Chuyên đề Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương tỉnh Nam Định

NHCT tỉnh Nam Định có một phòng thông tin tín dụng, chuyên trách về việc cung cấp các thông tin tín dụng cho cán bộ. Tuy nhiên, các thông tin mà phòng có được đều do phòng tập hợp trong nội bộ ngân hàng, lấy của CIC hoặc các ngân hàng bạn, thông qua Internet, báo đài.

Các thông tin từ luồng bên ngoài đều rất sơ sài, chưa có quy định về chi phí mua thông tin được phép bao nhiêu, chưa có quy định nào về việc các cơ quan bộ ngành phải cung cấp và được phép cung cấp các thông tin thuộc cấp độ nào cho ngân hàng. Việc phân tích thu thập thông tin chuẩn theo mặt hàng, ngành hàng và lĩnh vực kinh tế hầu như chưa được thực hiện, kể cả tại hội sở trung ương. Thông tin chủ yếu mà cán bộ tín dụng có được là các báo cáo tài chính do bản thân khách hàng cung cấp. Hầu hết các báo cáo tài chính của doanh nghiệp đều chưa bắt buộc phải kiểm toán nên sự trung thực của các số liệu là không đảm bảo. Chỉ nhất báo cáo của các công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài là có kiểm toán, nhưng đối với nhóm khách hàng này ngân hàng cũng phải thận trọng vì một vài lý do như: Các công ty nước ngoài đều coi trọng bí mật kinh doanh nên hầu hết họ rất thận trọng khu cung cấp các thông tin ra bên ngoài.

 

docx81 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, NHCT tỉnh Nam Định áp dụng tổng hợp một loạt các chính sách như ưu đãi về lãi suất tiền vay, lãi suất tiền gửi, phí dịch vụ... vì vậy NHCT tỉnh Nam Định đã thu hút được rất nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, không những duy trì tốt đẹp quan hệ với những khách hàng truyền thống mà còn phát triển thêm được nhiều khách hàng mới Qua số liệu bảng ta thấy dư nợ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sự tăng trưởng rõ rệt qua các năm. Từ chỗ chiếm 40% năm 2005 lên 43% năm 2006 và năm 2007 chiếm tới 58% tổng dư nợ. Đây là kết quả đáng khích lệ, thể hiện rõ sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của Ban lãnh đạo NHCT tỉnh Nam Định trên cơ sở những định hướng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hướng dẫn của NHCT Việt Nam. Chính điều này đã góp phần quan trọng trong việc hạn chế bớt những rủi ro lớn xảy ra tại NHCT tỉnh Nam Định . Kết quả này làm cho lợi nhuận của Chi nhánh đạt được ở mức cao. Chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định còn chú ý tới cho vay tiêu dùng không có bảo đảm bằng tài sản đối với cán bộ công nhân viên có mức thu nhập trung bình, giúp họ có điều kiện cải thiện chất lượng cuộc sống. Đến cuối năm 2007, Chi nhánh đã cho CBCNV vay có số dư nợ là :14.952 triệu đồng Tóm lại, hoạt động tín dụng tại NHCT tỉnh Nam Định trong những năm qua đã thể hiện rõ sự nỗ lực cố gắng của toàn thể đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh. Trên đây chúng ta mới chỉ xem xét về mặt số lượng của công tác tín dụng. Để đánh giá chính xác hiệu quả của công tác này, chúng ta cần xem xét cả về mặt chất lượng tín dụng của Chi nhánh. 2.2.2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Tuy nhiên, cũng như tất cả các ngành khác, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Với nguồn vốn đã huy động được, việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất là công việc hết sức khó khăn. Nếu nguồn vốn huy động lớn mà dư nợ nhỏ thì ngân hàng sẽ bị ứ đọng vốn, nhưng nếu tín dụng tăng quá cao thì chưa chắc đã là điều tốt. Dư nợ tín dụng tăng cao có thể dẫn đến tình trạng không thu hồi được hết nợ và làm giảm đi hiệu quả sinh lời của vốn ngân hàng. Dư nợ tín dụng quá cao có thể gây ra những khoản nợ không thu hồi được khi đến hạn và có thể phải chuyển sang nợ quá hạn, làm chậm vòng luân chuyển vốn của ngân hàng, dẫn đến giảm lợi nhuận. Việc tăng dư nợ tín dụng trong ba năm 2005 , 2006 và năm 2007, đặc biệt là sự tăng trưởng của dư nợ trung dài hạn chưa tương xứng với cơ cấu nguồn vốn của NHCT, đẩy NHCT vào tình trạng khan vốn tại từng thời điểm và tương lai phải tăng mạnh nguồn vốn trung dài hạn để hạn chế rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng của ngân hàng không thể tránh được việc phát sinh nợ quá hạn. Nợ quá hạn hiện nay đang là vấn đề bức xúc cần giải quyết của các ngân hàng. Những khoản nợ đến hạn mà khách hàng không trả được (cố tình không trả hoặc không có khả năng trả) đều phải chuyển sang nợ quá hạn. Với những khoản nợ này, ngân hàng tính lãi suất cao hơn lãi suất cho vay bình quân nhằm bù lại phần thiệt thòi cho ngân hàng khi không thu hồi được vốn.Lãi suất được áp dụng cho nợ quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất cho vay thông thường. Những khoản nợ này tạo ra nhiều khó khăn và có thể dẫn đến nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Ngân hàng có thể dùng nhiều biện pháp để thu hồi nợ quá hạn, song điều đó có thể làm cho ngân hàng tốn nhiều chi phí. Để phân tích sâu hơn về mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHCT tỉnh Nam Định, chúng ta sẽ xem xét nợ quá hạn của ngân hàng theo một số tiêu thức như sau: A- NỢ QUÁ HẠN THEO LOẠI HÌNH TÍN DỤNG Tình hình nợ quá hạn theo loại hình tín dụng của Chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định qua các năm được thể hiện qua bảng số liệu sau: Tình hình nợ quá hạn tại NHCT tỉnh Nam Định Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Tỷ lệ nợ quá hạn (%) Số tiền Tỷ lệ nợ quá hạn (%) Số tiền Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 1. Dư nợ ngắn hạn 413.120 499.512 527.002 Trong đó: Nợ quá hạn 404 0,09 5.332 1,07 2. Dư nợ trung dài hạn 212.455 191.088 Trong đó: Nợ quá hạn 56 0,02 72 19 0,026 Tổng dư nợ 625.575 745.415 0,02 718.090 Tổng dư nợ quá hạn 460 0,07 5.424 0,72 19 0,026 (Theo số liệu báo cáo của Phòng Kinh doanh - NHCT tỉnh Nam Định) Sở dĩ năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ tăng so với năm 2005 là do khoản nợ 5.332 triệu đồng của Công ty XNK tổng hợp và đầu tư Nam Định tuy phát sinh trong năm 2006 nhưng thực chất đây là khoản nợ vay thanh toán công nợ giai đoạn I từ năm 2004. Công ty đã dùng vốn lưu động để trả khoản nợ vay thanh toán, do đó đơn vị gặp khó khăn, không trả được nợ vay ngân hàng và đơn vị đã ngừng hoạt động. Đây là khoản nợ khó đòi không còn đối tượng để thu, Chi nhánh đã hoàn thiện hồ sơ trình NHCT Việt Nam xét duyệt xử lý rủi ro. Nếu như loại trừ khoản nợ này là tồn tại cũ thì tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định năm 2006 là 0,01%. Trong năm 2007, các khoản cho vay mới của NHCT tỉnh Nam Định chỉ phát sinh nợ quá hạn với số tiền là :616 triệu đồng, nhưng đến cuối năm đã thu hồi hết, số nợ quá hạn còn lại đến 31/12/2007 là : 19 triệu đồng chiếm tỷ lệ 0,026% tổng dư nợ và chủ yếu nợ quá hạn cho vay CBCNV của những năm trước còn lại . Điều này đã thể hiện rõ chất lượng tín dụng tại NHCT tỉnh Nam Định đạt được ở mức cao, nợ quá hạn được thể hiện qua các năm. Năm 2005 tỷ lệ nợ quá hạn là 0,07%, năm 2006 tỷ lệ này là 0,72% , đến năm 2007 là 0,026%. Mặt dù tổng dư nợ của năm 2007 giảm so với năm 2006 là 3,7%, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại giảm đi cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối. Đạt được kết quả này là nhờ những cố gắng vượt bậc của Chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định trong việc nâng cao chất lượng thẩm định các món vay, công tác xử lý nợ khó đòi và thu hồi nợ xấu trong ba năm 2005 - 2007 được thực hiện tốt. Trong bảng số liệu ở trên, chúng ta thấy nợ quá hạn tập trung chủ yếu ở lĩnh vực dư nợ dài hạn cho vay CBCNV, đây là tồn tại từ khi ngân hàng đầu tư vào lĩnh vực cho vay tiêu dùng bảo đảm bằng lương của CBCNV. B- NỢ QUÁ HẠN PHÂN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nợ quá hạn/tổng dư nợ 0,07 0,72 0 Nợ QH khu vực QD/Dư nợ khu vực QD 0,08 1,26 0 Nợ QH khu vực ngoài QD/Dư nợ khu vực ngoài QD 0,06 0,01 0,026 (Theo số liệu báo cáo của Phòng Kinh doanh - NHCT tỉnh Nam Định) Qua đó ta thấy, trong những năm qua nợ quá hạn của các thành phần kinh tế đã giảm đi rõ rệt, tuy nhiên mức độ giảm của từng khu vực kinh tế có khác nhau: ở khu vực kinh tế quốc doanh nợ quá hạn tăng 0,08% năm 2005 và giảm xuống 0,01% năm 2006, năm 2007 đã không để nợ quá hạn mới phát sinh. Trong khi đó, ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nợ quá hạn đã liên tục giảm từ năm 2005 đến nay. Từ năm 2005 và đến năm 2006 chỉ còn 0,01%, năm 2007 phát sinh nợ quá hạn 616 triệu đồng song NHCT Tỉnh Nam Định đã kịp thời đôn đốc thu hồi hết. Ngoài ra, Chi nhánh còn nỗ lực thu hồi các khoản nợ quá hạn cũ. Chứng tỏ chất lượng tín dụng tốt của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà Chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định đã đầu tư. Đây là một khu vực kinh tế năng động, có tốc độ tăng trưởng cao và Chi nhánh đã tỏ ra đúng hướng khi nâng cao tỷ trọng đầu tư vào thành phần kinh tế này. C- NỢ QUÁ HẠN PHÂN THEO THỜI GIAN Nợ quá hạn theo thời gian Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nợ QH dưới 6 tháng/ Tổng nợ QH 0 0 0 Nợ QH 6- 12 tháng/ Tổng nợ QH 0,01 0,01 0 Nợ QH trên 12 tháng/ Tổng nợ QH 99,99 99,99 100 (Theo số liệu báo cáo của Phòng Kinh doanh - NHCT tỉnh Nam Định) Nhìn vào số liệu trên đây, ta thấy nợ quá hạn tại NHCT tỉnh Nam Định chủ yếu là các khoản nợ trên 12 tháng. Tổng số nợ quá hạn 19 triệu của các món vay tiêu dùng có nguồn thu nợ từ lương cho vay CBCNV do khách hàng gặp phải các yếu tố bất khả kháng trong cuộc sống như bệnh tật, tai nạn... khách hàng mất hoàn toàn khả năng thanh toán hay bỏ trốn khỏi nơi công tác Qua đó, ta thấy nợ quá hạn tại NHCT tỉnh Nam Định chủ yếu là các khoản nợ phát sinh từ trước năm 2006. Trong năm 2007, Chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định phấn đấu làm tốt công tác thu hồi và xử lý nợ tồn đọng. Đến 31/12/2007, chi nhánh đã thực hiện việc trích lập đủ số dự phòng rủi ro để xử lý hết số nợ tồn đọng của các năm trước để lại, Chi nhánh đã hoàn thiện hồ sơ và trình NHCT Việt Nam xét duyệt để xử lý rủi ro. D- PHÂN TÍCH NỢ KHÓ ĐÒI THEO NGUYÊN NHÂN Nhóm dư nợ khó đòi đều là những khoản nợ quá hạn đã lâu khách hàng khó hoặc không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Đây là mối đe doạ trực tiếp đến việc giảm vốn tự có của ngân hàng, vì nguồn bù đắp duy nhất cho các khoản nợ này trong trường hợp khách hàng không trả được nợ là lấy từ vốn tự có của ngân hàng, mà cụ thể từ quỹ dự phòng bù đắp rủi ro. Nợ khó đòi của ngân hàng bao gồm các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý và các khoản nợ quá hạn trên 12 tháng khó có khả năng thu hồi. Ta hãy xem xét việc phân tích nợ khó đòi của Chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định trong hai năm 2005 - 2006. Phân tích nợ khó đòi theo nguyên nhân Đơn vị: Triệu đồng Năm Nợ khó đòi Nguyên nhân chủ quan Nguyên nhân khách quan SXKD thua lỗ Giải thể, ngừng SX Thiên tai địch hoạ Không có người nhận Khác 2005 404 404 2006 5.403 5.403 (Theo số liệu báo cáo của Phòng Kinh doanh - NHCT tỉnh Nam Định) Sở dĩ trong năm 2006 khoản nợ khó đòi tăng lên 5.403 triệu đồng là do khoản nợ 5.332 triệu đồng của Công ty XNK tổng hợp và đầu tư Nam Định mà chúng ta đã phân tích ở trên. Trong các nguyên nhân dẫn đến nợ khó đòi, chủ yếu là nguyên nhân khách quan đến từ phía khách hàng, khách hàng làm ăn thua lỗ phải giải thể, ngừng hoạt động, dẫn tới ngừng sản xuất. Đây là những nguyên nhân do cơ chế chính sách mang lại. E- MỘT VÀI PHÂN TÍCH KHÁC VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG Nợ khoanh, nợ chờ xử lý và vòng quay vốn tín dụng Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền %/Tổng dư nợ Số tiền %/Tổng dư nợ Số tiền %/Tổng dư nợ Nợ khoanh 111.030 18 100.938 14 0 0 Nợ chờ xử lý 0 0 0 0 19 0,026 Vòng quay vốn tín dụng 2,04 2,04 1,70 (Theo số liệu báo cáo của Phòng Kinh doanh - NHCT tỉnh Nam Định) NHCT tỉnh Nam Định còn có một số khoản nợ tồn đọng, do vậy có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các khoản nợ này chủ yếu do lịch sử để lại, phần lớn phát sinh từ năm 2005 trở về trước. Dù đã đa dạng hoá đối tượng khách hàng nhưng tỷ trọng cho vay nhóm khách hàng lớn vẫn còn cao, dễ dẫn đến rủi ro tín dụng trong ngân hàng. * Về trình độ cán bộ tín dụng Nhận thức được vai trò quan trọng của nhân tố con người trong công việc kinh doanh, NHCT tỉnh Nam Định đã luôn quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng, ngay từ khâu đầu tiên trong việc tuyển lựa cán bộ tín dụng cũng đặt ra yêu cầu trình độ, có kinh nghiệm và hiểu biết về các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, điều bất cập xảy ra là trình độ bằng cấp thì nhiều, song việc áp dụng vào thực tế công việc lại đòi hỏi phải năng động, nhanh nhạy. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực quản lý, trình độ, kiến thức khoa học và thực tiễn cuộc sống để quyết đoán một món vay cho phù hợp, đúng cơ chế, tính toán được hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng và có thể lường trước được những bất trắc có thể xảy ra. * Việc chấp hành quy trình tín dụng Qua công tác kiểm tra tín dụng, các chi nhánh đã rất chú ý tới thủ tục hồ sơ vay nhưng vẫn còn nhiều trường hợp hồ sơ cho vay, thế chấp, cầm cố tài sản chưa đủ các chứng từ pháp lý. Việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay chưa được coi trọng đúng mức, đặc biệt là khâu kiểm soát trong và sau khi cho vay còn thiếu chặt chẽ. Điều này dẫn đến các đơn vị sử dụng vốn sai mục đích, dùng vốn vay đầu tư trung dài hạn hoặc bán hàng thu được tiền không trả nợ ngay cho ngân hàng mà quay vòng hoặc mua bán hàng hoá lòng vòng... dẫn đến không trả được nợ đúng hạn hoặc để mất vốn. Nguyên nhân về khách quan là do các văn bản hướng dẫn về hồ sơ pháp lý, các công việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay của NHCT tỉnh Nam Định đã có nhưng chưa thống nhất. Về chủ quan, cán bộ tín dụng còn cảm tình, cả nể, còn quá tin vào tài sản thế chấp nên coi nhẹ việc kiểm tra giám sát đơn vị trả nợ. * Hệ thống thông tin hạn chế cả về lượng và chất Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa thực sự phát huy hiệu quả, chưa có một quy chế đủ hiệu lực đưa các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng trên địa bàn cùng vào guồng máy để có sự hợp tác và tương trợ lẫn nhau trong việc đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. NHCT tỉnh Nam Định có một phòng thông tin tín dụng, chuyên trách về việc cung cấp các thông tin tín dụng cho cán bộ. Tuy nhiên, các thông tin mà phòng có được đều do phòng tập hợp trong nội bộ ngân hàng, lấy của CIC hoặc các ngân hàng bạn, thông qua Internet, báo đài... Các thông tin từ luồng bên ngoài đều rất sơ sài, chưa có quy định về chi phí mua thông tin được phép bao nhiêu, chưa có quy định nào về việc các cơ quan bộ ngành phải cung cấp và được phép cung cấp các thông tin thuộc cấp độ nào cho ngân hàng. Việc phân tích thu thập thông tin chuẩn theo mặt hàng, ngành hàng và lĩnh vực kinh tế hầu như chưa được thực hiện, kể cả tại hội sở trung ương. Thông tin chủ yếu mà cán bộ tín dụng có được là các báo cáo tài chính do bản thân khách hàng cung cấp. Hầu hết các báo cáo tài chính của doanh nghiệp đều chưa bắt buộc phải kiểm toán nên sự trung thực của các số liệu là không đảm bảo. Chỉ nhất báo cáo của các công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài là có kiểm toán, nhưng đối với nhóm khách hàng này ngân hàng cũng phải thận trọng vì một vài lý do như: Các công ty nước ngoài đều coi trọng bí mật kinh doanh nên hầu hết họ rất thận trọng khu cung cấp các thông tin ra bên ngoài. Các thông tin từ nguồn nội bộ là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, một thực tế là chất lượng các báo cáo không cao, tỷ lệ sai lệch thực tế nhiều khi khá lớn, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều hành quản lý. * Công tác kiểm tra, kiểm soát Vai trò chủ động kiểm tra, kiểm soát tự phát hiện của các cơ sở làm chưa thường xuyên, sâu sát và nghiêm túc cả về mặt nội dung, phương pháp và các biện pháp xử lý. * Việc thẩm định và quản lý tài sản đảm bảo Các loại tài sản đảm bảo mà khách hàng có thể cầm cố, thế chấp tại ngân hàng rất đa dạng, gồm nhiều chủng loại khác nhau. Việc định giá và thẩm định các thông số kỹ thuật của tài sản đảm bảo hoặc tài sản hình thành từ vốn vay, đặc biệt là các dây chuyền máy móc thiết bị khá phức tạp, không thuộc chuyên môn của ngân hàng. 2.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng Chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định a) Nhóm nguyên nhân chung: - Trước hết là những nguyên nhân khách quan như : thiên tai, dịch bệnh, phá hoại sản xuất kinh doanh... Đây là những biến cố khách quan không thể lường trước được, nó có tác động trực tiếp và ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều khi những biến cố này làm cho ngân hàng cho vay bị mất trắng, không thể thu hồi được khoản nợ. Thiên tai và dịch bệnh không loại trừ ai, nó ảnh hưởng tới khả năng thực hiện phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ của người vay. - Sự thay đổi bất thường của chính sách kinh tế của Nhà nước: Khi có sự thay đổi về chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sáp nhập hoặc tách ra của các bộ, ngành trong nền kinh tế sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, kéo theo khả năng hoàn trả của khách hàng cho ngân hàng. - Hoàn cảnh kinh tế - xã hội trong nước: Một nền kinh tế dù mạnh hay yếu đều phải trải qua chu kỳ "khủng hoảng - suy thoái - phát triển - hưng thịnh". Do vậy, một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh, tiềm năng sản xuất và tiêu dùng của xã hội còn lớn thì hoạt động sản xuất kinh doanh có điều kiện tốt để phát triển và ngược lại. Vấn đề đặt ra là các ngân hàng cần nghiên cứu kỹ các chu kỳ của nền kinh tế để có chính sách cho vay phù hợp. - Nhân tố quốc gia: Ngày nay, quan hệ kinh tế đối ngoại càng được mở rộng, các nước trên thế giới có quan hệ tương hỗ và ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Mặt khác, trong thời đại toàn cầu hoá,ngân hàng cũng phải cải tiến và hoà nhập thích ứng với xu thế chung đó. Vấn đề quốc gia cũng đã được hệ thống ngân hàng đưa vào các sách lược kinh doanh của mình. Khi có sự biến động về kinh tế, chính trị của một nước trên thế giới như chính sách xuất nhập khẩu, chi phí dịch vụ, lãi suất, sự thay đổi về chế độ chính trị, chính sách cấm vận... sẽ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của ngân hàng. Nếu một quốc gia bị suy thoái kinh tế sẽ gây trở ngại cho công việc làm ăn của khách hàng, khiến ngân hàng bị ảnh hưởng gián tiếp bởi các hoạt động đó. Mặt khác, những sự thay đổi trên sẽ dẫn đến cán cân thanh toán quốc tế cũng như tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền thay đổi, dẫn đến sự biến động của thị trường trong nước như giá cả nguyên vật liệu, hàng hoá dịch vụ, lãi suất thị trường, mức cầu của tiền tệ... Đó là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng thương mại. - Môi trường pháp lý: Hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh với đối tượng hàng hoá đặc biệt là tiền tệ, cái mà ngân hàng thương mại cần trước nhất là hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,tạo ra các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. b) Nhóm nguyên nhân cụ thể: * Nguyên nhân từ phía khách hàng: Nguyên nhân từ phía người đi vay là một trong những nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng. Nhìn chung, nguyên nhân này có thể nắm bắt được và các ngân hàng có nhiều kinh nghiệm như tìm hiểu, nắm vững trước, trong và sau khi vay, mục đích sử dụng tiền vay, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. - Đối với khách hàng là cá nhân: + Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng không ổn định do chưa lựa chọn được phương hướng sản xuất kinh doanh đúng đắn hoặc chưa định canh định cư ổn định, dẫn đến thu nhập không ổn định và ảnh hưởng đến việc trả nợ vay. + Năng lực, trình độ của người đi vay còn chưa cao, chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức sản xuất, quản lý vốn, kinh doanh... hoặc do người đi vay hoạch định ngân quỹ không chính xác, không dự tính hết được các khoản chi tiêu, dẫn đến xác định sai thu nhập để có thể trả nợ ngân hàng. + Người đi vay bị thất nghiệp tạm thời hoặc lâu dài, dẫn đến thu nhập bị giảm thấp hoặc không còn. + Khách hàng gặp phải bất trắc trong cuộc sống như tai nạn, bệnh tật,.. + Người đi vay sử dụng vốn sai mục đích rất dễ dẫn đến không trả nợ đúng hạn hoặc không trả được nợ cho ngân hàng. + Do khách hàng cố tình lừa đảo để chiếm đoạt vốn của ngân hàng. - Đối với khách hàng là doanh nghiệp: + Thực trạng hoạt động kinh doanh của người đi vay: Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của người đi vay mà có sử dụng vốn vay của ngân hàng là nguyên nhân trực tiếp gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán triển khai dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không khoa học, không xây dựng được chính xác các chỉ tiêu quan trọng như : Định mức tiêu thụ sản phẩm, cơ cấu giá thành, chất lượng sản phẩm, nguồn nguyên vật liệu không đầy đủ, chính xác. Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp cũng chính là rủi ro trong công tác tín dụng của ngân hàng, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng ở nhiều cấp độ khác nhau, tương ứng với từng cấp độ rủi ro doanh nghiệp phải hứng chịu. + Doanh nghiệp gặp phải biến cố xấu trên thị trường cung cấp : Giá cả nguyên vật liệu đột biến tăng. Nếu để đảm bảo thu nhập của mình, doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm lên sẽ làm cho việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, tồn kho lớn, luân chuyển vốn chậm, ảnh hưởng đến việc trả nợ vay ngân hàng về mặt thời hạn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp hạ giá bán sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và khả năng tái sản xuất của doanh nghiệp, thậm chí bị lỗ vốn và không trả được nợ cho ngân hàng. + Bên cạnh thị trường cung cấp, doanh nghiệp cũng có khả năng gặp thiệt hại trên thị trường tiêu thụ. Giá cả các yếu tố đầu vào tăng sẽ đội giá thành sản phẩm lên trong khi doanh nghiệp lại không thể tăng giá bán nên giá bán nhỏ hơn giá thành sản phẩm. Hoặc do trong môi trường cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp buộc phải giảm giá bán một cách đồng loạt, chính điều này đã làm ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp. + Người đi vay trong quá trình thực hiện dự án có thể sử dụng vốn vay sai mục đích, không đảm bảo độ an toàn trong sử dụng vốn, gây lãng phí hoặc mất vốn, dẫn đến khả năng trả nợ cho ngân hàng gặp khó khăn. + Bên cạnh những khách hàng với mong muốn đảm bảo kịp thời cho quá trình kinh doanh và hoàn trả vốn vay ngân hàng thì cũng có không ít người đi vay với mục đích lừa đảo. Họ cố tình xuất trình những dự án rất sáng sủa để đến khi vay được vốn lại sử dụng vào mục đích khác. Đây được hiểu là hoạt động có chủ định của người đi vay được tính toán từ trước nhằm chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Nguyên nhân này được xếp vào loại nguyên nhân rủi ro về tư cách đạo đức của người đi vay.Một phần do cán bộ tín dụng thiếu kinh nghiệm, một phần do chạy theo mức dư nợ tín dụng hoặc một mối lợi nhỏ nào đó đã quyết định cho vay và rủi ro là tất yếu. Những trường hợp như vậy phần lớn ngân hàng cần có sự giúp đỡ can thiệp của pháp luật. + Năng lực tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh, khả năng thanh toán giảm sút, yếu kém.. Cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp không hợp lý như : Tăng quy mô đầu tư tài sản cố định lên quá mức cần thiết gây lãng phí, hay chỉ tập trung vốn đầu tư dài hạn mà không dự phòng hợp lý vốn lưu động. Tất cả các biểu hiện về tài chính nói trên đều gây khó khăn cho việc trả nợ đúng hạn của khách hàng đối với ngân hàng, tạo ra các khoản nợ quá hạn. + Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp yếu kém. + Ngoài ra, còn có thể kể đến những nguyên nhân khác như cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp yếu kém, lạc hậu, sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng kém, khó cạnh tranh với doanh nghiệp khác hoặc do tình trạng tham nhũng, gian lận trong nội bộ doanh nghiệp. * Nhóm nguyên nhân từ phía ngân hàng Ngoài nguyên nhân gây ra nợ quá hạn từ phía người đi vay,còn có những thiếu sót, khuyết điểm từ phía ngân hàng: + Trước hết phải nói đến chính sách tín dụng của ngân hàng không phù hợp với đặc điểm và thực trạng của nền kinh tế, do đó đã đưa ra những quyết định tín dụng sai lầm. Chính sách tín dụng được hiểu đầy đủ bao gồm định hướng chung trong việc cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; các quy định về đảm bảo tiền vay, về loại khách hàng và ngành nghề được ưu tiên; quy trình xét duyệt cho vay cụ thể... + Năng lực thẩm định dự án cho vay của ngân hàng còn yếu nên đã cho vay những dự án không khả thi, nhiều rủi ro, không có khả năng thu hồi vốn. Cán bộ tín dụng chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về ngành nghề mà mình tài trợ, trong khi ngân hàng không có đủ thông tin các số liệu thống kê, các chỉ tiêu để phân tích, đánh giá khách hàng, phân tích khả năng tiêu thụ thị trường hiện tại và tương lai, tính toán chu kỳ và vòng đời sản phẩm, dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án. + Ngân hàng thực hiện chưa tốt các hình thức đảm bảo tín dụng, trong một số trường hợp thì thế chấp, cầm cố chỉ là hình thức. Bên cạnh đó, ngân hàng lại quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật bảo đảm chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay mà coi nhẹ kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực thi dự án, phòng ngừa rủi ro… + ngân hàng thường xuyên đứng trước một mâu thuẫn khó có thể giải quyết, đó là mở rộng tín dụng để tăng lợi nhuận, đồng thời hạn chế rủi ro tín dụng. Nhiều ngân hàng đã ra sức đưa mức dư nợ tín dụng lên cao mà bỏ qua nhưng điều kiện cần thiết hoặc hạ thấp tiêu chuẩn cho vay, cho vay không thẩm định kỹ các thông tin, cho vay không có thế chấp, thẩm định phương án kinh doanh trên giấy tờ, mang nặng tính hình thức... + Thông tin tín dụng là vấn đề quan trọng hàng đầu khi quyết định cho vay. Các ngân hàng thương mại chưa được cung cấp đầy đủ và chính xác thông tin, do chưa có một cơ quan trung gian đủ năng lực và tin cậy đứng ra kinh doanh để thu thập và cung cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng, mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) đã được thành lập và đi vào hoạt động nhưng hiệu quả chưa cao. Nhiều ngân hàng không nắm được đầy đủ thông tin về dư nợ tại các tổ chức tín dụng, quan hệ vay trả, khả năng tài chính... về khách hàng của mình nên có thể phán quyết sai lầm khi cho vay, tất yếu sẽ dẫn đến nguy cơ rủi ro cao. + Công tác kiểm tra, kiểm soát kém hiệu lực : Do trình độ cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập nên việc k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương tỉnh Nam Định.docx
Tài liệu liên quan