Chuyên đề Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng đầu tư và phát triển – Chi Nhánh Đông Đô

Là ngân hàng trẻ tuổi, ra đời sau nên NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm của các ngân hàng đi trước nhằm hạn chế rủi ro. Với hoạt động nhiệt tình, năng động của đội ngũ nhân viên, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã có những bước đi ổn định và ngày càng vững mạnh. Đặc biệt, trong lĩnh vực thanh toán quốc tế ngân hàng đã phục vụ nhiệt tình, hướng dẫn cho khách hàng tìm hiểu rõ hơn về thị trường nước mà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngân hàng tạo điều kiện cho những khách hàng đến mở L/C với chi phí thấp, độ đảm bảo cao, thu hút ngày càng nhiều khách hàng uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh và ổn định. Cùng với sự quan tâm của Ban giám đốc và Hội đồng quản trị tới việc quản lý rủi ro nói chung và rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng, ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả tốt trong việc hạn chế rủi ro:

 

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1910 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng đầu tư và phát triển – Chi Nhánh Đông Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu chủ tâm không hoàn trả hoặc không có khả năng hoàn trả. Với lý do này, rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát hành là rất hiện hữu. Do đó, trước khi chấp nhận phát hành L/C, ngân hàng cần áp dụng một qui trình thẩm định chặt chẽ giống như việc cấp tín dụng cho khách hàng. Trong số các nhân tố ngân hàng phát hành cần phải xem xét đó là liệu ngân hàng có thu lại được một phần hay toàn bộ số tiền đã thanh toán từ việc bán hàng nếu nhà nhập khẩu bị phá sản. Các câu hỏi cần trả lời đó là: Nhà nhập khẩu sẽ là người chắc chắn sở hữu hàng hoá? Hàng hoá đảm bảo chất lượng và có thể bán được? Hàng hóa có dễ hỏng và giá cả có hay biến động? Có sự thông đồng lừa đảo giữa nhà sản xuất và nhập khẩu, hậu quả có thể là hàng hoá sẽ không bao giờ được chuyển đi? Có hạn chế nào liên quan đến loại hàng hoá nhập khẩu, ví dụ như hạn chế về giấy phép kinh doanh, đối tượng mua bán? - Nếu ngân hàng phát hành trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kì hạn, mà không có sự kiểm tra một cách kỹ lưỡng bộ chứng từ, nhà nhập khẩu không chấp nhận, thì không thể đòi tiền nhà nhập khẩu. Từ phân tích cho thấy, khi mở L/C ngân hàng đã thực hiện cam kết tài chính và chấp nhận rủi ro. Vì vậy, để hạn chế rủi ro, ngân hàng nên yêu cầu đối với khách hàng mới lần đầu mở L/C: ký quỹ cho ngân hàng 100% trị giá của L/C Nếu khách hàng phát hành L/C thường xuyên, ngân hàng có thể cấp một “ Hạn mức tín dụng nhập khẩu – Import Line” để cho người nhập khẩu mở L/C với tổng trị giá bằng hạn mức tín dụng nhập khẩu. Tỷ lệ % ký quỹ có thể giảm xuống nếu mức độ tin cậy của khách hàng tăng lên. Ngân hàng xét chứng từ chứ không xét hàng hoá. Nhưng vì hàng hoá có giá trị, như là vật bảo đảm, và mức độ rủi ro tuỳ thuộc vào ai là người kiểm soát hàng hoá. Việc kiểm soát hàng hoá được chuyển nhượng bằng cách chuyển giao chứng từ sở hữu hàng hoá (vận đơn). Nếu ngân hàng muốn duy trì kiểm soát hàng hoá, thì ngân hàng phải thu xếp để chứng từ vận tải chỉ ra “người nhận hàng” là bản thân ngân hàng hoặc được ghi “theo lệnh”. + Rủi ro đối với ngân hàng thông báo: Ngân hàng thông báo chịu trách nhiệm, phải có “sự quan tâm hợp lý” để đảm bảo rằng thư tín dụng là trung thực, cả trong việc xác minh chữ kí, mã khoá, mẫu điện trước khi gửi thông báo cho nhà xuất khẩu. + Rủi ro đối với ngân hàng được chỉ định - Trừ khi là ngân hàng xác nhận các ngân hàng được chỉ định không có một trách nhiệm nào phải thanh toán cho người xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ ngân hàng phát hành. Tuy nhiên trong thực tế trên cơ sở bộ chứng từ xuất trình các ngân hàng được chỉ định thường ứng trước cho nhà xuất khẩu với điều kiện truy đòi (with recouse) để giúp nhà xuất khẩu. Do đó, ngân hàng này phải chịu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát hành hoặc nhà xuất khẩu. + Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận: Nếu bộ chứng từ là hoàn hảo, thì ngân hàng xác nhận phải trả tiền cho người xuất khẩu bất luận là có truy hoàn được tiền từ ngân hàng phát hành hay không. Như vậy, ngân hàng xác nhận chịu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát hành, cùng rủi ro chính trị và rủi ro cơ chế (hạn chế ngoại hối) của nhà nước ngân hàng phát hành. Nếu ngân hàng xác nhận trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn, mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, ngân hàng phát hành không chấp nhận, thì không thể đòi tiền ngân hàng phát hành. Chương II thực trạng về rủi ro trong thanh toán quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 2.1 Một số nét khái quát về NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Đông Đô (NHĐT & PTVN) Thành lập ngày 26-4-1957 theo quyết định số 177/TTg của thủ tướng chính phủ với tên ban đầu là ngân hàng kiến thiết Việt Nam, ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( tên giao dịch là BIDV) là 1 trong 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất nước ta. Trải qua gần 50 năm tồn tại và phát triển với 2 lần đổi tên( 1981 đổi tên là ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam, năm 1991 đổi tên là ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam). Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam không những hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ban đầu của mình là nhận vốn đầu tư phát triển của ngân sách để tài trợ cho những dự án phát triển kinh tế kĩ thuật của nhà nước mà còn không ngừng phấn đấu để trở thành một ngân hàng kinh doanh đa năng theo yêu cầu đổi mới. Cho tới nay ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã hình thành hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước với trên 69 chi nhánh (5 chi nhánh tại Hà Nội, 3 công ty độc lập, 2 trung tâm, 3 liên doanh). Tổng số cán bộ trong toàn hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trên 10 nghìn cán bộ, trong đó 1.35% có trình độ sau đại học, 65.52% có trình độ đại học và 33.13% có trình độ cao đẳng. được chính thức thành lập ngày 26-11-1990 theo thông báo số 572 TCCB-ĐT của vụ tổ chức cán bộ NHNN về tổ chức bộ máy của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam và quyết định số 76 QĐ- TCCB ngày 28-3-1991 của tổng giám đốc ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Trong hệ thống NHĐT&PTVN, căn cứ vào quy định số 191/QĐ- HĐQT ngày 05-07-2004 của chủ tịch HĐQT & NHĐT& PTVN về việc thành lập chi nhánh NHĐT & PTĐông Đô. Và theo quy định 4233/CV- TCCB1 ngày 28/10/2003 của tổng giám đốc NHĐT & PTVN về xây dựng mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh khi triển khai dự án hiện đại hoá. Hiện nay, nhận thức được tầm quan trọng của khách hàng, trong thời gian qua chi nhánh Đông Đô đã chú trong phát triển kinh doanh theo hướng khách hàng, để thu hút thêm những khách hàng tiềm năng trong tương lai bên cạnh đó cũng cần duy trì các khách hàng cũ. 2.1.2 Mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - chi nhánh Đông Đô Qua hơn mười năm hoạt động, cơ cấu tổ chức của sở giao dịch cũng đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, chức năng nhiệm vụ kinh doanh. Hiện tại, cơ cấu tổ chức của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - chi nhánh Đông Đô gồm có một giám đốc và 3 phó giám đốc, với đội ngũ nhân viên trên 270 người trong đó phần lớn là những người có trình độ đại học và trên đại học. Các phòng của NHĐT & PTVN được tổ chức sắp xếp theo quyết định số 916/QĐ- TCHC của giám đốc NHĐT & PTVN ngày 8-9-2003, mô hình cơ cấu tổ chức của ngân hàng được trình bày theo sơ đồ sau: Chú thích: P. Tín dụng 1 P. Tín dụng 2 P. Nguồn vốn kinh doanh P. Kiểm tra- Kiểm toán nội bộ P. Thanh toán quốc tế P. Điện toán P. Tài chính kế toán P. Dịch vụ khách hàng cá nhân P. Dịch vụ khách hàng tổ chức Ban giám đốc P. Tdụng 1 P. Tdụng 2 P. NVKD P. KT-KTNB P. TTQT P. ĐToán P. TC- KT P. DVKHCN P. DVKHTC Các phòng ban CN. Hà Thành PGD 2 PGD 1 CN. Láng Hạ Các đơn vị trực thuộc Mô hình tổ chức và hoạt động của NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 2.2 Khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng – Chi Nhánh Đông Đô trong thời gian qua 2.2.1 Hoạt động thanh toán quốc tế Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng doanh số TTXNK (thanh toán xuất nhập khẩu) qua NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô năm 1999-2004 Đơn vị: Ngàn USD Năm Tổng DSTTXNK T.Toán hàng xuất T.Toán hàng nhập Số Tiền Tăng trưởng Số Tiền Tăng trưởng Số Tiền Tăng trưởng 1999 3420 1570 1850 2000 3564 4,21% 1632 3,95% 1932 4,43% 2001 4017 12,71% 1782 9,19% 2235 15,68% 2002 5073 26,23% 2348 31,76% 2725 21,92% 2003 5040 -0,65% 2130 -9,28% 2910 6,79% 2004 5462 8,37% 2252 5,72% 3210 10,31% (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm – NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô ) Thông qua số liệu trên ta thấy: Năm 2004 tổng doanh số thanh toán hàng xuất nhập khẩu đạt 5462 ngàn USD, tăng 8,37% trong đó, doanh số thanh toán hàng xuất khẩu đạt 2252 ngàn USD tăng 5,72% còn doanh số thanh toán hàng nhập khẩu là 3210 ngàn USD tăng 10,31%. Nhìn qua các năm ta nhận thấy năm 2002 tổng doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 5073 ngàn USD, tăng 26,23% trong đó doanh số thanh toán hàng xuất đạt 2130 ngàn USD, tăng 31,76% còn thanh toán hàng nhập đạt 2725 ngàn USD, tăng 21,92%. Đây là năm có sự tăng trưởng cao hơn các năm cả về hàng xuất lẫn hàng nhập, có được điều này là do sự nỗ lực của các doanh nghiệp, điều kiện thuận lợi, giá cả hàng hoá tăng, rất thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu và là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại tăng khả cạnh tranh trên trường quốc tế. Nhưng đến năm 2003 tổng doanh số thanh toán hàng xuất nhập khẩu đạt 5040 ngàn USD, giảm 0,65%, trong đó doanh số thanh toán hàng xuất đạt 2130 ngàn USD giảm 9,28% còn doanh số thanh toán hàng nhập đạt 2910 ngàn USD, chiếm 6,79%. Điều này xảy ra là do doanh nghiệp Việt Nam đã nhập khẩu nhiều hơn là xuất khẩu và cũng trong năm 2003 do có nhiều sự biến động về chính trị: như chiến tranh giữa các nước Mỹ, IRĂC, vụ kiện cá basa, vụ kiện tôm, bệnh dịch đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp bị ngưng lại một thời gian để tìm kiếm thị trường mới bên cạnh thị trường truyền thống. Trong hoạt động thanh toán quốc tế tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đang áp dụng chủ yếu 3 phương thức thanh toán quốc tế phổ biến là phương thức thanh toán L/C, phương thức thanh toán nhờ thu, phương thức thanh toán chuyển tiền được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình sử dụng các phương thức TTQT tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô Đơn vị: Ngàn USD Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) 1.DSTTHXK 2348 100% 2130 100% 2252 100% 1.1 L/C 950 40,46% 610 28,64% 592 26,29% 1.2 Nthu 350 14,90% 400 18,78% 435 19,32% 1.3 T/T 1048 44,64% 1120 52,58% 1225 54,39% 2.DSTTHNK 2725 100% 2910 100% 3210 100% 2.1 L/C 1334 48,95% 1575 54,12% 1775 55,3% 2.2 Nthu 350 12,84% 695 23,88% 850 26,48% 2.3 T/T 1041 38,21 640 22% 585 18,22% Cộng(1+2) 5073 5040 5462 (Nguồn: Báo cáo thống kê 2002-2004 của NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô ) Qua bảng số liệu trên ta thấy: Trong phương thức thanh toán hàng nhập khẩu, phương thức thanh toán L/C chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số thanh toán hàng nhập khẩu qua ngân hàng. Năm 2002 chiếm tỷ trọng à 48,95%, năm 2003 chiếm 54,12%, năm 2004 chiếm 55,3%. Còn trong phương thức chuyển tiền bằng điện có xu hướng phát triển, năm 2002 chiếm tỷ trọng là 38,21%, năm 2003 chiếm 22%, năm 2004 chiếm 18,22%. Phương thức thanh toán nhờ thu chiếm tỷ trọng nhỏ: năm 2002 chiếm 12,84%, năm 2003 chiếm 23,88%, năm 2004 chiếm 26,48%. Ngược lại, trong phương thức thanh toán hàng xuất thì phương thức thanh toán bằng L/C ngày một giảm hơn, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng doanh số thanh toán hàng xuất qua NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, năm 2002 chiếm 40,46%, năm 2003 chiếm 29%, năm 2004 chiếm 26%. Còn phương thức thanh toán chuyển tiền chiếm tỷ trọng lớn nhất trong doanh số thanh toán hàng xuất, năm 2002 chiếm 44,64%, năm 2003 chiếm 53%, năm 2004 chiếm55%. Phương thức nhờ thu cũng chiếm một tỷ trọng nhỏ năm 2002 chiếm 14,90%, năm 2003 chiếm 19%, năm 2004 chiếm 20%. Thực trạng trên xảy ra do phía doanh nghiệp Việt Nam dễ chấp nhận yêu cầu của phía đối tác nước ngoài, khi doanh nghiệp Việt Nam nhập hàng phía nước ngoài thì họ yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải mở L/C để ràng buộc trách nhiệm thanh toán của ngân hàng. Để tăng khả năng an toàn cho họ, do đó trong thanh toán hàng nhập phương thức L/C được sử dụng chủ yếu. Ngược lại, khi doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu, một số doanh nghiệp tin tưởng đối tác nước ngoài và sẵn sàng chấp nhận bán hàng theo phương thức nhờ thu DA hoặc T/T sau khi giao hàng. Có những doanh nghiệp không muốn áp dụng phương thức thanh toán L/C vì phí dịch vụ phát sinh nhiều hơn các phương thức thanh toán khác. Thực trạng này đang xảy ra phổ biến ở doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH vì các công ty này mới bước chân vào thương trường quốc tế, vì muốn bán được hàng nên sẵn sàng chấp nhận các yêu cầu do phía nước ngoài đưa ra. Ngoài ra, còn có một số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lâu đời thì với những khách hàng nước ngoài có uy tín, đã quan hệ mua bán lâu năm, họ cũng chuyển từ phương thức thanh toán L/C sang phương thức thanh toán nhờ thu để tiết kiệm chi phí. Trong đó, phát sinh tồn tại trong phương thức thanh toán nhờ thu rất nhiều, đa số các bộ chứng từ nhờ thu hàng xuất theo phương thức DA thường bị nước ngoài chiếm dụng vốn trong thời gian dài gây tổn thất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, thường xảy ra tranh chấp mà người thắng kiện thường là đối tác nước ngoài vì doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm vững thông lệ quốc tế cũng như luật quốc tế và trong nước. Nếu có thắng kiện thì doanh nghiệp Việt Nam cũng bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài và mất khoảng phí lớn cho việc kiện tụng. 2.2.2 Rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế Trong thanh toán quốc tế mỗi phương thức thanh toán đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định và từ các nhược điểm có thể phát sinh những tồn tại và rủi ro trong thanh toán quốc tế. Phương thức tín dụng chứng từ được xem là phươn thức thanh toán an toàn hơn các phương thức khác. Tuy nhiên, đây không phải là phương thức an toàn tuyệt đối cho các bên liên quan mà nó có thể phát sinh rủi ro, tồn tại trong thanh toán khi một trong các bên là kẻ lừa đảo. Sự vi phạm hợp đồng của người mua trong phương thức chuyển tiền hoặc vi phạm cam kết thanh toán của người mua trong phương thức nhờ thu qua ngân hàng cũng phát sinh khá nhiều tồn tại trong thanh toán quốc tế. 2.2.2.1 Rủi ro tín dụng trong mở L/C Rủi ro tín dụng trong thanh toán hàng nhập khẩu: Rủi ro tín dụng luôn là rủi ro có khả năng xảy ra lớn nhất và để lại hậu quả nặng nề nhất cho ngân hàng. Nhất là đối với tình trạng hoạt động yếu kém và kinh nghiệm còn quá ít của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Khi phần lớn các hoạt động thương mại của họ còn phụ thuộc vào ngân hàng, chỉ cần một sự thua lỗ dù rất nhỏ của họ cũng dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng đối với ngân hàng khi người nhập khẩngân hàng thuộc nhóm khách hàng có mức ký quỹ dưới 100%. Trong thủ tục mở L/C, khách hàng bao giờ cũng phải ký quỹ, nhưng thường họ chỉ ký quỹ một phần, phần còn lại được ngân hàng cho vay. Vì vậy, ngân hàng sẽ gặp rủi ro tín dụng khi khách hàng không còn khả năng thanh toán nợ với ngân hàng, bị phá sản, giải thể hay nằm trong vòng tố tụng… căn cứ vào việc thẩm định và phân loại khách hàng, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô qui định tỷ lệ ký quỹ như sau: NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô bắt buộc ký quỹ 100% đối với nhóm khách hàng không có uy tín với ngân hàng hoặc là khách hàng mới. Bắt buộc quỹ 30-70% cho nhóm khách hàng làm ăn lâu dài với ngân hàng, tình hình tài chính tốt. Bắt buộc ký quỹ dưới 30% cho nhóm khách hàng có quan hệ lâu năm, có uy tín, có tình hình tài chính tốt. Hiện nay, doanh nghiệp có tỷ lệ miễn ký quỹ nhiều nhất tại ngân hàng là Todimax, Unimex, bóng đèn phích Rạng Đông… Khi nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán, để bảo vệ uy tín của mình, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã chấp nhận trả tiền cho một số L/C quá hạn. Tính đến nay, việc thu hồi nợ quá hạn là vô cùng khó khăn, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô có số nợ quá hạn là 396 ngàn USD và cho vay bắt buộc là 5428 ngàn USD. Cho vay bắt buộc và nợ quá hạn là những chỉ tiêu vô cùng quan trọng đánh giá rủi ro trong thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ. Trong những năm qua, tình hình cho vay bắt buộc của NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô có xu hướng giảm rõ rệt. Bảng 3: Tình hình cho vay bắt buộc thanh toán L/C tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô năm 2002,2003,2004 Đơn vị: ngàn USD Năm Doanh số thanh toán L/C Doanh số cho vay bắt buộc Tỷ lệ (%) 2002 62.400 5.428 8,7% 2003 81.020 6.643 7,7% 2004 98.127 7.261 7,4% (Nguồn: Báo cáo tình hình thanh toán xuất nhập khẩu NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô) Doanh số thanh toán L/C liên tục tăng nhưng cho vay bắt buộc lại giảm đáng kể qua từng năm, đây là dấu hiệu rất khả quan. Đến năm 2004, cho vay bắt buộc chỉ còn 7261 ngàn USD, chiếm 7,4%. Tình hình nợ quá hạn L/C tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô cũng có những thay đổi theo chiều hướng tốt. Bảng 4: Tình hình nợ quá hạn thanh toán L/C tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô năm 2002,2003,2004 Đơn vị: Ngàn USD Năm Doanh số cho vay bắt buộc Nợ quá hạn thanh toán L/C Tỷ lệ (%) 2002 5.428 369 6,8% 2003 6.643 411 6,2% 2004 7.261 370 5,1% (Nguồn: Báo cáo tình hình thanh toán xuất nhập khẩu NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 2002,2003,2004) Trong 3 năm từ 2002,2003,2004, tổng giá trị L/C chưa thanh toán không thay đổi nhiều trong khi tổng giá trị thanh toán tăng làm tỷ lệ nợ quá hạn giảm từ 6.8% xuống còn 5.1%. Từ số liệu trên ta thấy, rủi ro tín dụng trong thanh toán L/C nhập khẩu có những chuyển biến rất tốt. Tuy nhiên, vẫn còn có những rủi ro tiềm tàng, nợ quá hạn có xu hướng giảm nhưng một phần nợ quá hạn L/C lại được chuyển sang dư nợ tín dụng thực chất nợ quá hạn vẫn tồn tại trong một hình thức khác. Rủi ro tín dụng trong thanh toán xuất khẩu: Rủi ro tín dụng đối với ngân hàng trong nghiệp vụ chiết khấu chứng từ cho nhà xuất khẩu và cho vay tài trợ xuất khẩu. NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô thực hiện chiết khấu chứng từ cho lô hàng xuất khẩu. Thực chất đây là một khoản tín dụng cấp cho khách hàng được thế chấp bằng bộ chứng từ xuất theo L/C. Theo qui định, nếu quá 60 ngày chiết khấu mà ngân hàng không nhận được thông báo trả tiền từ ngân hàng phát hành thì ngân hàng sẽ tự động trích nợ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thi nợ. Trong hoạt động chiết khấu chứng từ, để giảm thiểu rủi ro cho mình, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô chỉ chiết khấu truy đòi, đảm bảo khả năng có quyền truy đòi khách hàng khi bên nước ngoài từ chối thanh toán. Để được chiết khấu, nhà xuất khẩu phải có vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng phát hành và toàn bộ vận đơn gốc được xuất trình cho NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, chứng từ hoàn toàn phù hợp với nội dung L/C, ngân hàng phát hành phải là ngân hàng có uy tín trong thanh toán quốc tế. Cán bộ ngân hàng phải kiểm tra các thông tin về mặt hàng, giá cả và thị trường của lô hàng xuất vào thời điểm chiết khấu chỉ được thực hiện khi ngân hàng nhận được điện chấp nhận thanh toán hoặc hối phiếu được ký hậu chấp nhận thanh toán vào ngày đáo hạn của ngân hàng phát hành. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng áp dụng tỷ lệ chiết khấu nhưng thường không quá 90% giá trị bộ chứng từ. Trong thời gian qua, số trường hợp ngân hàng đã chiết khấu nhưng không thu được tiền từ ngân hàng phát hành diễn ra rất hạn hữu, chỉ có khoảng một, hai trường hợp nhưng đã được ngân hàng giải quyết dứt điểm. Doanh số cho vay chiết khấu L/C của NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô liên tục tăng, năm 2002 đạt 120 ngàn USD, năm 2003 đạt 156 ngàn USD tăng 3,5% và đến năm 2004 con số đó là 171 ngàn USD tăng 3,1% so với năm 2003. Trong hoạt động tài trợ xuất khẩu, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô cũng gặp phải rủi ro. Rủi ro này được thể hiện qua doanh số cho vay tài trợ xuất khẩu và tỷ lệ nợ quá hạn. Bảng 5: Tình hình cho vay tài trợ xuất khẩu tại NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô năm 2002,2003,2004 Đơn vị: Ngàn USD Năm Cho vay tài trợ xuất khẩu Nợ quá hạn Tỷ lệ (%) 2002 120 5,04 4,2 2003 156 5,46 3,5 2004 171 5,3 3,1 (Nguồn: Báo cáo tình hình thanh toán xuất nhập khẩu NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô 2002,2003,2004) Doanh số cho vay tăng qua từng năm nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại giảm đi. Đây là kết quả rất tốt, có được kết quả đó là do NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô thẩm định doanh nghiệp kỹ càng trước khi cho vay, ngân hàng còn phải theo dõi tình hình kinh doanh kỹ càng trước khi cho vay, ngân hàng còn phải theo dõi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp sau này. Tuy nhiên, cũng có trường hợp NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô gặp phải rủi ro khi ngân hàng cho vay nhưng khách hàng sử dụng vốn vay đó kinh doanh một loại hàng khác với cam kết, hoặc khi doanh nghiệp xuất hàng nhưng lại bị phía nước ngoài từ chối vì hàng kém phẩm chất. Những trường hợp như vậy không thiếu nhưng làm doanh nghiệp không có khả năng trả nợ cho ngân hàng, phải kết chuyển nợ quá hạn, đã gây thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. 2.2.2.2 Rủi ro đối với phương thức nhờ thu Đối với phương thức nhờ thu việc thanh toán dựa vào thiện chí của người mua hoặc người bán, người mua chấp nhận thanh toán nhưng đến ngày đáo hạn người mua chây lỳ không chịu thanh toán. Còn người bán thì giao hàng không đúng hợp đồng, đã phát sinh một số rủi ro trong phương thức thanh toán nhờ thu. Hiện nay, một số doanh nghiệp cũng đang có xu hướng sử dụng phương thức thanh toán uỷ thác trả chậm DA trong thu hồi tiền hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, thực tế phát sinh tại ngân hàng NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, hầu như các bộ chứng từ trả chậm theo phương thức DA không được trả tiền đúng ngày đáo hạn. Người mua thường chiếm dụng vốn trong thời gian dài mới thanh toán, gây rủi ro cho ngân hàng thu hộ hoặc ngân hàng xuất trình. Trường hợp rủi ro cho ngân hàng thu hộ do người bán vi phạm hợp đồng. Trong thực tiễn xảy ra nhiều trường hợp, người mua muốn có chứng từ đi nhận hàng đã gửi cam kết chấp nhận thanh toán cho ngân hàng thu hộ nhưng sau khi nhận hàng họ lại trì hoãn thanh toán vì nhiều nguyên nhân: Hàng giao không đúng hợp đồng, hàng bị giảm giá, đã gây tranh chấp kéo dài. Ngân hàng thu hộ đã cho khách hàng vay thanh toán nhờ thu hàng nhập khẩu hoặc có những trường hợp ngân hàng buộc phải cho khách hàng vay để thanh toán khi ngân hàng nước ngoài thúc giục đòi tiền và phong toả tài khoản của ngân hàng thu hộ ở nước ngoài. Trường hợp này đã xảy ra ở NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô. Công ty Thiên long nhận 2.247.400 MT sắt lá và sắt cuộn của công ty Baisco bằng phương thức thanh toán nhờ thu D/A 7 ngày, trị giá 720.722 USD công ty Baisco vi phạm hợp đồng, giao hàng không đúng qui cách đã gây tổn thất cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu sau khi gửi giấy cam kết thanh toán nhờ thu đã được NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô giao chứng từ đi nhận hàng, trong khi dỡ hàng đã nhận thấy Baisco vi phạm hợp đồng nên đã thông báo cho Baisco và ngứng dỡ hàng. Sau đó hai bên thoả thuận thuê Vinacontrol và sở giao dịch kiểm định hàng hoá, xác định được mức độ vi phạm của Baisco, hai bên thương lượng mức bồi thường nhưng không đi đến thống nhất. Phát sinh tranh chấp kéo dài, đến ngày đáo hạn thanh toán ngân hàng nước ngoài thúc ép ngân hàng Việt Nam trả tiền, buộc ngân hàng NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô phải cho công ty Thiên long vay để thanh toán. Gây thiệt hại công ty Thiên long và NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô, ảnh hưởng đến uy tín và chất lượng của ngân hàng trên thương trường quốc tế. Rủi ro cho ngân hàng chuyển chứng từ do người mua vi phạm cam kết thanh toán: Người mua nhờ ngân hàng thu hộ đã chấp nhận trả tiền, ngân hàng chuyển chứng từ đã chiết khấu 80% giá trị bộ chứng từ. Nhưng đến ngày đáo hạn người mua không thanh toán, trả lại hàng hoá và ngân hàng thu hộ gửi lại chứng từ cho người bán. Thực tế này đã và đang xảy ra phổ biến cho một số khách hàng xuất khẩu tại ngân hàng thương mại. Trường hợp công ty TNHH xuất khẩu Navico trong năm 2001, sau khi giao hàng xuất khẩu cá basa đi Mỹ cho người bán là Seafoods company. Công ty đã lập bộ chứng từ xuất khẩu và nhờ NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô gửi nhờ thu theo phương thức thanh toán nhờ thu trả chậm sau 50 ngày kể từ ngày phát hành vận đơn. NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã tiến hành các thủ tục cần thiết theo qui trình nhờ thu của ngân hàng, gửi bộ chứng từ đến ngân hàng Bank of American nhờ thu hộ số tiền trên hối phiếu và chứng từ 47.500 USD, ngân hàng Bank of American sau khi nhận chứng từ đã xử lý theo đúng thủ tục của nghiệp vụ nhờ thu đã điện báo chấp nhận trả lại số tiền cho Navico vào ngày đáo hạn. Nhưng đến ngày đáo hạn, người mua không thanh toán, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã điện tra soát, đôn đốc ngân hàng nước ngoài trả tiền cho người bán, nhưng người mua không thanh toán và gửi trả hàng cho người bán vì ngân hàng Bank of American đã gửi trả chứng từ cho người bán. Trong tình huống này, NHĐT & PTVN – Chi Nhánh Đông Đô đã thu được nợ chiết khấu từ Navico từ nguồn tiền bán hàng khác. Tuy nhiên, công ty Navico cũng phải gánh chịu tổn thất giảm giá hàng và tìm đối tác khác bán lô hàng này và phải giảm đến 50% trị giá lô hàng. 2.2.3 Những nguyên nhân Hoạt đông thanh toán nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng luôn chứa đựng nhân tố gây rủi ro, làm giảm khả năng phát triển, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng cần phải nhận thức rõ các nguyên nhân có thể gây rủi ro để đề ra các biện pháp phòng ngừa hiệu quả. Nguyên nhân chủ quan từ ngân hàng Thái độ cán bộ thanh toán ở một số nơi còn hạn chế, còn non yếu nghiệp vụ, thiếu kinh nghiệm, thiếu thận trọng trong xử lý nghiệp vụ. Cán bộ thanh toán quốc tế chưa được đào tạo bài bản, chưa có chuyên gia thực thụ về thanh toán quốc tế và chuyên sâu về phát triển các sản phẩm tài trợ thương mại. Đây là nguyên nhân cốt lõi mang đến rủi ro và tồn tại trong thanh toán quốc tế Chưa có sự phối kết hợp cao giữa các bộ phận có liên quan để tạo nên một dịch vụ khép

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc771.doc
Tài liệu liên quan