lập. Tất cả những vấn đề đó đã buộc doanh nghiệp phải thanh toán những chi phí phát sinh không nhỏ ở những quốc gia khác họ không phải bỏ tiền. Về nguyên tắc, Nhà nước đảm bảo các công trình hạ tầng đến chân hàng rào KCN. Tuy vậy, trong quá trình hình thành và phát triển các KCN tại Hà nội vừa qua, việc phối hợp xây dựng các công trình trong và ngoài hàng rào chưa thực hiện đồng bộ làm cản trở tiến độ triển khai KCN. Việc cung cấp điện cho các KCN không ổn định, đặc biệt là cắt điện đột xuất cũng là một nhân tố ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN. 2.3.5. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ. 2.3.5.1. Các dịch vụ Khu Công nghiệp còn thiếu (nhà ở, trường học, ngân hàng...). Một trong những yếu tố quan trọng làm hấp dẫn môi trường đầu tư vào các KCN là điều kiện cung cấp dịch vụ ở KCN còn thiếu. Vị trí các KCN ở vùng ngoại ô thành phố, hầu hết lao động, đặc biệt là các lao động có tay nghề cao đều ở trong nội độ, Trong điều kiện chưâ có những cơ sở hạ tầng xã hội như nhà ở, trường học, ngân hàng... ở gần khu vực KCN thì việc thu hút các nhà đầu tư cũng như thu hút lực lượng lao động có tay nghề cao còn là một vấn đề hết sức khó khăn. 2.3.5.2. Giá một số dịch vụ còn cao. Bên cạnh phí quản lý cao ở KCN, các doanh nghiệp trong KCN nói riêng và tại Việt nam nói chung đang còn phải chịu cước dịch vụ rất cao so với các quốc gia khác (điện, nước, viễn thông, phí vận chuyển...). Điều này làm giảm ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút các nhà đầu tư vào Việt nam nói chung và vào các KCN nói riêng. 2.3.5.3. Vấn đề tuyển dụng lao động còn nhiều bất cập. Thị trường lao động đã có một số biến đổi cơ bản từ khi tiến hành cải cách kinh tế. Bộ Luật lao động đã được ban hành năm 1994 đã tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động trên thị trường này. Tuy vậy, nội dung Bộ luật lao động và các văn bản pháp lý liên quan khác còn quá thiên về việc bảo vệ quyền của người lao động, chưa tạo ra được tính linh hoạt trong thị trường, có phần làm cản trở quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Những quy định quá chặt chẽ về tuyển dụng và thải hồi lao động đã làm cho chủ doanh nghiệp phải rất thận trọng trong việc tuyển người, gây khó khăn đối với việc di chuyển lao động và cơ cấu lại lao động. Những quy định về hợp đồng lao động và tổ chức công đoàn, trên thực tế, chưa phù hợp với các doanh nghiệp quy mô nhỏ trong giai đoạn khởi nghiệp, khi mà chủ doanh nghiệp còn chưa khẳng định được vị trí của mình trên thị trường. Chính sách thu nhập hiện nay cũng chưa đáp ứng được đòi hỏi của cả phía người lao động lẫn người sử dụng lao động. Quy định về mức lương tối thiểu chỉ mang lại lợi ích cho một bộ phận xã hội (những người đã có việc làm) và hạn chế cơ hội cho những người đang tìm việc. Tương tự như vậy, trong điều kiện hiện nay, vấn đề áp đặt tham gia bảo hiểm xã hội đối với cả những doanh nghiệp quy mô nhỏ với mức đóng góp tương đối lớn (15% quỹ lương) thực sự không khuyến khích được các nhà đầu tư thu hút thêm nhiều lao động mà họ sẽ tìm cách "trốn bảo hiểm" hoặc tăng giờ làm thêm chứ không nhận thêm lao động. Trong giai đoạn đầu thực hiện chính sách mở cửa, nhiều người hy vọng rằng lực lượng lao động Việt nam sẽ là một yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài , điều này không hoàn toàn đúng. Lao động Việt nam chỉ nhiều về số lượng chứ không mạnh về chất lượng. Yếu tố này chỉ thu hút được đầu tư một số lĩnh vực cần nhiều lao động như dệt may, da giầy... Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đã làm mất giá đồng tiền ở nhiều quốc gia và làm cho tiền lương tương đối ở những nước này giảm hẳn và lợi thế tiền lương thấp đã dịch chuyển về các quốc gia đó. Như vậy, cần sử dụng lợi thế về chất của lao động Việt nam, đó là sự nhanh nhẹn và khéo léo cùng trí tuệ của lao động. Những lợi thế này phải trải qua một qúa trình đào tạo, song chất lượng của hệ thống đào tạo ở Việt nam lại không đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Một trong những trở ngại lớn nữa đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là họ không được phép trực tiếp tuyển chọn lao động mà phải thông qua một tổ chức trung gian Việt nam (Theo Luật lao động và Nghị định 85/CP). Trở ngại này đã được khắc phục một phần thông qua việc giới hạn thời gian trả lời của cơ quan chức năng (trong vòng 15 ngày). Tiền lương tối thiểu được xác định nhằm mục tiêu không cho phép những người sử dụng lao động bóc lột quá mức người lao động. Nhưng, từ giác độ khác, cũng có thể đưa ra một số bất cập bởi quy định này , trong tình hình sức ép việc làm đang căng thẳng như hiện nay , nhu cầu việc làm còn rất lớn (kể cả việc thời vụ hoặc không đủ ngày) thì điều kiện này sẽ hạn chế các nhà đầu tư tuyển dụng thêm lao động. Chính sách lao động hiện nay đang thiên về hướng bảo vệ người lao động đang có việc làm. Điều này hoàn toàn đúng với giác độ dài hạn , song trong tình hình tỷ lệ người lao động không có việc làm hoặc chưa sử dụng đủ thời gian lao động (như nông dân) thì chính sách này dã hạn chế khả năng tìm việc làm của một số người này. Nói cách khác, chính sách này đã làm giảm tính năng động và linh hoạt của thị trường lao động, có tác động xấu đến chất lượng lao động nói riêng và chất lượng của nền kinh tế nói chung. Thuế thu nhập cá nhân hiện nay ở Việt Nam hầu như chỉ được áp dụng trong khu vực đầu tư nước ngoài. Điều đó tạo ra một môi trường cạnh tranh bất bình đẳng, có hại cho khu vực này. Hơn nữa, thuế suất lại cao nhất trong khu vực nên không thể thu hút được lao động có tay nghề cao. Điều đó không những hạn chế các ngành công nghệ tiên tiến mà còn hạn chế cả việc tuyển dụng lao động bình thường ở Việt Nam. Bên cạnh những khó khăn về khung khổ pháp lý trong việc tuyển dụng lao động ( được trình bày ở phần trên ), việc tuyển dụng lao động ở Hà Nội cho các KCN cũng còn nhiều bất cập. Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng có lục lượng lao động dồi dào , nhưng chỉ là lao động tay nghề thấp. Khả năng đáp ứng nhu cầu về lao động có tay nghề cao cho một số lĩnh vực, đặc biệt là các ngành công nghệ cao đang còn yếu, các doanh nghiệp phải tự đào tạo lấy lao động của mình. Tuy vậy, do môi trường pháp lý ở Việt nam còn chưa hoàn chỉnh, ý thức pháp luật của người dân chưa cao nên vẫn còn tồn tại nguy cơ đối với các doanh nghiệp là việc lao động tự bỏ việc, ký hợp đồng với công ty khác sau khi được công ty cũ đào tạo . 2.3.5.4. Chưa có dịch vụ cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp. Thông tin ngày càng trở nên một yếu tố quan trọng trong việc củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong thời gian qua, dịch vụ cung cấp thông tin (pháp lý và thị trường) cho các doanh nghiệp còn rất yếu kém. Nguyên nhân có nhiều nhưng có lẽ quan trọng nhất là vấn đề nhận thức của cán bộ nhân viên, việc tuyên truyền pháp lý của các cơ quan chức năng và nguy hiểm hơn, một số công chức cố tình giữ (hoặc kìm) thông tin để hưởng lợi một cách bất hợp pháp. 2.3.6. Nhóm các vấn đề về tín dụng và thị trường vốn . Đối với các doanh nghiệp trong nước, vốn vẫn là một trong những vấn đề khó khăn nhất. Việc tiếp cận với các nguồn tín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0069.doc
Tài liệu liên quan