Chuyên đề Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

 

A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 2

B. NỘI DUNG 3

I.CƠ SỞ LÍ LUẬN 3

1.Vị trí của phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường 3

2. Nguyên tắc thực hiện phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường 4

3. Tác động kinh tế - xã hội của phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường 5

4 . Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội 5

II. THƯC TRẠNG PHÂN PHỐI THU NHÂP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 8

1. Thực trang và giải pháp tiền lương ở nước ta 8

2. Thực trạng và các giải pháp về lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam 19

3. Thực trạng và giải pháp về địa tô 22

III. .NHỮNG KIẾN NGHỊ CHUNG VỀ PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở VIỆT NAM 23

C. KẾT LUẬN 26

TÀI LIỆU THAM KHẢO 28

 

doc29 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 3158 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới một số đối tượng chính sách xã hội. - Tháng 5.1993,Đảng,Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương, ban hành hệ thống lương mới theo hướng , thiết lập hệ thống tiền lương theo hệ số với mức lương tối thiểu la 120000 đồng/tháng, tương đương vói 60 kg gạo đảm bảo cho mỗi người 2100 calo/ngày... nhưng mức lương tối thiểu này không thể duy trì được năng lực lao động cho banr thân người lao động chưa nói gì tới việc nuôi con cái và học hành. Do đó đầu năm 2000, Nhà nước đã nâng mức lương tối thiểu lên 180000 đồng/tháng, đến năm 2001, mức lương này được nâng lên 210000 đồng/tháng, năm 2003 nâng lên 290000 đồng/ tháng, năm 2006 là 360000 đồng/tháng, năm 2007 là 450000 đồng/ tháng, năm 2008 là 540000 đồng/tháng. Sở dĩ phải nâng mức lương tối thiểu lên một cách liên tục là để bù vào sự trượt giá vào lương nhằm đảm bảo lương thực tế cho người lao động Ngoài việc tiền lương thực tế bị hạ quá thấp, hệ thống tiền lương còn bộc lộ sự chênh lệch bất hợp lí giữa lương của các loại lao động, của các ngành nghề các đơn vị khác nhau. thí dụ có trương hợp thu nhập của lao động giản đơn cao hơn thu nhập của lao động phức tạp; thu nhập của doanh nghiệp trung ương cao hơn thu nhập của doanh nghiệp đia phương... Điều này được phản ánh qua số liệu diều tra về tiền lương của 637 doanh nghiệp do sở lao động thương binh xã hội thành phố Hồ Chí Minh tiến ành năm 1999: doanh nghiệp Nhà nước trung ương 1,5-1,9 triệu đồng/ người/ tháng, con số đó đối với các doanh nghiệp thành phố là 1-1,5; doanh nghiệp Nhà nước quận, huyện là 0,6-0,8, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài la 0,975, đơn vị hành chính sự nghiệp là 0,6-0,8. Tính chung từ năm 2003-2007 đã qua 4 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu bình quân tăng 38,2%, trong khi giá tiêu dùng tăng 6,8%/năm, GDP bình quân tăng 7,96%/năm, giá tiền công bình quân tăng 10%/năm. Về thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp, qua điều tra 1000 donh nghiệp, 10000 lao động thuộc 12 tinh thành phố trực thuộc trung ương cộng với số liệu của các tổng công ty hạng đặc biệt, các tập đoàn kinh tế đạt gần 4 triệu đồng/tháng, trong doanh nghiệp doanh dân đạt 1,85 triệu đồng/tháng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2,5 triệu đồng/tháng. Có một thực tế là tiền lương thấp nhất bình quân thực trả cho các doanh nghiệp năm 2007 đều cao hơn so với qui định của Nhà nước khoảng 1 triệu đồng/tháng. Theo Vụ Tiền lương, tiền công( Bộ LĐTB&XH), mức lương tối thiểu nói chung còn thấp, chưa đạt mục tiêu đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực doanh nghiệp chưa được điều chỉnh theo nguyên tắc thị trường , cơ bản vẫn phụ thuộc ngân sách nhà nướ, ngoài ra đó là sự phân biệt theo loại hình doanh nghiệp tạo ra sự chênh lệch, không bình đẳng. Hệ thống bảng lương của công ty nhà nước chưa trở thành thước đo giá trị để trả lương cho người lao động mà chỉ là cơ sở dể hưởng đống bảo hiểm xã hội. Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, mới chỉ có khoảng 305 đăng kí bảng lương theo qui định, nhiều doanh nghiệp chỉ đăng kí để đối phó, xây dựng bảng lương không theo qui định, kéo dài số bậc lương, có trường hợp tới hơn 40 bậc lương, khoảng cách bậc lương quá thấp chỉ khoảng 2-3%, gây thiệt thòi cho người lao động. Cơ chế phân phối tiền lương của doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự theo nguyên tắc thị trường , quan hệ phân phối giữa người có tiền lương cao nhất và thấp nhất chỉ khoảng 5-6 lần, trong khi đó trên thị trường chênh lệch hàng chục lần, thâm chí có những ngành dịch vụ khoảng cách này là 50-60 lần. Vụ Tiền lương, tiền công cho rằng tình trạng thiếu cơ chế phù hợp để điều tiết các yêú tố lợi thế ngành nghề khi xác định tiền lương dẫn đến nhiều công ty nhà nước lương cao không phải do năng suất lao dộng và hiệu quả kinh doanh. Tại nhiều doanh nghiệp nhà nước, vẫn ép mức tiền công của người lao động, nhất là những ngành sử duụng lao động trình độ chuyên môn không cao như da giày, dệt may, chế biến... Một số doanh nghiệp có lợi dụng chia thu nhập của người lao động thành phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng để trốn đóng bảo hiểm xã hội , không đảm bảo quyền lợi của người lao động. Về cơ chế chính sách tiền lương. nhà nước trực tiếp định mức lao động định mức tiền lương, duyệt quĩ lương , qui định thang lương , bảng lương bậc, bậc lương cụ thể cho các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thúc hiện chuyển sang một cơ chế mới, trong đó tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông só để tính toán, nhà nước chỉ không chế lương tối thiểu, không khống chế thu nhậo tối đa. Trong khu vực hành chính sự nghiẹp, tiền lương vẫn thực hiện theo nghi định 235/HĐBT. đồng thời nhà nước cho phép các cơ quan thuộc lĩnh vực này được hoạt động dịch vụ đời sống để tăng thêm thu nhập Các cơ quan nghiên cứu khoa học ngoài phần ngân sách nhà nước cấp , được trục tiếp kí hợp đồng với các cơ quan đơn vị có nhu cầu để tăng thêm thu nhập. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước , cố lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở kinh tế , có lĩnh vực chưa chuyên lập như cơ chế kiểm soát và diều tiết tiền lương, thu nhập của nhà nước khi các đơn vị kinh tế chuyên sang kinh doanh,... Trong các đơn vị sản xuát kinh doanh vẫn đồng thới tồn tại song song hai kiểu hạch toán : tổng doanh thu trừ tổng chi phí và đơn giá tiền lương trên đơn sản phẩm. Kiểu hạch toán này dẫn đến lãi thì xí nghiệp hưởng , lỗ thì Nhà nước chịu. Chính sách tiền lương theo nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn, sau đó tiền lương thực tế bắt đầu giảm manh và giảm liên tục. Trên thực tế diễn ra tình trang tốc đọ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá. Từ năm 1993 đến nay, mức tăng giá đã tăng 1,79 lần, mức tăng GDP là 2,21 lần, mức tăng dân số là 1,15 lần.nếu tính ra mức tăng lương phải đạt 3,42 lần mới có thể tương đương với mức tăng giá và tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. nhưng nếu tính cả mức tăng lương vao 1/10 sắp tới thì chỉ đạt 2,42 lần thấp hơn con số 3,42 nêu trên là 17%. Như vây tính trên mặt bằng kinh tế chung thì người làm công ăn lương đã nói chung bị thiệt. Vấn đề đặt ra ở đây là cứ khi nao tăng lương thì giá cả lại tăng trước. tinh từ năm 1993 nước ta đã thực hiện 5 lần tăng lương, trung bình mỗi lần khoảng 20%, mức tăng này thấp hơn mức tăng trưởng kinh tế và lạm phát tính từ lần tăng trước nhưng lại cao hơn gáp 2 lần mức tăng trưởng cộng với lạm phát năm trước đó. Trước tình hình biến động của giá làm cho tièn lương thực tế , đời sống dân cư ngày càng sa sút đã gây ra phản ứng của các đối tượng trong xã hội . cu thể như sau: - ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp che chắn, kiểm soát liên tục, nhưng các nhà nước địa phương đã có nơi tự ý định lại mức lương tối thiểu ví dụ Long An nâng lên 2 lần , Vũng Tau nâng lên 1,5 lần ... không theo chính sách chung - ở các đơn vị sản xuất - kinh doanh; dựa vào quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và những sơ hởcủa cơ chế quản lí đang trong bước giao thời, đều tìm mọi cách tăng thu nhập cho mình. Nhiều xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao. Trong các đơn vị sản xuất kinh doanh,có thể phâ ra 3 loại xí nghiệp: + loại xí nghiệp làm ăn thực sự có lãi , có điều kiện phát triển chưa nhiều . + loại này lương và thu nhập thực sự gắn với kết quả sản xuất kinh doanh. điều đáng quan tam là khi thu nhập của họ quá cao cũng không bị điều tiết. + Loại xí nghiệp ở trang thái bấp bênh, nay lãi, mai lỗ ,sản xuất không ổn định. Loại này thường tìm mọi cách để tăng thu nhập, thậm chí xí nghiệp đang lỗ mà thu nhập của người lao động vẫn cao, nguồn thu nhập này được tạo ra một cách không chính đáng. + Loại xí nghiệp lam ăn thua lỗ liên tục, thiếu việc làm, có nguy cơ giải thể , thu nhập của người lao động thực chát là ăn dần vào vốn cho đến khi toàn bộ tài sản bị khánh kiệt, nhưng không chịu phá sản như các xí nghiệp tư doanh. + ở các đơn vị hành chính sự nghiệp: phải thực hiện theo Nghị định 235/HĐBT nhưng lại được nhà nước cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đời sống đủ loại để tăng thu nhập. toàn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệch về thu nhập rất lớn . + ngoài cán bộ công nhân viên chức nhà nước trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước qui định là 22.500đ/tháng , thì ngoài xã hội tiền công lao động trả cho lao động bình thường từ 3000-5000đ, lương kĩ thuật15000-20000đ/công. trong khi Nhà nước qui định tiền lương tối đa bằng 3,5 lần tiền lương tối thiểu, thì ngoài xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần. đặc biệt ở khu vực này tiền công đã được tiền tệ hóa hoàn toàn và đã tính đến quan hệ cung cầu về lao động Ngoài những phản ứng trên, nhà nước còn thực hiện sự phân phối gián tiếp qua ngân sách cho công nhân viên chức. ví dụ vấn dề phân phối nhà ở tuy đã có quyết định 150/ CP, nhưng khi thực hiện lại rất tùy tiện;chế độ trang cấp đồ dùng gia đình, chế độ chi cho phương tiện, thì tùy từng địa phương , từng đơn vị cũng thực hiện khác nhau không thông nhất. Từ sự phân tích khái quát cho phép chúng ta rút ra một số kết luận sau: + việc giải quyết vấn đề tiền lương ở ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị trương thống nhất. + tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị-sức lao động , chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng , chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động làm công ăn lương. điều đó dẫn đến một hiện tượng là trong một thời gian dài (vài thập niên vừa qua ) hàng chục triệu người lao động làm việc với một động lực mờ nhạt, không tha thiết với công việc. Nói cách khác tiền lương chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc với sự nhiệt tình và sức sáng tạo cao. + Tiền lương vừa mang tính chất bình quân, vừa mang tính bao cấp. Mặc dù từ giữa cuối năm 1993 chúng ta triển khai thí điểm chính sách tiền lương mới nhưng trong nó vẫn đang chứa đựng nhiều điều bất hợp lí đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. + Trong nhiều năm chính sách tiền lương và các chính sách kinh tế xã hội như nhà ở, phân phối điện, nước sinh hoạt... có liên quan mật thiết với nhau. Song trong quá trình giải quyết vấn đề tiền lương chưa tính toán cân đối với từng chính sách một cách cụ thể, do đó phát sinh nhiều hiện tượng mâu thuẫn khó giải quyết gây ra sự bất bình dẳng lớn trong xã hội + Nhà nước chưa thực sự hoàn toàn làm chủ trong việc kiểm soát và quản lí tiền lương và thu nhập nói chung của người lao động. b)Nguyên nhân của tình hình trên: lương tối thiểu được tính toán chỉ dựa theo yêu cầu đảm bảo tái sản xuất sức lao động, dựa trên cân đối kế hoạch của các yếu tố đảm bảo, chưa tính đến biến động của chúng trong quá trình thực hiện , không xác định được mức sống tối thiểu đang tồn tại trong xã hội ở thời điểm đó. Bội số tiền lương không phải là thước đo chung cho toàn xã hội cho toàn xã hội, quan hệ tiền lương không phản ánh quan hệ thu nhập chung trong toàn xã hội. Toàn bộ chính sách tiền lương chỉ áp dụng cho công nhân viên chức nhà nước và một số đối tượngđặc biệt, không có tác động đối với lao động xã hội, với người nước ngoài thuê lao động ở Việt Nam, với những người có chức vụ cao hơn bộ trưởng. Một bộ phận khá lớn chi tư ngân sách Nhà nước cho CNVC được để ngoài lương như nhà ở, bảo hiểm... Từ một hệ thống tiền lương thống nhất khi cho khu vực sản xuất kinh doanh chuyển sang cơ chế mới, thu nhập của họ phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh là đúng. Nhưng tiền lương do nhà nước qui định chỉ còn là thông số tính toán, nhà nước lại không khống chế thu nhập tối đa trong khi nhà nước chưa có công cụ kiểm soát và điều tiết, chưa có luật chống độc quyền... Chưa phân biệt rõ quyền tự chủ của xí nghiệp và kiểm soát và điều tiết của nhà nước về mặt tiền lương và thu nhâp. Việc thực hiện các chính sách điều chỉnh lương thương thiếu đồng bộ và không thống nhất. Đặc biệt là những tác động của chính sách giá-lương-tiền năm 1985 đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương làm xuất hiện những chênh lệch quá đáng, bất công xã hội trong tiền lương và thu nhập của các loại lao động. c) Những giải pháp cơ bản về vấn đề tiền lương nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việc không ngừng đổi mới hoàn thiện chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng hàng đầu trong hệ thống các quan hệ phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay. Sự nghiệp cách mạng trong điều kiện đổi mới đã đặt con người vào vị trí trung tâm. Họ có thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo của mình, khi lợi ích kinh tế của họ được đảm bảo trước hết là tiền lương và nói rộng hơn là thu nhập. chính vì vậy để phát huy hết khả năng sáng tạo của nhân tố con người trong nền kinh tế , tất yếu và trước hết phải giải quyết vấn đề tiền lương - với tư cách là một trong những hình thức phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay Hệ thống các quan điểm cơ bản đổi mới chính sách tiền lương ở Việt Nam tiền lương tối thiểu có đảm bảo phải là một trong những nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền lương mới. nội dung cơ bản của đổi mới các chính sách tiền lương phải là thay đổi kết cấu lương ( lương tối thiểu , tiền tệ hóa tiền lương...) và thay đổi cơ chế tiền lương ( nhà nước kiểm soát điều tiết mức lương tối thiểu, tiền thưởng...) phải xây dựng lại hệ thống tiền lương trên cơ sở tách hệ thống tiền lương cũ ra thành hệ thống tiền lương riêng biệt cho khu vực hành chính Nhà nước , khu vực sản xuất kinh doanh, khu vực sự nghiệp và lực lượng vũ trang theo tính chất lao động, vị trí và hình thức tổ chức và quản lí lao động cơ chế hình thành nguồn tiền lương và mô hình phân phối tiền lương Xây dưng cơ chế quản lí tiền lương mới phải đảm bảo vừa tăng cường vai trò quản lí điều tiết vĩ mô của nhà nước, vừa mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị cơ sở, Tiến hành lại công cuộc phân công lao động xã hội trên phạm vi toàn xã hội, tinh giảm biên ché trong khu vực nhà nước. Trước hết thực hiện khẩn trương mạnh mẽ chủ trương sắp xếp lại lao động trong cả hai khu vực sản xuất kinh doanh và hành chính sự nghiệp, coi dó là một trong những điều kiện quan trọng để thực hiện đổi mới tiền lương. chỉ có như vậy mới làm cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đi vào cơ chế tị trường, làm ăn có hiệu quả,, các đơn vị hành chính tăng cường hiệu lực của bộ máy, nâng cao chất lượng công tác. Đổi mới chính sách tiền lương phải đặt trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, phải tính đến các quan hệ cơ bản trong tiền lương và những cân đối trong nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa việc làm, tiền lương, thu nhập; giữa cung và cầu lao động trên thị trường; giữa sức mua và nhu cầu hàng hóa có khả năng thanh toán, quan hệ giá, lương, tiền... tất cả các quan hệ đó phải được giải quyết theo một quan điểm động. Tiền lương là vấn đề kinh tế xã hội phức tạp liên quan trực tiếp đến việc làm và đời sống của hàng chục triệu người. Vì vậy, viêc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền lương luôn cấp bách và thiét thực nhưng rất khó khăn.cho nên chúng ta phải giải quyết một cách thận trọng khong nóng vội. Các giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề tiền lương ở Việt Nam Những tồn tại nêu trên đã đặt ra cho công cuộc cải cách tiền lương nhiều vấn đề cần phải xử lí đê làm cho tiền lương thực sự là một đòn bẩy kunh tế và là động lực khai thác nguồn nhân lực để phát triển kinh tế xã hội. để đạt được điều này, trong thiết kế tiền lương cần phải quán triệt một số quan điểm. Trước hết phải nhận thức đúng vai trò của tiền lương trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tiền lương là yếu tố của sản xuất, là giá cả của lao động thông qua thỏa thuận giữa những người lao động thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường. Tuy nhiên cần phải tuân thủ nguyên tắc phân phối dưa trên kết quả lao động, chênh lệch thu nhập của những người lao động thuộc các thành phần xã hội phải có quan hệ hợp lí thông qua các cơ chế phù hợp. Bên cạnh đó chính sách tiền lương phải tăng cường vai trò đòn bẩy kinh tế - xã hội và phải đảm bảo bình đẳng trong phân phối, đảm bảo cho mọi người lao động được trả lương tương ứng với khả năng làm việc của họ. Đối với những người làm công ăn lương thì tiền lương phải là nguồn thu nhập chính để nuôi sống họ, từ họ có thể hoàn toàn an tâm và say mê với nghề nghiệp. Vì vậy việc giải quyết tốt vấn đề tiền lương sẽ có tác dụng kích thích sản xuất phát triẻn , ổn định và cải thiện đời sống không chỉ với gia đình của cán bộ cong nhân viên mà còn ảnh hưởng đến mức sống chung của toàn xã hội. Trên nghĩa đó,việc giải quyết tốt vấn đề tiền lương trong khu vực nhà nước còn có tác dung to lớn hướng đạo tiền công ra ngoài khu vực quốc doanh. chính vì vậy cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương Phải làm cho tiền lương trở thành giá cả của sức lao động Hiện nay ở Việt Namthị trường sức lao động đang được hinh thành, sức lao động cũng trở thành hàng hóa, người lao động có quyền chọn lựa nơi làm việc đáp ứng các nhu cầu và khả năng của mình theo đúng hợp đồng lao động. Trong nền kinh tế thị trường tiền lương thực sự là giá cả của sức lao động, điều đó đòi hỏi phải tính đúng tính đủ giá trị sức lao động để làm cơ sở cho việc xác định mức tiền lương. Muốn vậy,mức lương cho người lao động phải thể hiện trình độ học vấn, tay nghề, quá trình lao động, lao động giản đơn hay lao động phức tạp. mức lương đó phải thõa mãn nhu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động, đảm bảo cho người lao đọng sống đủ... Chỉ trên cơ sở như vậy tiền lương mới khuyến khích người lao động luôn nâng cao trình độ tay nghề, khuyến khích thế hệ trẻ ra sức học tập nâng cao trình độ văn hóa , khoa học kĩ thuật và nghiệp vụ sản xuất kinh doanh thích ứng với cơ chế thị trường Để cho tiền lương thực sự trở thành một đòn bẩy thúc dẩy người lao động làm việc với sức sáng tạo cao, trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương. Trong việc xác định tiền lương cần quán triệt các quan điểm sau đây: + Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động, nó phải là bộ phậnthu nhập chủ yếu của người lao động + Tiền tệ hoa tiền lương một cách triệt để ( xóa bỏ tận gốc các khoản bao cấp trong phân phối ) + mức lương phải găn liền với trình độ phát triển kinh tế và xã hội, hiệu quả sản xuất kinh doanh, quan hệ cung cầu lao động, mức cống hiến của từng các nhân, sự biến đọng của giá cả vả lạm phát + Chống chủ nghĩa bình quân trong việc trả công lao động Để hoàn thiện giải quyết vấn đề tiền lương cần xác định hợp lí mức tiền lương tối thiểu. Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo mức sống cho người lao động và trỉơ thành lưới an toàn chung cho người lao động trong xã hội , không phân biệt khu vưc hay thành phần kinh tế + Tiền lương tối thiểu ở đây được hiểu là tiền lương tối thiểu có đảm bảo , tức là một mức lương có thể đảm bảo cuộc sống tối thiểu. Tuy nhiên mức sống của con người phải phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Mức lương đó phải đảm bảo tính toán đầy đủ các yếu tố cần thiết của quá trình tái sản xuất sức lao động ( cả về sinh lí, nhân văn và các quan hệ xã hội). + Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo tính thống nhất sẽ tao điều kiện để giữ vững vai trò điều tiết của nhà nước và phát huy quyền tự chủ của các tổ chức kinh tế trong lĩnh vực lao động. Tiền lương tối thiẻu thống nhất là công cụ cần thiết để bảo hộ sức lao độngcho những người lao động ko phân biệt họ là thành phần kinh tế nào. + Nhà nước cần sớm luật pháp hóa tiền lương tối thiểu nhằm ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp giữa chủ và thợ, buộc những người chủ lao động phải tìm cách khác để giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ người làm công ăn lương. Việc luật pháp hóa tiền lương tối thiểu bao gồm việc xác định mức tiền lương cụ thể và phải điều chỉnh nó trong từng thời kì theo đà phát triển của sản xuất và mức tăng năng suất lao động, đồng thời cũng điều chỉnh trong thời gian những mức lương tối thiểu áp dụng cho từng vùng khác nhau. + Đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể là các doanh nghiệp quốc doanh, nguồn tiền để chi trả không phải từ ngân sach mà phải từ kết quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này. Ngân sách nhà nước phải tiếp tục thực hiện việc cắt hẳn các khoản chi phí bao cấp về tiền lương và thu nhập. Các doanh nghiệp này sau khi bù đắp các khoản chi phí , hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, tổng thu nhập còn lại của doanh nghiệp do doanh nghiệp toàn quyền sử dụng phân chia cho các quỹ xí nghiệp. Nhà nước cần thực hiện việc kiểm soát và điều tiết Tổng thu nhập của doanh nghiệp. + Trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp: Nhà nước trả lương phải trên cơ sở biên chế nghiêm ngặt và tiếp tục thực hiện khoán quĩ lương. Trong lĩnh vực này thực hiện khoán quĩ lương theo khối lượng công việc. Nếu thực hiện mạnh mẽ việc sang lọc sa thải và thực hiện tuyển dụnglại theo qui chế mới với phương châm chú ý chất lượng, trình độ, hạn chế dần số lượng tiến tới tinh giảm bộ máy hành chính nhà nước đến mức tối ưu. Cũng trong lĩnh vực này có một số bộ phận có thêm nguồn thu ví dụ như hoạt động y tế, nghiên cứu khoa học,... thì nhà nước cần có qui định riêng để một mặt tăng thu cho ngân sách, nặt khác khuyến khích các hoạt động này phát triển. Cuối cùng, chính sách tiền lương phải được đặt trong tổng thể các cải cách kinh tế - xã hội liên quan mà trước hết là chính sách tài chính trong các doanh nghiệp. đồng thời phải ban hành các chính sách hiệu quả hợp lí , thực hiện các chính sách điều tiết thu nhập thông qua nhiều biện pháp vĩ mô khác nhau, đảm bảo sự cân đói ngang và dọc về mặt tiền lương, thu nhập giữa các ngành nghề , khu vực, dung hòa được lợi ích của Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động trong chính sách phân phối 2. Thực trạng và các giải pháp về lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam a) Lợi nhuận với tư cách là thu nhập của nhà kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường cái mà các nhà kinh doanh quan tâm trước hết là lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh được thể hiện chủ yếu ở lợi nhuận nhiều hay ít. Lợi nhuận là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng và chi phí sản xuất. Để đạt được lợi nhuận tất yếu các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau tìm mọi cách giảm chi phí để thu được lợi nhuận cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường , lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu nhập là tiền lương còn khoản thu nhập khác đó là lợi nhuận và phần này ngày càng tăng lên và chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập mà mỗi người lao động nói chung, mỗi nhà sản xuất kinh doanh nói riêng phản ánh kết quả lao động. vì vây đẻ thúc đẩy tăng trươngr kinh tế cần không ngừng cải tiến cơ chế quản lí và các chính sách kinh tế, trong đó có chính sách phân phối lợi nhuận. b)Thực trạng về vấn đề lợi nhuận - Thời kì trước năm 1989: Nhà nước chưa đặt các doanh nghiệp hoạt động trong mối quan hệ trực tiếp với thị trưòng. Kinh phí do nhà nước cấp, sản xuất kinh doanh thua lỗ có nhà nước bù , sản xuất tiêu thụ do nhà nước định đoạt và lo liệu. tính quan liêu bao cấp gây lãng phí rất lớn . điều đó dẫn đến kinh tế tăng trưỏng chậm và hiệu quả thấp. Quan điểm cho rằng kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo, nhà nước đã thực hiện ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp quốc doanhgây ra sự ỷ lại của các doanh nghiệp đó vào nhà nước. Bên cạnh đó, cơ chế hình thành và phân phối thu nhập nói chung và phân phối lợi nhuận nói riêng không phù hợp gây ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Trong một thời gian dài chung ta chưa chú ý đúng mức đối với đòn bẩy lợi nhuận. Lợi nhuận chưa được coi là động lực chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng trong nhiều năm trước đây do quá nhấn mạnh phát triển kinh tế quốc doanh và phát triển nó một cách tràn lan không có sự phân biệt đối xử rõ ràng giữa các ngành, các doanh nghiệp nên nhiều doanh nghiệp ngay càng tạo ra nhiều lợi nhuận nhiều doanh nghiêp lại ngày càng làm ăn thua lỗ. Có thể khẳng định trong một thời gian dài phạm trù lợi nhuận đã xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam nhưng chưa thực sự được coi là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh. điều đó đã làm mất đi động lực thúc đẩy đòn bẩy lợi nhuận, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của các dơn vị sản xuất kinh doanh. - Thời kì từ năm 1989 đến nay Từ năm 1989 đến nay nền kinh tế việt nam đã có những chuyển biến quan trọng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Để đưa nền kinh tế dần đi vào hoạt động có hiệu quả nhằm phát huy các tiềm năng vốn có trong và ngoài nước, trong đó có sức sáng tạo của quần chúng, của các nhà kinh doanh giỏi, nhà nước đã đưa nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bước tạo lập môi trường kinh doanh và buộc các doanh nghiệp phải hoạt động trong mối quan hệ trực tiếp với thị trường, phải chuyển sang hạch toán kinh doanh thực sự. để thực hiện được điều đó nhà nước mở rộng quyền tự chủ cho các doanh ngghiệp trong kinh doanh , khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trước pháp luật. Mặc dù đã có sự sắp xếp bố trí lại doanh nghiệp nhưng số các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vẫn còn nhiều đặc biệt là các doanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7390.doc
Tài liệu liên quan