Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không

Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể hiểu được bản chất của nó cần phải phân biệt rõ hiệu quả và kết quả.

Có thể hiểu kết quả là chỉ tiêu kinh tế phản ánh lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong hoạt động kinh doanh của mình. Bất cứ một hành động nào của con người đều đạt tới một kết quả nào đó, cho dù là kết quả tốt hay xấu. Trong kinh doanh thì kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả đó có thể cân đo đong đếm như số sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận. và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng, hoàn toàn có tính chất định tính như: uy tín, chất lượng sản phẩm. Nhưng đối với doanh nghiệp thì các kết quả đó không cho thấy được trình độ quản lý, trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp mà phải thông qua khái niệm “hiệu quả”.

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1635 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty In Hàng không, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới hợp lý. Về thực tiễn tính toán thống kê ở nước ta, vẫn chưa thể tính chính xác được tỷ lệ thất nghiệp hiện nay và những năm tới. Và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nước ta hiện nay bao nhiêu là hợp lý. Do vậy, điều kiện thực tế nước ta chưa cho phép vận dụng quan điểm này. Hơn nữa, có thể phương pháp này chỉ tính được ở phạm vi toàn nền kinh tế hoặc các vùng. Còn ngành thì tính sao. ở phạm vi ngành không thể có khái niệm thất nghiệp tự nhiên được. Sản lượng tiềm năng ở phạm vi ngành cũng có thể xác định được nhưng không phải tính trên cơ sở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Như vậy, phương pháp này chỉ thuận lợi ở phạm vi toàn nền kinh tế mà không áp dụng được cho phạm vi ngành, không tạo ra được mối liên hệ giữa hiệu quả toàn bộ và hiệu quả bộ phận. Khi đó chúng ta sẽ không phân tích được vai trò của các bộ phận, các ngành trong hiệu quả chung nền kinh tế quốc dân. Tóm lại, quan điểm này rất độc đáo và có ý nghĩa về mặt nhận thức phạm trù hiệu quả, nhưng về lý luận và thực tiễn còn phải tìm hiểu thêm và thục tế chưa thể áp dụng ở nước ta. 4.Quan điểm thứ tư. Coi hiệu quả là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống nhân dân, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song, khó khăn ở đây lại là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng, rất đa dạng, rất phong phú, nhiều hình nhiều vẻ, phản ánh trong các chỉ tiêu thống kê mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao mức sống là điều kiện khó khăn. Quỹ tiêu dùng là một bộ phận thu nhập quốc gia, bộ phận quốc gia còn lại là quỹ tích luỹ. Chọn quỹ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả là chưa thấy đầy đủ vai trò của quỹ tích luỹ là nhằm phats triển sản xuất, là để có tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Không thể đưa quỹ tiêu dùng lên tối đa mà lại không tuân theo một tỷ lệ thích hợp giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng, kết hợp một cách tốt nhất lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. ở đây, cần phân biệt hiệu quả và vai trò tác dụng của nó. Hiệu quả nói chung hay hiệu quả nền kinh tế nói riêng có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao mức sống nhân dân. Nó là phương tiện để đi đến thoả mãn mục tiêu cao hơn là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng và sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội. Bản thân hiệu quả không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện, phải xác định nó ở dạng công cụ chứ không phải ở tác dụng của nó. Nói theo ngôn ngữ của lý thuyết mục tiêu, mỗi hệ thống đều có một mục tiêu ngoài (mục tiêu cuối cùng) cần đạt tới nhưng việc đạt tới nó phải thông qua mục tiêu trong là mục tiêu trực tiếp của hệ thống. Mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân của hệ thống kinh tế chỉ có thể thực hiện được khi đạt tới mục tiêu trong sản xuất thu nhập quốc gia với chi phí hợp lý tốt nhất và sự thực hiện mục tiêu trong trực tiếp đó mới phản ánh hiệu quả... Vì vậy, hiệu quả của hệ thống kinh tế phải đo lường một cách trực tiếp bởi sự đáp ứng mục tiêu trong cuả hệ thống. 5. Quan điểm thứ năm. Cho rằng hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải giá trị. Theo quan điểm này, mức độ thoả mãn nhu cầu xã hội phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ thể chứ không phải giá trị trừu tượng nào đó. Tạp chí kinh tế và phương pháp toán của Viện toán kinh tế Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô (cũ) đã đăng nhiều bài ủng hộ quan điểm này. Họ tiếp cận tính hữu ích của sản phẩm bằng các hàm số và các đại lượng do tốc độ tiêu dùng của các dạng của cải. Yếu tố thời gian cũng được xét tới, so với những của cải mới làm ra thì những của cải lâu năm bị giảm tính hữu ích đi nhiều. Nhược điểm của cách tiếp cận này là không thể xác định được tính hữu ích ở dạng tổng thể gộp lớn. Loanh quanh thế nào rồi họ cũng đi đến thước đo giá trị, không ở dạng trực tiếp thì cũng ở dạng trung gian đo lường mức hữu ích của sản phẩm. Hầu hết các nhà kinh tế ở các nước đều công nhận rằng cùng lắm chỉ có thể đặt vấn đề về sự ưu việt của rạng của cải này hơn dạng của cải khác chứ không thể đo lường tính hữu ích của chúng bằng một đơn vị đo nào cả. 6. Quan điểm thứ sáu. Cho rằng hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội, của nền kinh tế quốc dân. Ưu điểm của quan điểm này là đã gắn kết quả với chi phí, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí. Nhược điểm của quan điểm này là chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi ở phương diện xác định và tính toán. Cụ thể là, “chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích” vì rằng muốn biết mức độtiết kiệm thì phải có hai phương án để so sánh. Điều đó chỉ có trong lĩnh vực kế hoạch chọn các phương án sản xuất hoặc dự án đầu tư. Trong thống kê, mỗi đối tượng trong một phạm vi thời gian và không gian cụ thể, chỉ có một kết quả và một chi phí tương ứng, làm sao biết được mức độ tiết kiệm. Chố không rõ ràng ở đây là không phân biệt giữa kế hoạch và thống kê, giữa tương lai và quá khứ, khi đưa ra các yêu cầu “lớn nhất” “bé nhất” max và min trong khi chỉ có một trị số của chỉ tiêu được xét. Từ các quan điểm trên ta có thể xem vai trò và chức năng của hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội trong phát triển sản xuất, thể hiện ở tỷ lệ tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Toàn bộ mức tăng trưởng kinh tế có thể chia làm hai phần: phần tăng trưởng theo chiều rộng, tức là dựa vào sự thu hút thêm vào sản xuất các nguồn lực; phần tăng trưởng theo chiều sâu là phần tăng trưởng dựa vào nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội. Để đảm bảo kết quả đúng đắn, khách quan, phân tích và dự đoán hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội cũng giống như các lĩnh vực khác, phải tuân theo những yêu cầu sau: Một là, phân tích và dự đoán phải tiến hành trên cơ sở phân tích lý luận kinh tế xã hội. Phân tích lý luận giúp ta hiểu tính chất xu hướng chung của hiện tượng trên cơ sở đó dùng số liêụ và phương pháp phân tích khẳng định tính chất cụ thể của nó. Thí dụ, trong lý luận kinh tế chính trị học, có quy luật năng suất lao động tăng lên không ngừng. Phân tích và dự đoán cụ thể về năng suất lao động tăng lên thực sự là hợp quy luật, ngược lại, năng suất lao động giảm xuống, trái với quy luật, phải tìm hiểu nguyên nhân vì sao, số liệu không đúng hay thực tế khách quan của đối tượng nghiên cứ như vậy. Hai là, phân tích và dự đoán thống kê hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội phải căn cứ vào tính tổng thể thống nhất của đối tượng được nghiên cứu và đặt các chỉ tiêu trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Phân tích và dự đoán phải sử dụng nhiều chỉ tiêu, mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiện tượng. Nếu đặt cô lập chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác chúng ta không thể thấy thực chất của hiện tượng, vì sự tồn tại của hiện tượng không phải là kết quả tổng cộng đơn giản các mặt của nó mà là các mặt liên kết với nhau, mặt này làm cơ sở cho mặt kia, đồng thời chịu tác động lẫn nhau. II. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh doanh. 1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nói đến doanh nghiệp là người ta nhắc ngay tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là một quá trình bao gồm nhiều khâu trong lĩnh vực sản xuất lưu thông. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp. Trong bất kỳ quốc gia nào, cơ chế nào, thì kinh doanh đều phải luôn lấy hiệu quả làm mục tiêu phấn đấu. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Trong thực tế, khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định. Trong xã hội tư bản thì giai cấp tư bản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, việc phấn đấu tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh thực chất là đem lại lợi nhuận nhiều hơn nữa cho nhà tư bản. Trong xã hội, xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất vẫn là nền sản xuất hàng hoá do đó phạm trù hiệu quả vẫn tồn tại. Do các tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, toàn dân, tập thể và cá nhân, nên hiệu quả luôn phải đảm bảo kết hợp hài hoà các loại lợi ích này. Mục đích nâng cao hiệu quả không chỉ vì lợi nhuận mà còn đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội, tức là lợi nhuận tăng nhưng phải đảm bảo nâng cao đời sống người lao động. Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội được xác định bằng cách so sánh giữa lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với hao phí lao động xã hội. Hiệu quả kinh tế là những lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù đắp các khoản hao phí về lao động xã hội. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Có thể biểu diễn khái niệm bằng công thức tổng quát sau: Trong đó: H là hiệu quả kinh tế của một quá trình kinh tế nào đó. K là kết quả thu được từ nó. C là toàn bộ chi phí để đạt được kết quả đó. 2 Bản chất của hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể hiểu được bản chất của nó cần phải phân biệt rõ hiệu quả và kết quả. Có thể hiểu kết quả là chỉ tiêu kinh tế phản ánh lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong hoạt động kinh doanh của mình. Bất cứ một hành động nào của con người đều đạt tới một kết quả nào đó, cho dù là kết quả tốt hay xấu. Trong kinh doanh thì kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả đó có thể cân đo đong đếm như số sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận... và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng, hoàn toàn có tính chất định tính như: uy tín, chất lượng sản phẩm... Nhưng đối với doanh nghiệp thì các kết quả đó không cho thấy được trình độ quản lý, trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp mà phải thông qua khái niệm “hiệu quả”. Trong công thức (1) ta thấy, trong khái niệm hiệu quả kinh doanh bao gồm tất cả kết quả và chi phí đều được tính bằng cả hai đơn vị hiện vật và giá trị. Nhưng khi đo bằng đơn vị hiện vật thì khó xác định do tính không đồng nhất về đơn vị đo lường nên người ta thường tính hiệu quả theo đơn vị giá trị mà biểu hiện ra là tiền tệ. Như vậy, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo quan trọng là “đồng tiền”. Từ đó ta thấy bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội, nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp- mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm yếu tố đầu vào, nguồn lực xã hội. Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm phức tạp, vừa là một khái niệm cụ thể, vừa là một khái niệm trừu tượng khó đánh giá chính xác. Vì ngay ở khái niệm cho thấy hiệu quả kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Mà cả hai đại lượng này đều khó đánh giá chính xác. 3. Phân loại hiệu quả kinh tế. Trong quản lý sản xuất kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở những dạng thức khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế tạo nền tảng để xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế, chỉ ra các nhân tố tác động và đưa ra những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế một cách thích hợp. 3.1. Hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối. + Hiệu quả tương đối: Hiệu quả tương đối được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối, cụ thể là hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ lệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Hiệu quả tương đối càng lớn hơn 1 càng tốt. Đây là một đại lượng có tính chất so sánh cho nên hiệu quả tương đối là căn cứ để đánh gái mức độ hiệu quả của các phương án kinh doanh để lựa chọn phương án có lợi nhất về kinh tế. + Hiệu quả tuyệt đối: Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng phương án kinh doanh bằng cách xác định mối quan hệ giữa kết quả thu được của phương án đó với chi phí bỏ ra khi thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cụ thể. Trong trường hợp này, hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. 3.2. Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. + Hiệu quả kinh doanh: Hiệu quả kinh doanh hay hiệu quả tài chính là hiệu quả thu được từ hoạt động của từng doanh nghiệp. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả kinh doanh là số lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được so với chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh doanh được tính bằng quan hệ giữa doanh thu và chi phí. Hiệu quả kinh doanh đựoc xác định trong mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra với thu nhập mang lại trong quá trình kinh doanh dưới hình thái tiền tệ đối với một dịch vụ kinh doanh hoặc tổng thể các dịch vụ kinh doanh trong một thời gian nhất định. Hiệu quả kinh doanh có tính chất trực tiếp nên có thể định lượng được đễ dàng. + Hiệu quả kinh tế xã hội: Hiệu quả kinh tế xã hội của một hoạt động kinh tế được xác định trong mối quan hệ giữa hoạt động đó với tư cách là tổng thể các hoạt động kinh tế hoặc là một hoạt động kinh tế cụ thể, với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Hiệu quả kinh tế xã hội là lợi ích kinh tế xã hội mà hoạt động kinh tế đã mang lại cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội, được thể hiện ở mức đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định như: phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân. Xem xét hiệu quả xã hội, người ta xem xét mức tương quan giữa các kết quả (mục tiêu) đạt được về mặt xã hội (cải thiện điều kiện lao động, nâng cao đời sống tinh thần, tạo ra các mối quan hệ lành mạnh,... ) và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh tế xã hội có tính chất gián tiếp nên khó định lượng nhưng có thể định tính: “Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển” (Chiến lược phát triển kinh tế năm 2000). Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội có quan hệ mật thiết với nhau. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội vận động cùng chiều, nhưng trong một số trường hợp hai mặt đó lại mâu thuẫn với nhau. Có những hoạt động kinh doanh không mang lại lợi nhuận, thậm chí có thể bị thua thiệt, nhưng doanh nghiệp vẫn phải thực hiện vì lợi ích chung đẻ đạt tới các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. 3.3. Hiệu quả bộ phận và hiệu quả tổng hợp. Chi phí bỏ ra là yếu tố cần thiết để đánh giá, tính toán mức hiệu quả kinh tế. Xét trên góc độ tính toán, có chi phí tổng hợp (mọi chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh) và chi phí bộ phận (những yếu tố hao phí cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó). + Hiệu quả bộ phận: Hiệu quả bộ phận thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với lượng hao phí từng yếu tố cần thiết để thực hiện nhiệm vụ ấy. + Hiệu quả tổng hợp: Hiệu quả tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và tổng chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất hay kinh doanh. Việc tính toán hiệu quả chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp hay nền kinh tế quốc dân. Còn việc tính toán và phân tích hiệu quả của các chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của các yếu tố nội bộ sản xuất kinh doanh đến hiệu quả kinh tế chung. Về nguyên tắc, hiệu quả chi phí tổng hợp phụ thuộc vào hiệu quả của chi phí thành phần. Nhưng trong thực tế, không phải các yếu tố chi phí thành phần đều được sử dụng có hiệu qủa, tức là có trường hợp sử dụng yếu tố này nhưng lại lãng phí yếu tố khác. Nói chung muốn thu được hiệu quả kinh tế, hiệu quả do sử dụng tốt các yếu tố thành phần nhất thiết phải lớn hơn tổn thất do lãng phí các yếu tố khác gây ra. III. Phương pháp đánh giá và các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Phương pháp đánh giá. Để thực hiện nhiệm vụ nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải nghiên cứu và nhận thức một cách đầy đủ các phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh. Việc đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cho phép phát hiện khả năng và tìm đúng biện pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan tới nhiều yếu tố và nó phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đó. Do đó khi đánh giá hiệu quả kinh doanh cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau: Quan điểm thứ nhất: Đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước. Trước hết ở việc thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc đơn hàng của nhà nước giao cho doanh nghiệp hoặc các hợp đồng kinh tế mà nhà nước đã ký kết với doanh nghiệp, bởi vì đó là nhu cầu và là điều kiện bảo đảm sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân, của nền kinh tế hàng hoá. Những nhiệm vụ kinh tế và chính trị mà nhà nước giao cho doanh nghiệp trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá đòi hỏi doanh nghệp phải quyết định việc kinh doanh những loại hàng hoá và dịch vụ mà thị trường cần, nền kinh tế cần. Quan điểm thứ 2: Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa các lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích của người lao động. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh phải xuất phát và thoả mãn những mối quan hệ của các lợi ích nói trên, trong đó lợi ích của người lao động (những người trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất- kinh doanh) được coi là động lực trực tiếp. Bởi vì người lao động là nhân tố quyết định việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh một cách trực tiếp. Kết quả đem lại thoả mãn những nhu cầu của cá nhân người lao động, cho tập thể, cho nhà nước trên cơ sở căn cứ vào chi phí đầu tư để đạt tới mức hiệu quả đó. Quan điểm thứ 3: Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh phải xuất phát và đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nói chung, của ngành, của địa phương và các đơn vị cơ sở. Hơn nữa trong từng đơn vị cơ sở, khi đánh giá xem xét hiệu quả hoạt động kinh doanh phải coi trọng tất cả các mặt, các lĩnh vực, các khâu của quá trình kinh doanh. Quan điểm thứ 4: Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hoạt động kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định mục tiêu, biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, của địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Chỉ có như vậy mới có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và phương án kinh doanh của doanh nghiệp mới xây dựng được và từ đó mới có đủ cơ sở thực tiễn chắc chắn để đảm bảo lòng tin cho người lao động, hạn chế được những rủi ro, tổn thất trong kinh doanh. Quan điểm thứ 5: Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi tính toán và đánh giá hiệu quả, một mặt phải căn cứ vào kết quả sản lượng hàng hoá đã thực hiện, mặt khác phải tính đúng, tính đủ các chi phí đã bỏ ra để thực hiện kinh doanh những hàng hoá đó. Căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về mặt hiện vật và giá trị là đòi hỏi tất yếu của kinh tế hàng hoá và buộc các nhà kinh tế phải tính đúng đắn, hợp lý các yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh tiếp theo. Ngoài ra, nó còn cho phép đánh giá đúng khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường và hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp theo cả 2 mặt: Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá mà thị trường cần. 2. Các chỉ tiêu đánh giá về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế tổng hợp + Nếu so sánh kết quả đầu ra với chi phí đầu vào: Hiệu quả kinh doanh = Kết quả kinh doanh Chi phí đầu vào Nếu kết quả lớn hơn một thì doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Nếu kết quả nhỏ hơn một thìdoanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận theo chi phí = Lợi nhuận Tổng chi phí bỏ ra -> Chỉ tiêu này phản ánh: Cứ một đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh doanh càng lớn. + Nếu so sánh doanh thu với lợi nhuận Tỉ suất lợi nhuận = Lợi nhuận Doanh thu bán hàng -> Chỉ tiêu này cho biết: Một đồng doanh thu bán ra có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. 2.2 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế bộ phận 2.2.1 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Năng suất lao động bình quân = Doanh thu bán hàng Tổng số lao động bình quân trong kỳ Năng suất lao động bình quân càng cao chứng tỏ doanh nghiệp tổ chức lao động một cách hợp lý, hiệu quả kinh doanh càng cao. Lợi nhuận bình quân đầu người = Lợi nhuận trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh: Bình quân một lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. 2.2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động (VLĐ). Sức sản xuất của VLĐ = Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Vốn lưu đồng bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh gián tiếp hiệu quả sử dụng VLĐ, một đồng VLĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ nhất định sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Sức sinh lợi của VLĐ = Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết: Một đồng vốn lưu động bỏ ra sẽ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao và hiệu quả kinh doanh càng lớn. Số vòng quay của VLĐ = Doanh thu thuần Vốn lưu động bình quân -> Cho biết số vòng quay của VLĐ. Số vòng quay càng lớn thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao và ngược lại. Số ngày luân chuyển bình quân 1 vòng quay = 365 Số vòng quay vốn lưu động 2.2.3 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa sử dụng vốn cố định Sức sản xuất của vốn cố định = Doanh thu bán hàng Vốn cố định trong kỳ Phản ánh một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Sức sinh lời của vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Cho biết mức lợi nhuận tạo ra bởi một đồng vốn cố định bình quân trong kỳ. 2.3 Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội 2.3.1 Tăng thu ngân sách Mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có nhiệm vụ nộp ngân sách Nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như: Thuế doanh thu, thuế đất, thuế lợi tức,thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ... Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và ở các lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. 2.3.2 Tăng thu nhập bình quân của người lao động Trong cơ chế thị trường, lương của người lao động được trả theo sản phẩm, theo khối lượng công việc hoặc theo thời gian. Nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu qủa thì thu nhập của người lao động sẽ tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện. 2.3.2 Tạo thêm việc làm, giảm thất nghiệp Doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh sẽ thu hút số lượng lớn người lao động vào làm việc. Khi doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, quy mô sản xuất sẽ mở rộng, tao công ăn việc làm cho người lao động. Qua đó doanh nghiệp đã góp phần giúp xã hội giảm tỉ lệ thất nghiệp, nhanh chóng đưa xã hội thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu, góp phần ổn định chính trị và an ninh. IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể là các nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được (nhân tố bên trong), nó cũng có thể là nhân tố khách quan, nhân tố thuộc về môi trường mà doanh nghiệp hoạt động, những nhân tố này nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp (nhân tố bên ngoài). 1. Các nhân tố bên trong 1.1 Con người và cách thức tổ chức lao động Con người là nhân tố trung tâm, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nói đến con ngườ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100250.doc
Tài liệu liên quan