Chuyên đề Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

CHƯƠNG I HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ 3

1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: 3

1.1.1 Khái niệm: 3

1.1.2 Các loại hình ngân hàng thương mại: 3

1.1.3 Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: 5

1.1.4 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại: 8

1.2 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại: 14

1.2.1 Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại: 14

1.2.2 Các hình thức huy động vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại: 20

1.2.3 Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: 29

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại: 31

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo & PTNT HUYỆN TUẦN GIÁO – TỈNH ĐIỆN BIÊN 37

2.1 Khái quát chung về NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo – Tỉnh Điện Biên: 37

2.1.1 Quá trình phát triển của NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo: 37

2.1.2 Các hình thức huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo: 39

2.2 Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo & PTNT huyện Tuần Giáo: 44

2.2.1 Những mặt được, tồn tại và nguyên nhân: 53

CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo&PTNT HUYỆN TUẦN GIÁO 57

3.1 Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT huyện Tuần Giáo: 57

3.2 Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT huyện Tuần Giáo: 58

KẾT LUẬN 60

 

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uồn tiền gửi, đáp ứng cho nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc được trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn bằng hình thức này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được sự bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn tuỳ thuộc vào sự phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ... cũng được các ngân hàng quan tâm. (3) Vốn nợ khác: Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác. + Tiền uỷ thác: Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. + Tiền trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán( Séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ mở L/C...). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay. + Tiền khác: Các khoản nợ khác như thuế thu nhập chưa nộp, lương chưa trả... Các hình thức huy động vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là ngành kinh doanh vốn, đi vay để cho vay. Thế nhưng trong thời gian qua do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho đầu ra chưa thông suốt, ngân hàng không sử dụng hết nguồn vốn trong khi các nhà sản xuất kinh doanh lại thiếu vốn, cục bộ ở thành thị lại thiếu vốn trong khi ở nông thôn lại thiếu vốn. Việc sử dụng vốn cung ứng tín dụng đang là vấn đề được dư luận quan tâm, Ngân hàng nhà nước liên tục hạ trần lãi suất cho vay bổ sung thể lệ tín dụng để giải quyết đầu ra, kịp thời cung ứng cho sản xuất kinh doanh. Nhưng vấn đề là ở chỗ phải huy động được vốn mới có vốn để cho vay, đầu ra thông suốt thì phải lo đến nguồn vốn đầu vào. Thiết nghĩ cần quan tâm đến vấn đề tạo lập nguồn vốn của ngân hàng. (1) Vốn chủ sở hữu: Có thể thấy rằng không chỉ riêng đối với các ngân hàng thương mại mà ở tất cả các tổ chức tín dụng hoạt động trong nền kinh tế, vốn chủ sở hữu là yếu tố không thể thiếu được khi khởi đầu thành lập, nó được coi như là tài sản đảm bảo lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng, nó duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Tuy vậy, một điều thực tế cho thấy hiện nay là ở các ngân hàng thương mại hiện nay là có nhiều ngân hàng vừa mới thành lập( Ngân hàng thương mại cổ phần), các ngân hàng được ngân sách nhà nước cấp vốn ban đầu thì thường thấp... Dưới tình hình đó các ngân hàng đã có các giải pháp sau để huy động vôn chủ sở hữu: + Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên của ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông của ngân hàng và gắn chặt quyền lợi với quyền lợi chung của ngân hàng. Đối với hình thức này nên có những biện pháp khuyến khích đưa ra những khen thưởng vật chất. Đây là hình thức tạo lập mang tính lâu dài, ổn định và cần được chú trọng. + Bổ sung từ các quỹ dự phòn tài chính, quỹ trợ cấp, quỹ khen thưởng và các loại quỹ khác. + Lên doanh, liên kết với các tổ chức, các ngân hàng thương mại nước ngoài tranh thủ các nguồn vốn góp bằng ngoại tệ. Phát hành kỳ phiếu dài hạn, trái phiếu chuyển đổi. + Thực hiện tiết kiệm trong quản lý, tổ chức của nội bộ ngân hàng tránh những khâu lãng phí, thất thoát nguồn vốn, giành những khoản lãng phí không cần thiết đó để bổ sung thêm vốn chủ sở hữu. + Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh, nên tiến hành cổ phần hoá một số để tạo khả năng huy động tối đa vào vốn của ngân hàng. Ngày nay trên bước đường mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại, vai trò của vốn chủ sở hữu đối với các NHTM càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Có sinh lời chính là một tiêu thức quan trọng trong việc nhận xét, đánh giá về khả năng của NHTM để hội tụ đầy đủ những điều kiện khi tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của nghành ngân hàng. (2) Huy động vốn tiền gửi: + Tiền gửi không kỳ hạn. Nhìn chung, trước thập niên 70 của thế kỷ XX, tiền gửi không kỳ hạn của nhân dân là bộ phận lớn nhất trong tài sản nợ của các NHTM ở các nước. Tuy nhiên cho đến nhưng năm 80 và 90 của thế kỷ XX, mặc dù với việc cải tiến hệ thống quản lý bằng vi tính, các ngân hàng dễ dàng, vào bất cứ lúc nào chuyển các khoản gửi từ tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản có kỳ hạn sang tài khoản không kỳ hạn cho nhân dân sử dụng séc một cách tự động nhưng các khoản gửi không kỳ hạn vẫn chiếm một phần lớn trong tài sản của các ngân hàng. Có rất nhiều nguyên do giải thích về hiện tưuợng đó. Trước đây có một người có tiền gửi không kỳ hạn để sử dụng séc chi tiêu cho một việc nào đó, anh ta phải đến ngân hàng làm thủ tục. Nếu tiền gửi của anh ta đến hạn, chuyện này không làm anh ta tốn kém mà chỉ mất công đến ngân hàng. Nhưng trong trường hợp tiền gửi của anh ta chưa đến hạn, tình hình sẽ khách đi, anh ta vừa mất công, vừa phải chịu mất ít lãi suất và phạt và bị khấu trứ vào lãi suất được hưởng vì đã chuyển tiền trước thời hạn quy định. Sự phức tạp của vấn đề đã làm cho nhiều người ta nghĩ rằng nên lưu giữ một ít tiền thường xuyên mang tài khoản séc cho tiện. Điều đó góp phần cho các khoản gửi không kỳ hạn trở nên nhiều hơn. Nhưng sau đó nó lại bị phần nào sút giảm về số lượng bởi nguyên nhân là cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, một ngân hàng tiết kiệm ở Hoa Kỳ đã có một sángkiến. Ngân hàng này đã đưa ra một loại tài khoản tiền gửi mới, tài khoản Now(Negotiated order of withdraw)- một loại tài khoản tiết kiệm đặc biệt. Nó cho phép người gưi được rút tiền ra hoặc chuyển tiền bất cứ lúc nào mà không bị phạt lãi suất và tài khoản này đã nhanh chóng phổ biến ở Châu âu. Các ngân hàng thương mại ở Việt nam tiền gửi loại này chủ yếu từ các tổ chức kinh tế và cá nhân, tuy nhiên số lượng vẫn còn thấp. Các ngân hàng thương mại Việt nam đang tăng cường hơn nữa để huy động có hiệu quả: - Cho phép các cá nhân mở tài khoản thanh toán bằng séc tại ngân hàng nhằm thu hút các giao dịch qua hệ thống ngân hàng thay cho các giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế. Đối với ngân hàng, một khi dân cư được phép sử dụng rộng rãi tài khoản tiền gửi không kỳ hạn dùng séc thì một đồng tiền gửi không kỳ hạn tại một ngân hàng thương mại gia tăng sẽ làm tổng tiền gửi không kỳ hạn trong hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tăng lên gấp bội, có thể từ ba, bốn lần đến mười lần số tiền gửi ban đầu. Chính vì vậy đây là giải pháp tốt để tăng cường nguồn tài nguyên của ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các Doanh nghiệp và của dân cư. Để làm tốt điều này đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải mở rộng mạng lưới hoạt động, tạo điều kiện cho séc đươc thanh toán ở mọi nơi, mọi lúc thuận tiện, giúp cho khách hàng thấy được sự hạn chế yếu tố cồng kềnh và thủ tục đếm tốn kém thời gian của việc thanh toán bằng tiền mặt. - Tăng lãi suất đối với loại tiền gửi này. Tuy vậy cần chú ý là rất dễ dẫn đến cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng nên cần xem xét cẩn thận và tuân theo quy định của nhà nước. - Khuyến khích các đơn vị chi trả lương thưởng cho công nhân qua tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng. - Phát triển công nghệ thanh toán bằng thẻ tín dụng, thẻ thanh toán đầu tư hơn nữa vào mạng máy rút tiền tự động ATM đặt tại những nơi đông đân cư và trung tâm thương mại lớn. - Với các ngân hàng thương mại có quy mô lớn và tạo được uy tín trên thị trường thì cần đặc biệt coi trọng các hình thức hỗ trợ( như quảng cáo, mở rộng các dịch vụ cung ứng, các mối liên hệ hợp tác trong nước, nước ngoài, tăng thêm những tiện ích cho sản phẩm của mình. + Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm: Đây là hai loại tiền gửi ổn định và có vai trò chính trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại. Lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn, lý do ở đây là với khoản vay ổn định này, ngân hàng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn do đó ngân hàng cũng sẽ trả lãi cao hơn để kích thích khách hàng đến gửi. Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định nhưng các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau sẽ được trả theo những lãi suất khác nhau. Tại Việt nam, các khoản tiền gửi này vẫn chủ yếu là các khoản tiền gửi ngắn hạn( với thời hạn là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 12 tháng) thường tập trung cho vay đối với các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Hình thức huy động tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi( kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng- được sử dụng rộng rãi trong một vài năm gần đây và hiện nay số kỳ hạn đã được các ngân hàng quy định tuỳ theo nhu cầu của khách tuy vậy thường vẫn tập trung vào các kỳ hạn do ngân hàng đặt ra. Các cách chủ yếu ngân hàng thương mại dùng huy động tiền gửi có kỳ hạn đó là: - Huy động từ các quỹ dự phòng, dự trữ, quỹ khen thưởng, phúc lợi của các đơn vị, tổ chức, từ các tổ chức bảo hiểm xã hội. - Điều chỉnh lãi suất cho phù hợp, tránh tình trạng mâu thuẫn giữa một bên là lãi suất thấp thuận lợi cho người đi vay để sản xuất kinh doanh và một bên là người có tiền sẽ không muốn gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất thấp, nhất là tình trạng đồng tiền bị mất giá. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng. - Đa dạng các chứng chỉ tiền gửi nhằm đáp ứng sự cạnh tranh trong huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư lớn, mà lẽ ra các nhà đầu tư này có thể dùng vốn để đầu tư vào trái phiếu kho bạc hay thị trường tiền tệ. Các chứng chỉ này thường được các công ty, các quỹ hưu trí và tổ chức chính quyền đầu tư với khối lượng lớn, được giao dịch trên thị trường chứng khoán trước hạn định thanh toán. Do đó, đây là một giải pháp có hiệu quả trong huy động vốn. - Tạo điều kiện cho khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn. Tuy nhiên cần tránh tình trạng gửi nhiều thứ sẽ gây tốn kém trong quá trình quản lý vốn, ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân hàng. Đối với tiền gửi tiết kiệm( chủ yếu là tiết kiệm có kỳ hạn) do đây là một trong những nguồn vốn chủ lực của ngân hàng, nguồn tiết kiệm vẫn huy động từ các thành phần chủ yếu sống bằng lợi tức sinh ra từ vốn. Nhưng nguồn vốn này có sự cạnh tranh về lãi suất huy động cao, đòi hỏi phí tổn cao trong huy động, nên chỉ có các tổ chức tín dụng chuyên doanh và kho bạc nhà nước có nhu cầu vốn, tính toán đầu ra thông suốt, có hiệu quả kinh tế mới huy động. Còn các tổ chức tín dụng ngân sách cấp thì không thể sư sụgn nguồn vốn này mà không được ngân sách nhà nước cấp bù lỗ. Bên cạnh đó các dịch vụ tiết kiệm qua Bưu điện được triển khai từ năm 1998, cùng với mạng lưới rộng khắp với hơn 3000 bưu cục hoạt động trải khắp thành thị, nông thôn, miền núi hải đảo sẵn có bộ máy nhân sự đầy đủ và thời gian làm việc gấp hai lần so với các ngân hàng. Lợi thế của bưu điện là dịch vụ huy động đơn thuần không sử dụng vốn, không để dự trữ bắt buộc, không cho vay trực tiếp mà chuyển thẳng cho Bộ tài chính xem xét đầu tư. Do đó việc huy động các khoản gửi tiết kiệm của các ngân hàng thương mại càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Các ngân hàng thương mại đang áp dụng một số cách sau: - Mở các tài khoản cho phép khách hàng được rút tiền trước hạn, tuy nhiên khách hàng vẫn phải chịu một khoản khấu trừ lãi suất. - Tranh thủ các nguồn tiền tiết kiệm dài hạn bởi đây sẽ là nguồn vốn ổn định cho các chương trình cấp tín dụng dài hạn của ngân hàng. - Huy động các nguồn gửi tiết kiệm từ các quỹ của các cơ quan của công ty, các tổ chức cá nhân khác trong xã hội. Các ngân hàng thương mại không ngồi chờ khách hàng đến gửi mà chủ động đến tận nơi, vận động tại chỗ...tạo ra ngày càng nhiều tiện ích cho sản phẩm của mình. - Đi đôi với hình thức huy động, để cạnh tranh với ngành bưu điện, các ngân hàng thương mại cần phải ưu tiên sử dụng vốn( kể cả nguồn hỗ trợ nếu có) cho vay xoá đói giảm nghèo và đối tượng chính sách trên địa bàn huy động để nhân dân thấy rõ được lợi ích thiết thực của hai mặt nguồn vốn gửi tiết kiệm vào ngân hàng. - Liên hệ với các đoàn thể tại các phường xã, khu phố nơi địa bàn huy động để tìm kiếm, thu hút thêm các khoản tiền gửi tiết kiệm. (3) Huy động vốn vay: + Vay của Ngân hàng Trung ương: Các ngân hàng thương mại đều được hưởng quyền vay tiền tại ngân hàng trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ, hoặc qúa kẹt tiền mặt thông qua cửa ngõ chiết khấu. Ngân hàng trung ương sẽ cấp tín dụng cho ngân hàng thương mại qua hình thức chiết khấu các thương phiếu của ngân hàng thương mại( hoặc tái chiết khấu nếu ngân hàng thương mại đã chiết khấu trước đó). Một điều cho thấy, đặc biệt là những nước có nền kinh tế phát triển, cho dù ngân hàng trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất phạt cao hay thấp thế nào đi nữa nó vẫn phải cho các ngân hàng thương mại vay khi họ kẹt thanh toán để tránh những cơn khủng hoảng tài chính không đáng có và thực hiện tốt chức năng là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương mại. Đứng về phía các ngân hàng thương mại, vay tại Ngân hàng trung ương là một dịch vụ hết sức tiện lợi vào những khi Ngân hàng trung hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cúng ứng tiền tệ mở rộng để kích thích đầu tư. Trường hợp không may là khi Ngân hàng thương mại đến vay giữa lúc Ngân hàng trung ương không muốn khuyến khích sự bành trướng tín dụng, hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng tiền tệ để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đẩy lên cao với những khoản lỗ trông thấy kh vay vốn ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại chỉ miễn cưỡng vay trong tình huống thắt chặt ngặt nghèo, và tìm mọi cách trả nợ nhanh nhất. Khi đó các khoản vay này chỉ chiếm một phần rất ít trong tổng tài sản nợ. + Vay trên thị trường qua phát hành các chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu: Các ngân hàng thương mại hiện nay đã huy động vốn qua các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn. Mức lãi suất các chứng chỉ này được thoả thuận trực tiếp giữa ngân hàng và người gửi tiền cũng giống như các nước, loại chứng chỉ này chỉ được đổi thành tiền khi đến hạn, để phân biệt nó với các loại tiền gửi có kỳ hạn. Các khoản vay trên thị trường hiện nay chủ yếu thông qua hình thức phát hành trái phiếu. Đây là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức ghi nhận giấy nợ do các tổ chức tín dụng( bao gồm các ngân hàng thương mại) phát hành. Hình thức huy động vốn này đã giúp cho các ngân hàng thương mại chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư dài hạn và vốn này có tính ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất. Do trái phiếu là hàng hoá của thị trường chứng khoán cho nên theo kinh nghiệm của các nước Châu Âu thì để huy động được nhiều nguồn vốn vay này đòi hỏi các trái phiếu phải được giao dịch chính thức hoặc giao dịch tự do trên một hoặc nhiều sở giao dịch chứng khoán. Đó chính là nơi tạo điều kiện cho người đầu tư vào trái phiếu có thể thu hồi vốn bất cứ lúc nào bằng việc bán chúng trên thị trường chứng khoán. + Vay từ các tổ chức tín dụng khác: Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng thương mại vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây là hình thức cho vay, nhưng thực chất nó là hình thức tương trợ giữa các ngân hàng để có được sự thoả thuận và sự hợp tác đôi bên cùng có lơị. Tuy nhiên sự thoả thuận đôi bên cùng có lợi chỉ có khi cả hai ngân hàng cùng gặp khó khăn và cùng tìm đến nhau, còn khó khăn chỉ thuộc về phía một ngân hàng thì chắc chắn ngân hàng đó phải chịu thiệt. Ngoài mục đích vay để thanh toán, ngân hàng thương mại còn sử dụng vốn vay này để kinh doanh và đảm bảo dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng trung ương. Với huy động nguồn vốn này cho thấy thị trường liên ngân hàng là rất cần thiết đặc biệt là tranh thủ các khoản vay ngoaị tệ... + Vay nước ngoài: Hiện nay các ngân hàng thương mại ở Việt Nam được phép vay vốn của các tổ chức nước ngoài qua các hình thức: - Vay bằng tiền( vay tài chính). - Nhập khẩu hàng hóa dịch vụ trả chậm theo phương thức mở thư tín dụng. - Thuê tài chính nước ngoài. - Phát hành trái phiếu ra nước ngoài. - Các loại hình vay nước ngoài khác... Đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những điều kiện theo quy định của ngân hàng nhà nước. Để huy động nguồn vốn này, các ngân hàng thương mại cần có những giải pháp sử dụng nguồn vốn tín dụng có hiệu quả và đặc biệt nên sử dụng vào việc triển khai các chương trình quốc gia, tham gia các kế hoạch cụ thể do thủ tướng chính phủ ra quyết định để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ phía nhà nước. (4) Huy động vốn khác: + Nâng cao nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn nước ngoài: Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng bảo lãnh, chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh, được quy định cụ thể trong thư bảo lãnh của ngân hàng. Nước ta hiện nay việc bảo lãnh chủ yếu dưới hình thức mở L/C trả chậm phát hành thư bảo lãnh. Đây là nghiệp vụ mang lại rất nhiều lợi nhuận trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Đã giải quyết được vấn đề thiều vốn của các Doanh nghiệp. Tuy nhiên điều đáng lo ngại hiện nay là nợ quá hạn bảo lãnh còn tồn đọng và kéo dài, quản lý vay nợ còn thiếu trách nhiệm, gia hạn nợ, chuyển nợ quá hạn không đúng quy trình nghiệp vụ. Đặc biệt là tình trạng đảo nợ giữa các chi nhánh, đảo nợ nội tệ đối với ngoại tệ khiến cho nợ sấu chạy vòng quanh, nguy cơ mất vốn ngày càng cao. Chính vì vậy ngân hàng thương mại cần kiếm soát chặt chẽ quy trình bảo lãnh, chỉ bảo lãnh cho những dự án khả thi và thu hồi nợ nhanh. Cần có chính sách chế độ về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ có nghiệp vụ giỏi, am hiếu Luật quốc tế trực tiếp là UCP 500 nhạy bén với những phát sinh của thị trường. Bảo toàn nguồn vốn và tìm kiếm lợi nhuận chính từ giải pháp tạo lập vốn hữu hiệu của các ngân hàng. + Khai thác nguồn vốn từ những người Việt nam đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài: Kể từ khi nền kinh tế mở cửa, lượng người làm ăn sinh sống ở nước ngoài ngày càng đông. Trong số này lượng người có trình độ lao động cao chiếm số đông chính vì vậy hàng năm họ gửi một phần thu nhập về trong nước, đi du lịch... là rất lớn. Để thu hút nguồn vốn này đòi hỏi các ngân hàng thương mài cần thiết phải điều chỉnh lại các quy định trong việc chuyển tiền kiều hối theo hướng đơn giản về thủ tục gửi và nhận tiền miễn thuế chuyển tiền kiều hối thuế thu nhập. + Huy động vàng trong dân cư: Mặc dù tiền mặt vẫn chiếm số lượng lớn trong lưu thông nhưng lượng vàng cất giữ trong dân cư ở Việt Nam còn rất lớn. Tại thành thị hầu như gia đình nào cũng cất giữ vàng dưới hình thức đồ tranh trí, tranh sức( vòng, nhẫn, khuyên tai...). Mặt khác do những năm vừa qua, chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á, đồng tiền Việt nam bị mất giá và biến động liên tục, người dân có xu hướng dùng tiền mặt để mua ngoại tệ hoặc vàng để cất giữ...Chính vì vậy việc huy động tiền vàng đã được chú ý và được triển khai ở một số ngân hàng ngay từ khi có chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, hình thức này có độ rủi ro rất cao và việc khó khăn trong khâu bảo quản, đảm bảo an toàn của vàng tại các ngân hàng. Mặt khác, ngân hàng thương mại đang trong thời kỳ củng cố, sắp xếp lại nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nhất là trong năm 2004 vừa qua giá vàng tăng đột biến đã làm cho việc huy động vàng gần như dừng hẳn ở các ngân hàng thương mại. + Ngoài ra ngân hàng thương mại còn có thể tạo vốn qua việc thu hút tiền nhàn rỗi từ hoạt động uỷ thác về dịch vụ xã hội như dịch vụ: Câu lạc bộ giáng sinh, nghỉ hè, các kế hoạch khác. Các kế hoạch này được tạo ra để khuyến khích những người tiết kiệm ký thác mỗi tuần một số tiền nhất định tại ngân hàng. Số tiền này sau một thời gian nhất định sẽ là một số tiền đủ lớn để khách hàng sử dụng chi trả có các kế hoạch( dịch vụ) trên. Vai trò của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: + Đối với ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là Doanh nghiệp chỉ đi vay rồi lại cho vay, do vậy thấy ngay rằng huy động vốn là một trong những công việc quan trọng hàng đầu trong các hoạt động của ngân hàng thương mại. - Huy động vốn trước hết là để có vốn đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư vào các hoạt động khác. - Huy động vốn tốt tạo tiền đề để mở rộng quy mô, chất lượng kinh doanh, dịch vụ ngày càng được hoàn thiện tăng nhiều tiện ích hơn. - Huy động vốn là nơi diễn ra sự cạnh tranh trong lãi suất huy động. Do vậy cũng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Huy động vốn còn có vai trò thể hiện ngân hàng có làm ăn phát đạt hay không?, thể hiện sức mạnh của ngân hàng. ... + Đối với nền kinh tế: Xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, huy động vốn của các ngân hàng thương mại giúp cho quá trình luôn chuyển vốn diễn ra nhanh chóng, vòng quay vốn diễn ra nhanh hơn. Huy động vốn của ngân hàng làm cho lượng vốn ứ đọng trong nền kinh tế nhanh chóng đưa vào lưu thông di chuyển vốn từ những nơi đang thừa vốn tạm thời đến nơi đang thiếu vốn. Huy động vốn kích thích đầu tư, các nhà đầu tư vào bất kỳ một lĩnh vực gì cũng cân nhắc xem giữa đầu tư vào dự án so với gửi tiết kiệm ngân hàng thì nơi nào có hiệu quả hơn. Chính vì vậy mà hoạt động đầu tư luôn diễn ra sôi động. Trong chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương muốn mở rộng cung ứng tiền tệ thì thường hạ lãi suất chiết khấu xuống, hoặc lãi suất tái chiết khấu hay giảm dự trữ bắt buộc để kích thích các ngân hàng thương mại đi vay để đầu tư ngược lại nó để thắt chặt cung ứng tiền tệ nó lái giảm lãi suất chiết khấu vì vậy huy động vốn của ngân hàng thương mại cũng là đối tượng để Ngân hàng Trung ương điều chỉnh công cụ chính sách tiền tệ của mình. ... Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại: Một nền kinh tế lành mạnh và không ổn định sẽ không thể thiếu những kênh dẫn vốn từ những người thặng dư vốn đến những người có nhu cầu vốn. Với vai trò là trung gian tài chính, ngân hàng được ví như một hệ thống máy bơm tiền vào trong nền kinh tế. Ngân hàng tổ chức kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay và đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. ỹ Các nhân tố khách quan: (1) Các nhân tố vĩ mô: + Môi trường kinh tế xã hội- chính trị: Kinh tế phát triển bền vững dựa trên nền tảng chính trị ổn định, và bất cứ sự phát triển kinh tế nào cũng phải tính đến sự phù hợp với sự phát triển của xã hội đương thời. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. + Nhân tố pháp luật: Pháp luật là công cụ để quản lý xã hội của nhà nước. Đó là những quy tắc sử sự mang tính bắt buộc chung đối với mọi thành viên trong xã hội. Hoạt động ngân hàng tất nhiên cũng phải chịu sự điều chỉnh, giám sát của pháp luật. Hơn thế, vì có chức năng tạo tiền, ngân hàng cũng phải chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp luật Việt nam. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng nước ta có quan hệ chặt chẽ với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ngân hàng. Khi mới thành lập ngân hàng là cơ quan quản lý tiền tệ tín dụng và là tổ chức kinh doanh không vì lợi nhuận. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, ngân hàng được coi là tổ chức kinh doanh tiền tệ với mục tiêu sinh lời. Khi có pháp lệnh về ngân hàng, ngân hàng hoạt động rất rầm rộ nhưng thiếu tính tổ chức do những quy định lỏng lẻo trong pháp lệnh. Sự phát triển trong giai đoạn này của ngành ngân hàng được ví như trái bong bóng, với một thực tế là sau 5 năm thực hiện pháp lệnh, dư nợ khó đòi của các ngân hàng chiếm tới hơn 40% tổng tài sản. Sang giai đoạn 95-98, những điều chỉnh của nhà nước làm mọi việc trở nên trái ngược với quy định trước đó. Do các quy định quá chặt chẽ, hầu như các ngân hàng không muốn làm gì. Cùng với tỷ lệ lạm phát thấp là vấn đề thừa vốn ở các ngân hàng. Vốn không vận động tức là ngành ngân hàng dậm chân tại chỗ. Đến năm 98, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã nâng cao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm cho các ngân hàng. Các quy định mang tính gián tiếp và thoáng hơn tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng phát triển. Liên quan trực tiếp đến cơ cấu vốn của ngân hàng, pháp luật cũng có những quy định cụ thể như: quy định vốn pháp định để ngân hàng thành lập, quy định tỷ lệ vốn huy động so với vốn chủ sở hữu... + Các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính Phủ: - Chính sách tiền tệ: Chính là việc điều tiết cung tiền của Chính phủ với công cụ chính là nghiệp vụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất chiết khấu. Nghiệp vụ thị tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26.doc
Tài liệu liên quan