Chuyên đề Một số nhận định về kinh doanh cà phê xuất khẩu của Công ty PROSIMEX và những giải pháp đề xuất

Lời mở đầu 1

Chương 1: Tình hình thị trường cà phê thế giới thời gian qua 3

I. Tình hình thị trường cà phê thế giới thời gian qua. 3

1.Vài nét về sản phẩm cà phê và các loại cà phê trên thị trường thế giới. 3

1.1 Các loại cà phê. 3

1.2 Sản phẩm cà phê. 4

2. Tình hình sản xuất cà phê trên thế giới . 4

3. Tình hình tiêu thụ và xuất khẩu cà phê thế giới : 5

3.1 Tiêu thụ. 5

3.2 Xuất khẩu : 5

4. Giá cả : 6

II.Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam 7

1.Vị trí của cây cà phê ở Việt Nam. 7

2. Sản xuất : 8

3. Xuất khẩu : 9

Chương 2: Tình hình kinh doanh cà phê xuất khẩu 10

tại công ty Prosimex 10

I. Giới thiệu tóm lược về công ty 10

1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu prosimex. 10

2. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty PROSIMEX: 12

II. Thực trạng xuất khẩu mặt hàng cà phê của công ty. 16

1. Phương thức kinh doanh: 16

2.Thị trường cà phê của Công ty . 19

2.1 .Thị trường đầu vào: 20

2.2 .Thị trường đầu ra : 22

Chương 3: Một số nhận định về kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty prosimex và những giải pháp đề nghị 28

1. những thuận lợi và khó khăn của công ty prosimex trong quá trình xuất khẩu cà phê: 28

1.1. Thuận lợi: 28

1.2. Khó khăn. 29

2. hiệu quả prosimex đã đạt được trong kinh doanh xuất khẩu cà phê: 33

3. Những vấn đề còn tồn tại và kiến nghị với Công ty : 35

3.1 .Những vấn đề còn tồn tại : 35

3.2 Các giải pháp kiến nghị với Công ty : 35

3.2.1 Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình thu mua : 36

3.2.2.các giả pháp duy trì và mở rộng thị trường của Công ty Prosimex 38

3.2.3.Các biện pháp đồng bộ khác. 40

Lời kết luận 42

 

 

doc45 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1077 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số nhận định về kinh doanh cà phê xuất khẩu của Công ty PROSIMEX và những giải pháp đề xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ty có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền. Việc mua bán này thường được tiến hành trên cơ sở số lượng lớn. Đặc biệt với cà phê là mặt hàng nông sản có tính đồng nhất cao trong khi sản xuất cà phê xuất khẩu ở nước ta, về cơ bản còn manh mún, phân tán, vì vậy, trong nhiều trường hợp Công ty thường phải tiến hành thu gom từ nhiều chân hàng. Sau khâu thu mua là giai đoạn thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu. Giai đoạn này công ty thực hiện các công việc như: Làm thủ tục hải quan, kiểm tra chất lượng hàng hoá, vận chuyển hàng đến cảng, bốc hàng lên tàu, lấy vận đơn v.v..trên cơ sở hợp đồng xuất khẩu đã kí trước. Công ty có thể tự mình thực hiện tất cả các khâu công việc này sau khi mua hàng hoặc liên doanh, liên kết xuất khẩu được Công ty prosimex thực hiện khá thường xuyên và thành công. Đơn vị chân hàng chịu trách nhiệm thu mua, đóng gói hàng theo tiêu chuẩn xuất khẩu của Việt Nam (TCVN) cũng như theo yêu cầu cụ thể từ phía Công ty về phần mình Công ty chịu trách nhiệm kiểm tra chất lượng, thuê phương tiện chở hàng xuống cảng cũng như gửi hàng đi, lợi nhuận sau này sẽ được phân chia theo tỉ lệ đã thoả thuận. Trong trường hợp xuất khẩu ủy thác, Công ty không phải nghiên cứu tìm nguồn hàng mà có sẵn hàng để giao cho khách nhằm thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Về pháp lý, khi nhận uỷ thác xuất khẩu Công ty đã nhận làm đại lý hoa hồng cho bên uỷ thác. Thù lao sẽ được tính là một số phần trăm nhất định trên tổng trị giá hợp đồng dưới dạng phí uỷ thác. Cách làm này thực chất cũng có ưu điểm như: ít rủi ro, tập trung hơn vào khai thác thị trường xuất khẩu, góp phần tăng cường dịch vụ xuất khẩu cà phê hiện đang rất thiếu ở nước ta. Tuy nhiên, phương thức này đem lại lợi nhuận không nhiều và phải phụ thuộc vào yêu cầu của người có hàng trong nước nhưng không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp. Vì thế các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hiện nay đều không hào hứng chuyên sau vào lĩnh vưc này nhưng cũng không bỏ qua khi có yêu cầu từ phía người có hàng. Phương thức kinh doanh còn được thể hiện ở các hình thức mua bán mà công ty tiến hành theo từng loại hợp đồng. Như đã nói ở trên, cà phê là mặt hàng nông sản có tính chất đặc thù được mua bán với số lượng lớn. Việc mua bán mặt hàng này thường diễn ra trên sở giao dịch hàng hoá dành riêng cho cà phê . Hiện nay trên thế giới có bốn sở giao dịch hàng hoá lớn về cà phê là: London, New York, Rottordam, Amsterdam. Các sở này thể hiện khá chính xác thông tin về diễn biến cung cầu, giá cả cà phê trên thị trường thế giới nên các nhà xuất khẩu cà phê thường theo dõi sát sao. Các giao dịch về cà phê trên các sở giao dịch này thường bao gồm ba hình thức cơ bản: - Giao dịch kỳ hạn - Giao dịch ngay - Giao dịch tự bảo hiểm và đầu cơ Các giao dịch này được cụ thể tại Công ty dưới các hình thức: hợp đồng bán trước mua sau (kì hạn) - hợp đồng bán ngay mua ngay, hợp đồng mua trước bán sau (một hình thức giam hàng chờ lên giá và cũng là để đảm bảo sự sẵn sàng của nguồn hàng). Trong đó hình thức bán trước mua sau được áp dụng phổ biến hơn. Công ty tiến hành ký hợp đồng với khách nước ngoài trước, sau đó mới tổ chức mua . Hơp đồng xuất khẩu lúc này đã được ký nhưng phần thực hiện hợp đồng được lui lại một thời hạn nhất định theo thoả thuận, và phù hợp với đặc điểm riêng của mặt hàng. Trong thời hạn này Công ty sẽ tiến hành gom hàng từ các chân hàng là các cơ sở thu mua và chế biến tại các khu vực sản xuất cà phê mà Công ty khai thác. Cách thức kinh doanh này tránh cho Công ty nhiều rủi ro như việc giảm chất lượng hàng hoá trong khâu lưu kho dự trữ, tồn đọng vốn kinh doanh hay rủi ro về giá cả nhưng lại không đảm bảo được nguồn hàng sẵn sàng cho xuất khẩu. Vì vậy, để đảm bảo nguồn hàng cho xuất khẩu, cũng như để tiến tới đáp ứng mọi nhu cầu đa dạng của khách hàng nước ngoài, Công ty sẵn sàng ký kết và thực hiện các hợp đồng giao ngay hoặc tiến hành mua trước, lưu kho sau đó mới bán. Các giao dịch dạng này tuy không nhiều nhưng đảm bảo cho Công ty khai thác triệt để hơn những khách hàng hiện tại đi đôi với việc tìm những khách hàng mới. 2.Thị trường cà phê của Công ty . Do Công ty là phần tử trung gian liên kết người sản xuất trong nước với khách hàng nước ngoài, thị trường cà phê của Công ty bao gồm hai bộ phận có liên hệ chặt chẽ với nhau: Thị trường đầu vào . Thị trường đầu ra . Thị trường đầu ra, hay thị trường xuất khẩu, là thị trường chính của Công ty, quyết định sự tồn tại và phát triển của mặt hàng cà phê. Thị trường đầu vào, ngược lại, quyết định khả năng cung cấp cả về số lượng và chất lượng. Để làm tốt nhiệm vụ xuất khẩu của mình Công ty cần phải biết liên kết hai thị trường này sao cho cung ứng đầy đủ để phát triển xuất khẩu, xuất khẩu phát triển để tạo điều kiện khai thác và mở rộng nguồn cung ứng. 2.1 .Thị trường đầu vào: Theo khái niệm, thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá, tiền tệ hay thị trường là tổng thể khối lượng cầu, có khả năng thanh toán, và tổng khối lượng cung có khả năng đáp ứng. Như vậy thị trường đầu vào của Công ty bao gồm tổng thể các quan hệ hàng hoá tiền tệ liên quan tới vấn đề cà phê cho xuất khẩu. Một cách cụ thể thì thị trường này bao gồm các yếu tố chủ yếu như sau: Mặt hàng cà phê ; các vùng cung cấp chủ yếu các cơ sở thu mua và chế biến chính; các đối thủ cạnh tranh; giá cả; các chính sách của Công ty. Mặt hàng cà phê mà công ty kinh doanh cho đến nay là cà phê nhân, Arabica và Robusta, đã qua chế biến. Trong những năm gần đây tỉ lệ xuất khẩu cà phê Arabica đã tăng đáng kể và còn có khả năng tăng cao hơn nữa trong những năm tới. Các vùng cung cấp chính cho công ty là: - Các tỉnh miền núi phía bắc: Yên Bái, lạng Sơn, Sơn La, Lào Cai, Quảng Trị , Nghệ An. - Khu vực Tây Nguyên: Đắc lắc , Gia lai , KonTum . - Khu vực phía nam như: Đồng Nai , Lâm Đồng, Sông Bé . Các tỉnh khu vực miền núi phía bắc cung cấp cà phê Arabica do có khí hậu phù hợp. Các tỉnh thuộc hai khu vực còn lại chủ yếu cung cấp cà phê Robusta. Bảng 4: Sản lượng và diện tích cà phê tại các vùng cung cấp của Công ty prosimex. tỉnh Diện tích Sản lượng 1997 1998 1997 1998 Đắc Lắc 130.000 132.000 210.000 230.000 Gia Lai 24.215 26.215 32.520 33.520 Kon Tum 8.000 9.200 13.500 15.000 Đồng Lai 23.000 23.000 25.142 25.566 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Tổng Công ty cà phê Việt Nam.) Các Tỉnh này là những vùng trồng cà phê xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam và cũng là nguồn khai thác chính của Công ty, chỉ riêng Đắc Lắc đã sản xuất tới 60% lượng cà phê xuất khẩu của cả nước. Diện tích, sản lượng và năng suất cà phê tại các khu vực này tăng nhanh hàng năm, trong đó năng suất và sản lượng ở mức cao so với mức bình quân của thế giới. Hiện tại, Việt Nam đang tích cực xúc tiến kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch cà phê cũng như chế biến, bảo quản cà phê sau thu hoạch và lai ghép những giống cà phê mới cho năng suất chất lượng cao, do đó nguồn cung cấp của công ty về cơ bản là đảm bảo. Vấn đề chính hiện nay là chi phí thu mua ngày càng tăng. Nguyên nhân chủ yếu là sự tăng lên của sản lượng cà phê ngoài quốc doanh làm cho sản xuất bị phân tán mạnh, các đầu mối mua gom phải mất nhiều chi phí thu mua hơn nên đẩy giá thành cà phê xuất khẩu cao trong khi giá xuất trên thị trường lại sút giảm. Trong hoàn cảnh đó, công ty còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp xuất khẩu khác trong ngành để thu mua được hàng. Chính tình trạng lộn xộn này đã đưa công ty, cũng như các doanh nghiệp chuyên doanh khác, vào tình trạng mua đắt bán rẻ, giảm lợi nhuận hợp đồng. Đây là một thực tế không đáng có của cà phê Việt Nam do thị trường chưa thống nhất, chưa có mối lên kết giữa các nhà xuất khẩu với những người sản xuất để tạo thành sức mạnh của một ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Trước thực tế này để có được nguồn cung cấp ổn định lâu dài về cả số lượng và chất lượng, nhiệm vụ chính của Công ty là phải có phương án thu mua hợp lí hiệu quả và đỡ tốn kém nhất. Hiện tại công ty đã có được một hệ thống các chân hàng cung cấp cà phê nhân cho Công ty ở 3 khu vực Phía Bắc, Phía Nam và Tây Nguyên như đã trình bày. Đó là các cơ sở thu mua và chế biến cà phê quan hệ làm ăn với công ty trên cơ sở các hợp đồng mua bán được thực hiện thường xuyên. Các cơ sở này là các công ty trách nhiệm hữu hạn, không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp và các cơ sở thu mua chế biến thuộc doanh nghiệp nhà nước đóng tại vùng khai thác, ví dụ như: cơ sở của Vinacafe. Trong mối quan hệ với các cơ sở này, tức là các chân hàng, Công ty luôn thực hiện phương châm lâu dài, liên tục, đảm bảo chữ tín nhằm có được nguồn cung cấp ổn định cả về số lượng lẫn chất lượng. Những nội dung chủ yếu trong chính sách bạn hàng của Công ty ở thị trường trong nước này là: - Giúp đỡ về vốn thu mua khi có hợp đồng: chi phí thu mua cà phê chiếm một phần đáng kể trong tổng giá thành cà phê xuất khẩu. Để giúp đỡ chân hàng của mình, cũng là để có được nguồn hàng đủ và kịp thời, Công ty thực hiện hỗ trợ vốn theo hợp đồng. Số vốn này có khi bằng cả giá trị hợp đồng mua cà phê Công ty kí với chân hàng, đặc biệt những chân hàng thu mua trực tiếp từ người sản xuất nhỏ, lẻ. - Đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên: Trong mỗi một thương vụ, trách nhiệm của từng bên luôn đi kèm với quyền lợi, chính vì vậy Công ty luôn đảm bảo giá cho người thu mua hợp lý theo giá mà Công ty ký được với khách hàng nước ngoài. Đây là một phương châm dựa vào cơ chế thị trường nhưng vẫn giữ chữ tín với bạn hàng, phù hợp với cơ chế mở cửa của nước ta . - Thực hiện phát triển sâu rộng mối quan hệ với các cơ sở thu mua chế biến chính sang các lĩnh vực như: xuất khẩu tại pháp, liên doanh liên kết xuất khẩu vv...nhằm đa dạng hoá hình thức kinh doanh cà phê xuất khẩu . Các chính sách hợp lí kể trên cộng với kết quả kinh doanh khả quan đã giúp Công ty có nguồn cung cấp khá ổn định với chất lượng được khách hàng nước ngoài chấp nhận và tin cậy. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, tình trạng tranh mua, tranh bán không phải là không có ảnh hưởng xấu tới mối quan hệ giữa Công ty và đầu mối cung cấp hàng trong nước ảnh hưởng tới việc thoả thuận thu mua cà phê. Đồng thời, những cơ sở cung cấp cà phê cho Công ty còn ít chưa bao quát hết các khu vực có thể khai thác. Trong thời gian tới Công ty cần chú ý tới những vấn đề này. 2.2 .Thị trường đầu ra : Thị trường đầu ra hay thị trường tiêu thụ là thị trường chính xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ đặc thù của Công ty. Tại đây Công ty tiến hành bán sản phẩm của mình cho các đối tác nhập khẩu về thu ngoại tệ mạnh. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê nói chung của Công ty. Trong những năm qua số lượng thị trường đầu ra cho sản phẩm cà phê đã giảm từ 28 xuống con số 18 thị trường và khu vực lãnh thổ trên toàn thế giới. Cơ cấu thị trường của Công ty cũng đã tương đối đa dạng cả về khu vực phân phối, nhu cầu khách hàng và loại hình thị trường. Các thị trường hiện tại đều là thị trường tiềm năng và có với toàn nghành cà phê Việt Nam nói chung, bao gồm : - Khu vực Tây Bắc Âu và Nam Âu với các thị trường Pháp, ý, Bỉ, Đức, Anh, Thuỵ Sỹ, Tây Ban Nha. Đây là khu vực thị trường truyền thống và lớn nhất của Công ty với kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm vào khoảng từ 1.5 đến 4 triệu Đôla Mỹ chiếm hơn một phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của toàn Công ty. Khu vực thị trường Châu á: Với các thị trường như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và thị trường các nước ASEAN. Đây là những thị trường có triển vọng lớn trong tương lai cũng như có ý nghĩa rất quan trọng với Công ty do gần về vị trí địa lý và được hưởng nhiều ưu đãi, đặc biệt là khu vực thị trường các nước ASEAN. Hiện tại, Đa số các thị trường này, từ thị trường Singapore, đều là những thị trường mới, kim ngạch thị trường xuất khẩu chưa cao, khách hàng trong giai đoạn đầu mới dừng lại ở một hai hợp đồng nhỏ nên chưa thể có kết luận gì về tăng trưởng thị trường. Vấn đề lúc này là tiếp tục thâm nhập, tạo quan hệ tốt với các bạn hàng để có một chỗ đứng vững chắc hơn. Các thị trường còn lại gồm có :Khu vực thỉ trường Nga. Những khu vực thị trường này là những khu vực quen thuộc đối với các sản phẩm xuất khẩu của Công ty. Tuy nhiên cho đến nay chỉ mới có hai thị trường Balan ở Đông Âu và thị trường Australia ở Châu Đại Dương là hai thị trường đạt được kim ngạch xuất khẩu cao và đều đặn hàng năm, các thị trường còn lại đều là những thị trường mới hoặc đang trong giai đoạn khó khăn như thị trường Nga và một số nước Đông Âu khác . Trong số 28 thị trường tại các khu vực địa lý kể trên có khoảng 8 thị trường lớn có kim ngạch xuất khẩu cà phê hàng năm với công ty đạt tới hàng trăm ngàn Đôla Mỹ. Các thị trường này là thị trường chính cho các sản phẩm cá phê của công ty về kim ngạch và sản phẩm xuất khẩu cũng như về triển vọng phát triển trong tương lai . Bảng 5: Các thị trường chính tiêu thụ cà phê của công ty prosi mex nước số lượng Kim ngạch năm 2001 2002 2001 2002 singapore 1.171 239 412.000 83.000 Pháp 1.918 220 821.000 812.000 Mỹ 681 432.000 Anh 2.381 918.000 Tây Ban Nha 1.049 479 654.000 120.000 Nga 1.346 450.000 Thuỵ Sĩ 144 70.560 Bỷ 233 94.000 Đức 868 383.000 (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ tổng hợp Công ty prosimex.) Có thể thấy các thị trường lớn kể trên đều thuộc những khu vực tiêu thụ chủ yếu là Tây Âu, Bắc Mỹ và thị trường Singapore ở Châu á. Các thị trường này chiếm khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty, sang năm 2002 đã tăng lên 74%. Như vậy vai trò của các thị trường chủ chốt của Công ty đang ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, những con số thống kê cũng cho thấy một thực tế là kim ngạch và sản lượng xuất sang những thị trường chính trong năm qua đã giảm sút một cánh đáng kể: Kim ngạch giảm 5,8% từ 7.368,6 nghìn Đôla Mỹ xuống còn 6.942,8 nghìn Đôla Mỹ; sản lượng giảm 8,2% từ 5.678,6 tấn xuống còn 5.213,3 tấn. Việc giảm sút này đối với Công ty có cả ý nghĩa tiêu cực. Về ý nghĩa tích cực, sản lượng giảm nhiều hơn kim ngạch và tăng trưởng về số lượng thị trường vẫn đạt ở mức cao, như vậy giá xuất cà phê giảm không đáng kể , việc giảm sút kim ngạch chủ yếu là do giảm sút về sản lượng. Nguyên nhân của giảm sản lượng là công ty giảm lượng hàng xuất để tránh thiệt hại do biến động mạnh về cung cầu, giá cả trên thị trường cà phê thế giới. Mặt khác trong tình hình khó khăn nhưng công ty vẫn duy trì được việc mở rộng thị trường chứng tỏ công ty đã có định hướng đúng cho mặt hàng cà phê xuất khẩu và có biện pháp duy trì định hướng đó . Về mặt tích cực, rõ ràng Công ty đứng ở thế bị động trước những biến động của thị trường cà phê thế giới và biện pháp duy nhất có hiệu quả là giảm sản lượng xuất khẩu để tránh thua lỗ . Đây cũng là một biện pháp hay và cần thiết khi giá biến động quá mạnh và liên tục, nhưng lại không phải là cách làm lâu dài vì trong thời gian tới thị trường cà phê sẽ còn tiếp tục biến động mạnh và phức tạp. - Hiện nay khu vực thị trường Tây Âu đã xuất hiện một xu hướng tiêu dùng mới là chuyển đổi một phần tiêu dùng cà phê Robusta sang tiêu dùng cà phê Arabica do chất lượng cà phê Arabica cao hơn và hương vị thơm ngon hơn .Trong khi đó, khu vực khai thác của Công ty là các tỉnh miền núi phía bắc còn đang ở thời kỳ đầu phát triển cây cà phê nên sản lượng chưa cao, chất lượng còn chưa đạt như dự tính. Theo chương trình của Nhà nước về trồng cây cà phê thay thế cây thuốc phiện thì khí hậu ở đây phù hợpvới cà phê Arabica, nhưng do nguồn nước không đủ và chưa sạch nên chất lượng chưa đạt yêu cầu đề ra và sản lượng cà phê nhân còn chưa cao. Phải còn một thời gian nữa nguồn cung này mới có thể ổn định cho xuất khẩu, vì vậy trong thời gian này Công ty cần mở rộng phạm vi khai thác ra cả nước để có đủ đầu vào cho nhu cầu mới nhằm tăng tỷ trọng xuất khẩu loại cà phê chất lượng tốt, giá bán cao. - Thị trường Mỹ là một thị trường mới đối với Công ty và hiện đang duy trì tăng trưởng kim ngạch với mức rất cao. Đây là thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất thế giới với dân số đông, người dân lại có thu nhập cao , thị hiếu cà phê đa dạng và có thói quen uống cà phê hàng ngày. Lượng tiêu thụ cà phê của thị trường này là khoảng 1,4 triệu tấn/ năm , trên tổng số trung bình 5,6 triệu tấn/năm của toàn thế giới. Mỹ cũng là một nước đa sắc tộc, có những phong tục tập quán và thị hiếu khác nhau lên đòi hỏi có sự tìm hiểu và nghiên cứu sâu để thích nghi với nhu cầu tiêu thụ của từng cộng đồng và từng khu vực trên nước Mỹ. - Khác với Mỹ và Tây Âu, thị trường Singapore là một hình thức thị trường mới thị trường (trung gian). Thị trường này xuất hiện do đòi hỏi cao của thị trường như Tây Âu và Bắc Mỹ về qui cách phẩm chất hàng hoá trong khi nhiều nước xuất khẩu có trình độ chế biến thấp, máy móc trang thiết bị lạc hậu, cũ kỹ khó có thể đáp ứng yêu cầu về chất lượng, qui cách phẩm chất từ các thị trường này. Thị trường trung gian, như Singapore, sẽ đứng ra tổ chức nhập khẩu cà phê của các nước này, tái chế cho đúng các yêu cầu của thị trường tiêu thụ sau đó tiến hành tái xuất khẩu. Ngoài 10 thị trường chính kể trên còn có các thị trường có tỷ lệ kim ngạch nhỏ hơn, có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác tốt bao gồm: Hy lạp, Thuỵ Sỹ (Tây Âu); Rumani, Séc, Slovenia (Đông Âu), Israel (Tây á), Trung Quốc, các nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc (Các nước Châu á khác); Ai Cập (Châu Phi); NewZelan (Châu Đại Dương). Như vậy, tính theo tỷ lệ phần trăm phân bổ cho các khu vực thị trường thì cả khu vực Châu á mới chỉ chiếm 10% kim ngạch xuất khẩu cà phê của toàn Công ty trong đó riêng thị trường Singapore đã chiến tới khoảng 6%. Đây là tỷ lệ không đồng đều và cần có sự nghiên cứu đổi mới vì thị trường Châu á không những gần mà còn dễ dàng cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập do có những ưu đãi riêng, đặc biệt như thị trường ASEAN có luồng xanh riêng cho hàng hoá của các nước trong nội bộ khối. Mặt khác, thị trường Châu á có nhu cầu đa dạng không kém thị trường Tây Âu hay thị trường Bắc Mỹ. Có thể tìm thấy ở đây cả nhu cầu cho cà phê tinh chế chất lượng cao cũng như cà phê nhân chế biến theo tiêu chuẩn xuất khẩu thông thường mà các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của ta có thể đáp ứng được ngay. Với tình hình thị trường như hiện nay, chính sách chủ yếu của công ty với các bạn hàng nước ngoài là làm ăn lâu dài, liên tục, duy trì, củng cố và phát triển những mối quan hệ bạn hàng trên các thị trường hiện tại, đặc biệt là thị trường Mỹ và thị trường các nước ASEAN, song song với việc tìm kiếm, lựa chọn bạn hàng trên thị trường mới nhằm có biện pháp thâm nhập và đáp ứng nhu cầu thị trường một cách tốt hơn. Để thực hiện chính sách này, Công ty thường xuyên chú ý tới khâu cung cấp thông tin cũng như khâu thu nhập, xử lý thông tin kịp thời và chính xác. Công ty đã áp dụng các phương pháp như sau để có thông tin thị trường và lựa chọn bạn hàng : Phương pháp điều tra qua tài liệu sách báo: - Thông qua đại diện thương mại Việt Nam ở các thị trường mục tiêu cũng như các đại diện thương mại các nước này tại Việt Nam để khai thác và thu nhập thông tin. - Nghiên cứu thường xuyên các bản tin giá cả thị trường của tạp chí thị trường. - Thuộc thông tấn xã Việt Nam. Các bản tin này cung cấp thông tin chính xác và hàng ngày về tình hình biến động cung cầu giá cả cà phê trên các sở giao dịch lớn của thế giới . Phương pháp điều tra thị trường tại chỗ bao gồm: - Thiết lập các văn phòng chi nhánh tại nước ngoài, bao gồm các văn phòng đại diện tại Mỹ và Nga nhận tin qua các cơ quan thương mại Việt Nam tại nước ngoài. - Tổ chức và tham gia các triển lãm và hội chợ thương mại quốc tế trong đó chủ yếu là các hội chợ triển lãm tại khu vực Châu Âu. Các hội chợ này là cơ hội để Công ty tìm kiếm bạn hàng và giới thiệu sản phẩm của mình . Ngoài ra còn các phương pháp khác như: Tổ chức tốt việc thiết lập hệ thống cộng tác viên trong và ngoài nước; thông qua các Công ty môi giới tại các thị trường mới. Thực hiện tốt những phương pháp này giúp công ty lựa chọn đúng thị trường, bạn hàng cũng như thời cơ thuận lợi để có phương thức mua bán và điều kiện thích hợp trên từng thị trường và với từng bạn hàng khác nhau. Chương 3: Một số nhận định về kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty prosimex và những giải pháp đề nghị 1. những thuận lợi và khó khăn của công ty prosimex trong quá trình xuất khẩu cà phê: Công ty prosimex tham gia xuất khẩu cà phê từ năm 1993. Cho đến nay, Công ty đã trải qua hơn năm năm xuất khẩu cà phê trong đó có bốn năm làm đầu mối xuất khẩu của cả nước. Trong quá trình này công ty đã có được nhiều thuận lợi và gặp phải không ít khó khăn trở ngại gây ra những vấn đề tồn tại hiện vẫn chưa tháo gỡ được. Những thuận lợi và khó khăn có thể xuất phát từ yếu tố bản thân của Công ty và cũng có thể xuất phát từ yếu tố môi trường bên ngoài tác động nhưng luôn có ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp tới hiệu quả khinh doanh mặt hàng này nói riêng và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty nói chung. 1.1. Thuận lợi: Những thuận lợi trong kinh doanh xuất khẩu cà phê của Công ty bao gồm những thuận lợi do khách quan bên ngoài mang lại và những thuận lợi do chủ quan mà có. Về khách quan: - Là một doanh nghiệp Nhà nước Công ty Prosimex được nhà nước đầu tư về vốn như vốn cố định, vốn lưu động và cho vay vốn ngắn hạn, vay vốn dài hạn khi hoạt động kinh doanh. - Cây cà phê và mặt hàng cà phê xuất khẩu đang được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu. Rất nhiều đề xuất về các biện pháp giải quyết các vấn đề tồn tại đang được đưa ra để Chính phủ xem xét và phê duyệt. Trong tương lai gần đây, ngành cà phê sẽ có những quyền hạn và ưu đãi tương xứng với vị trí một ngành xuất khẩu chủ lực. - Việt Nam đã ra nhập tổ chức cà phê quốc tế và hiệp nhội các nước xuất khẩu cà phê do đó có điều kiện tăng khả năng trao đổi thông tin thị trường, giá cả, học hỏi kinh nghiệm giữa các nước với nhau cũng như tăng cường hợp tác với các nước xuất khẩu cà phê khác nên tạo ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nói chung và công ty nói riêng nhiều cơ hội. Về chủ quan: - Công ty đã bước đầu có định hướng hợp lý cho sự phát triển của mặt hàng trong tương lai. Trong bản phương hướng, nhiệm vụ tới năm 2003 của công ty, mặt hàng cà phê tiếp tục được xác định là một trong hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực và sẽ được tập trung vốn đầu tư. Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp và có tiềm năng lớn đã được khẳng định về cây cà phê thì đây là định hướng phù hợp và sáng suốt. Ngoài ra, Công ty còn đảm bảo được những nguồn cung cấp ổn định, có chất lượng tương đối cao với phân bố khu vực khai thác rộng trên các khu vực sản xuất chính của nước ta. Chính yếu tố này đã tạo cho Công ty cơ sở vững chắc để phát triển thị trường têu thụ ở nước ngoài. - Công ty đã phát triển được một hệ thống thị trường tiêu thụ rộng rãi ở nhiều khu vực trên thế giới. Các thị trường này có tiềm năng lớn và đang tiếp tục tăng trưởng về kim ngạch và sản lượng. - Công ty cũng đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm qua bốn năm làm đầu mối xuất khẩu. Những thuận lợi này là những ưu thế không nhỏ trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu cà phê của công ty tuy nhiên chỉ có một số ít là những thuận lợi do khách quan mang lại còn hầu hết đều là do nỗ lực của Công ty trong nhiều năm tiến hành xuất khẩu cà phê mà có. Vì vậy, trong thời gian tới, với tình hình cung cầu, giá cả còn tiếp tục diễn biến phức tạp Công ty cần tiếp tục duy trì và cố gắng hơn nữa trong việc thích ứng với thị trường để có thể giữ được những lợi thế hiện có. 1.2. Khó khăn. Chương hai của thu hoạch này đã nêu lên tình hình kinh doanh tình hình kinh doanh cà phê xuất khẩu của công ty và cũng đã phần nào chỉ ra các tồn tại mà công ty đang phải khắc phục trong quá trình hoạt động. Những tồn tại đó bao gồm cả những vấn đề mới nảy sinh và cả những vấn đề vướng mắc từ lâu nay chưa tháo gỡ được; cả những vấn đề do khách quan và những vấn đề khó khăn do chủ quan chưa tháo gỡ được. Về mặt khách quan, những khó khăn Công ty đã gặp phải cũng là những khó khăn chung của ngành cà phê Việt Nam trong nhiều năm qua. Những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trong việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu cà phê, bao gồm : Khó khăn về cơ chế quản lý xuát khẩu cà phê của nhà nước : Năm 2000, để khắc phục những tiêu cực phát sinh từ chế độ đầu mối xuất khẩu và thực hiện sự mở rộng chính sách xuất nhập khẩu, theo nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ chung ta tiến hành bỏ cơ chế đầu mối, cho phép tự do xuất khẩu cà phê. Đây là quyết định hoàn toàn đúng nhằm đẩy mạnh tính cạnh tranh trên thị trường, tạo ra một sân chơi tự do cho các nhà xuất khẩu muốn tham gia. Nhưng trên thực tế chúng ta vẫn chưa tìm được một cơ chế quản lý mới hiệu quả để thay thế cơ chế quản lý cũ. Bởi thế lại tái diễn tình trạng tranh mua để xuất nên đẩy giá lên cao, lại bị nước ngoài lợi dụng tranh xuất để ép giá. Khoảng cách giữa giá thế giới và giá xuất của ta ngày càng rộng ra: từ trên dưới 100USD/ tấn đã bị doãng ra 300 - 400USD/tấn, làm giảm kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó giá thị trường trong nước lại tăng lên làm tăng giá vốn, thu hẹp sự chênh lệch giữa tỷ giá xuất và tỷ giá mua chuyển khoản của ngân hàng: từ chênh lệch cao nhất khoảng 1500đ/USD, đã giảm xuống khá mạnh, thậm c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9432.doc
Tài liệu liên quan