Chuyên đề Phân tích cơ cấu chi tiêu và thu nhập của hộ gia đình ở Việt Nam năm 2004

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA CHUYÊN ĐỀ. 5

1. Chi tiêu. 5

1.1. Định nghĩa. 5

1.2. Phân loại chi tiêu. 5

2. Cơ cấu chi tiêu. 6

2.1. Khái niệm. 6

2.2. Phân loại. 6

2.3. Sự thay đổi cơ cấu chi tiêu. 7

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu của hộ gia đình. 12

3.1. Giá cả bản thân hàng hóa và các hàng hóa liên quan. 12

3.2. Thu nhập. 12

3.3. Thị hiếu. 13

3.4. Các kỳ vọng. 13

PHẦN 2. PHÂN TÍCH CƠ CẤU CHI TIÊU CỦA HỘ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM. 15

1. Giới thiệu chung. 15

1.1. Thành tựu. 15

1.2 Hạn chế. 18

2. Phân tích cơ cấu chi tiêu theo đặc điểm cộng đồng. 20

2.1. Của khu vực. 21

2.2. Của các tỉnh. 23

3. Phân tích cơ cấu chi tiêu theo đặc điểm hộ gia đình. 26

3.1. Theo nhóm chi tiêu. 26

PHẦN 3. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI TIÊU HỘ GIA ĐÌNH. 29

1. Số liệu và phương pháp. 29

2. Sự tác động đến thu nhập( chi tiêu) của hộ gia đình. 30

2.1. Xem xét các tác động của dặc điểm hộ đồng thời với nhóm biến cơ cấu chi 30

2.2. Tiếp theo ta sẽ phân tích riêng chi tiêu bình quân đầu người đối với biến cơ cấu chi tiêu các mặt hàng. 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 43

 

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7304 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích cơ cấu chi tiêu và thu nhập của hộ gia đình ở Việt Nam năm 2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bằng hình vẽ sau: Hình 1.1 và 1.2. Tổng lợi ích và lợi ích cận biên( minh họa quy luật cận biên giảm dần) - Xét trường hợp đơn giản nhất đó là tiêu dùng một loại hàng hóa, người tiêu dùng có thể mua hàng hóa này hoặc cất tiền đi hay nói cách khác là phải lựa chọn. Người tiêu dùng có lý trí sẽ mua mỗi loại hàng hóa cho đến khi tỷ lệ giữa lợi ích tăng thêm thu được so với giá phải trả là bằng nhau. Nếu cứ tiếp tục tăng tiêu dùng hàng hóa này vượt qua mức thỏa mãn thì mỗi đơn vị hàng hóa tăng thêm sẽ không làm tăng thêm tổng lợi ích của người tiêu dùng, thậm chí còn làm giảm đi. Chính vì vậy người tiêu dùng sẽ ra quyết định không tiếp tục tiêu dùng loại hàng hóa này nữa mà chấp nhận cất tiền đi. - Tuy nhiên người tiêu dùng không bị hạn chế về số lượng hàng hóa mà họ có thể lựa chọn, hạn chế của họ ở đây chỉ là thu nhập hạn hẹp của mình mà thôi. Mục đích của người tiêu dùng là đạt được sự thỏa mãn tối đa với thu nhập hạn chế. Việc chi mua của họ đều phải chấp nhận một chi phí cơ hội, vì việc mua hàng hóa này đồng thời sẽ làm giảm cơ hội mua nhiều hàng hóa khác. Rõ ràng sự lựa chọn sản phẩm của người tiêu dùng bị ràng buộc bởi nhân tố chủ quan là sở thích của họ và nhân tố khách quan là thu nhập hay ngân sách tiêu dùng và giá sản phẩm. Theo lý thuyết tiêu dùng thì họ sẽ dành ưu tiên cho sự lựa chọn sản phẩm có lợi ích lớn hơn. - Trên thực tế thu nhập của hộ gia đình chỉ bị hạn chế trong một khoảng thời gian nhất định vì họ luôn tìm cách nâng cao thu nhập để thỏa mãn được nhiều nhu cầu của mình hơn. Khi này để phân tích hành vi của hộ gia đình ta lại sử dụng lý thuyết về lợi ích để so sánh được thì mới giải thích được hành vi của hộ gia đình. Đường bàng quan là tập hợp các lô hàng hóa nang lại cùng một mức lợi ích cho người tiêu dùng. Chính vì vậy mà người tiêu dùng bàng quan trong việc lựa chọn lô hàng hóa nào để tiêu dùng. Việc lựa chọn điểm nào trên đường bàng quan hoàn toàn phụ thuộc vào giá cả của các loại hàng hóa đó vì người tiêu dùng có ràng buộc về ngân sách chi tiêu. Khi ngân sách tăng lên, người tiêu dùng sẽ mua nhiều hàng hóa hơn. Đường ngân sách mới sẽ tiếp xúc với một đường bàng quan xa hơn, điểm cân bằng mới sẽ cho ta biết số lượng hàng hóa mà người tiêu dùng sẽ mua. Tuy nhiên không phải tất cả các hàng hóa mà người tiêu dùng mua đều tăng lên, có một số sẽ giảm đi tùy thuộc đó là hàng hoá thông thường hay hàng hóa cấp thấp. Để có thể hiểu rõ hơn ta có thể xem hình minh họa sau đây: A B C X Y 0 Hình 1.3. Đường bàng quan. Các điểm A, B và C trên đường bàng quan này minh hoạc các tập hợp khác nhau của 2 loại hàng hóa X và Y. Khi tiêu dùng các tập hợp hàng hóa đó người tiêu dùng thu được cùng một mức độ thỏa mãn như nhau. E X Y 0 A B Hình 1.4. Trạng thái cân bằng của người tiêu dùng với AB là đường ngân sách. X Y 0 E1 E2 Hình 1.5. Trạng thái cân bằng của người tiêu dùng khi đường ngân sách thay đổi. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu của hộ gia đình. 3.1. Giá cả bản thân hàng hóa và các hàng hóa liên quan. - Luật cầu: Người tiêu dùng sẽ mua nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ hơn nếu như giá của hàng hóa hoặc dịch vụ đó giảm xuống với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Thông qua đây chúng ta có thể trả lời câu hỏi điều gì xay ra với lượng tiêu thụ một loại hàng hóa khi mà giá của nó thay đổi còn các yếu tố khác giữ nguyên. - Tuy nhiên không chỉ có giá bản thân hàng hóa đó ảnh hưởng đến lượng cầu của nó mà giá của các hàng hóa liên quan cũng tác động đến quyết định mua của người tiêu dùng. Mỗi hàng hóa có hai loại hàng hóa liên quan là hàng hóa thay thế và hàng hóa bổ sung. Hàng hóa thay thế là những hàng hóa giống hàng hóa đang xem xét hoặc có cùng giá trị sử dụng hay thỏa mãn cùng nhu cầu ví dụ như chè và cà phê. Khi giá của hàng hóa thay thế giảm xuống người tiêu dùng sẽ mua ít hàng hóa đang xem xét hơn. Hàng hóa bổ sung là các hàng hóa được sử dụng cùng nhau ví dụ như chè Lipton và đường. Khi giá hàng hóa bổ sung giảm người tiêu dùng sẽ mua nhiều hàng hóa đang xét hơn và ngược lại. 3.2. Thu nhập. Thu nhập là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định mua gì và mua bao nhiên đối với người tiêu dùng vì thu nhập quyết định khả năng mua của người tiêu dùng( có hẳn một quy luật để nói về mối quan hệ này đó là quy luật Engel). Dựa vào mối quan hệ giữa thu nhập và cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, Engel chia ra các loại hàng hóa như sau: - Đối với đa số các loại hàng hóa và dịch vụ, khi thu nhập tăng lên thì cầu đối với chúng tăng lên và ngược lại. Các hàng hóa đó được gọi là các hàng hóa thông thường. Trong hàng hóa thông htường lại có hàng hóa thiết yếu và hàng hóa xa xỉ. Hàng hóa thiết yếu là các hàng hóa được cầu nhiều hơn khi thu nhập tăng lên nhưng sự tăng lên là tương đối nhỏ hoặc xấp xỉ như sự tăng thu nhập, điển hình là lương thực thực phẩm. Các hàng hóa xa xỉ là các hàng hóa được cầu tương đối nhiều khi thu nhập tăng lên như đi du lịch, mua bảo hiểm, chi tiêu cho giáo dục… - Đối với một số loại hàng hóa và dịch vụ, khi thu nhập tăng lên người tiêu dùng mua ít đi và ngược lại. Các hàng hóa có tên gọi là hàng hóa cấp thấp. 3.3. Thị hiếu. Đây là những yếu tố mang tính chất chủ quan phụ thuộc rất nhiều vào ý thích của con người. Thị hiếu xác định chủng loại hàng hóa mà người tiêu dung muốn mua. Thị hiếu thường rất khó xác định, khó quan sát và các nhà kinh tế thường giả định là thị hiếu không phụ thuộc vào giá của hàng hóa và thu nhập của người tiêu dùng.Thị hiếu phụ thuộc vào các nhân tố như tập quán tiêu dùng, tâm lý lứa tuổi, giới tính, tôn giáo,…Thị hiếu cũng có thể thay đổi theo thời gian và chịu ảnh hưởng lớn của quảng cáo. Người tiêu dùng thường sẵn sàng bỏ nhiều tiền để mua các hàng hóa có nhãn mác nổi tiếng và được quảng cáo nhiều. 3.4. Các kỳ vọng. Cầu đối với hàng hóa hoặc dịch vụ sẽ thay đổi phụ thuộc vào các kỳ vọng, sự mong đợi của người tiêu dùng. Con người có các kỳ vọng về thu nhập, thị hiếu, số lượng người tiêu dùng,…Tất cả các kỳ vọng này đều tác động đến cầu hàng hóa. Ví dụ như người tiêu dùng kỳ vọng rằng trong tương lai giá của hàng hóa sẽ tăng lên thì họ sẽ mua nhiều hàng hóa đó hơn ngay từ bây giờ. Các kỳ vọng này cũng phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan của con người, vào việc họ tiếp nhận các thông tin như thế nào và xử lý chúng ra sao để có các nhận định, cuối cùng là đưa ra các quyết định để tối đa hóa lợi ích của mình. PHẦN 2. PHÂN TÍCH CƠ CẤU CHI TIÊU CỦA HỘ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM. 1. Giới thiệu chung. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau thời kỳ đổi mới có nhiều thay đổi tích cực, đây chính là cơ sở để tăng thu nhập, cai rthiện đời sống cho người dân. Tiếp thao chúng ta sẽ đánh giá sơ bộ kết quả hoạt động kinh tế và đời sống xã hội Việt Nam trong những năm qua. 1.1. Thành tựu. - Kinh tế tăng trưởng liên tục, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực. Sau năm 1986, nền kinh tế Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao mặc dù có những năm tốc độ tăng trưởng thấp do tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực. Giai đoạn 1990 – 1991, tốc độ tăng trưởng không cao và nền kinh tế chuẩn bị đặt trên bệ phóng nên chỉ đạt 5,45%. Đến giai đoạn 1991 – 1997 tốc độ tăng trưởng cao 8,77% nhưng sau đó do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 nên giai đoạn 1998 – 2001 tăng trưởng là 6,04%. Đến giai đoạn 2002 – 2006 tăng trưởng đã tăng lên đạt 7,7%, cụ thể cho năm 2005 là 8,43% và năm 2006 là 8,17%. Xét cả giai đoạn tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,11% là tương đối cao so với các nước trong khu vực. Cơ cấu ngành kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến. Phát triển sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ trong nước vãuất khẩu, phát triển công nghiệp nặng có lựa chọn để phục vụ sản xuất nông nghiệp và tạo cơ sở cho bước phát triển ở giai đoạn sau. Các ngành dịch vụ có tốc độ phát triển nhanh nhất trong 3 ngành. Thương mịa phát triển khá, đảm bảo lưu thông hàng hóa trong cả nước, tổng mức bán lẻ tăng khoảng 10%. Thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, vận tỉa, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính đều ở mức tăng cao, năm sau coa hơn năm trước. - Các cân đối lớn của nền kinh tế đã được điều chỉnh thích hợp. Ngân sách Nhà nước bước đầu được cơ cấu lại theo hướng tích cực và hiệu quả hơn. Thu ngân sách Nhà nước tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt khoảng 8%. Chi ngân sách đựoc cơ cấu lại theo hướng tiếp tục xóa bao cấp, tăng chi đầu tư phát triển, giáo dục – đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế, xóa đói giảm nghèo. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội liên tục tăng với tốcđộ cao, nguồn vốn đầu tư trong nước được khai thác chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư, tạo điều kiện để tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học – công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn nước ngoài cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ này. - Mức sống của nhân dân được cải thiện. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, thu nhập và đời sống các tầng lớp dân cư từng bước được cải thiện. Theo số liệu điều tra thu nhập bình quân đầu người được cải thiện rõ rệt, chi tiêu bình quân đầu người trên cả nước cũng như từng vùng tăng đáng kể. Chi tiêu bình quân đầu người tính theo giá thực tế tăng từ 221,1 nghìn đồng năm 1999 lên 269,1 nghìn đồng năm 2002 và 359,7 nghìn đồng năm 2004. Đời sống kinh tế xã hộicủa người dân được cải thiện, các nhu cầu thiết yếu của đại bộ phận dân cư được đáp ứng. Có sự chuyển dịch cơ cấu tiêu dùng từ ăn no mặc ấm sang ăn ngon măc đẹp. Những trang thiết bị tiêu dùng hiện đại có giá trị cao không còn lạ trong các gia đình. Nhu cầu tinh thần được nâng cao, các chương trình vui chơi giải trí, chương trình văn hóa có tầm vóc quốc tế được công chúng đón nhận. Những điều này cho thấy mức chi tiêu của dân cư Việt Nam đã được cải thiện đáng kể so với những thập kỷ trước. Cùng với việc gia tăng thu nhập, phúc lợi công cộng xã hội cũng không ngừng tăng lên, góp phần cải thiện các điều kiện đi lại học tập, chăn sóc sức skhỏe, vui chơi giải trí của nhân dân. Đặc biệt là ở khu vực nông thôn, cơ sở hạ tầng về điện, đường, trường, trạm ở nhiều nơi được xây dựng mới và được nâng cấp. Bảng 2.1. Thu nhập bình quân đầu người theo giá thực tế ở Việt Nam qua các năm 1999 – 2004( nghìn đồng). Năm 1999 2002 2004 Cả nước 295.0 356.1 484.4 Nông thôn 516.7 622.0 815.4 Thành thị 225.0 275.1 378.1 Vùng Vùng đồng bằng sông Hồng 280.0 353.1 488.2 Vùng Đông Bắc Bộ 210.0 268.8 379.9 Vùng Tây Bắc Bộ 210.0 197.0 265.7 Vùng Bắc Trung Bộ 212.4 235.4 317.8 Vùng duyên hải miền Trung 252.8 305.8 414.9 Vùng Tây Nguyên 344.7 244.0 390.2 Vùng Đông Nam Bộ 527.8 619.7 833.0 Vùng đồng bằng sông Cửu Long 342.1 371.3 471.1 ( Nguồn: Niên giám thống kê 2006, NXB Thống kê, Hà Nội, 2007). - Bất bình đẳng tương đối của Việt Nam tăng lên không đáng kể. Bảng 2.2. Hệ số GINI trong chi tiêu của Việt Nam. Năm 1993 1998 2002 2004 Việt Nam 0.34 0.35 0.37 0.37 Thành thị 0.35 0.34 0.35 0.33 Nông thôn 0.28 0.27 0.28 0.30 ( Nguồn: Tổng cục Thống kê). 1.2 Hạn chế. -Chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế còn thấp. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công ấn tượng trong đổi mới cải cách kinh tế nhưng trên thực tế Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Theo báocáo về phát triển thế giới năm 2006 của Ngân hàng thế giới thì so sánh mức thu nhập quốc dân Việt Nam năm 2004 đạt 550 USD/ người bằng 21% của Thái Lan, bằng 47% của Philippin, bằng 12% của Malaysí, bằng 48% của Indonesia và chỉ bằn 2% của Singapo. Chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế thể hiện trước hết ở khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và cả sân nhà đều thấp, ví dụ như giấy, may mặc, điện gia dụng, xe máy,… - Lĩnh vực giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ còn nhiều bất cập. Chất lượng, hiệu quả giáo dục – đào tạo tuy đã có những chuyển bién nhưng nhìn chung còn thấp so với yêu cầu, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, mất cân đối về bậc học, ngành nghề và vùng lãnh thổ. Các hiện tựong tiêu cực trong ngành giáo dục – đào tạo chậm được khắc phục. Trình độ công nghệ của Việt Nam còn thấp so với các nước ở khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiẹp hóa – hiện đại hóa đất nước. - Bất bình đẳng tương đối chỉ tăng nhẹ nhưng bất bình đẳng tương đối tăng lên đáng kể. Chênh lệch tuyệt đối giữa người giàu và người nghèo thể hiện ở khoảng cách giữa nhóm 20% thu nhập thấp nhất và nhóm 20% thu nhập cao nhất ngày một gia tăng. Năm 1993 chi tiêu nhóm họ giàu nhất cao gấp 5 lần những hộ gia đình nghèo nhất (2.000.000 so với 4.000 đồng) hay mức chênh lệch là 1,6 triệu đồng theo giá thực tế tháng 1/1993 nhưng đến năm 2004 tỷ lệ này tăng lên 6,3 lần (5.480.000 so với 870.000 đồng) hay chênh lệch tuyệt đối là 4,6 triệu đồng theo giá thực tế tháng 1/ 1993. Hệ số chênh lệch giàu nghèo của Việt Nam tăng từ 4,1 lần (năm 1990) lên 7 lần (năm 1995) và 8,3 lần (năm 2004). - Những vấn đề xã hội và môi trường đặt ra bức xúc. Lực lượng lao động tự nhiên tăng lên 1,2 triệu người mỗi năm nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao khoảng 6% và ở nông thôn tỷ lệ sử dụng thời gian lao động chỉ đạt 74%. Tỷ lệ nghèo đói có giảm nhưng chưa vững chắc, nhất là ở vùng sâu vùng xa tỷ lệ tái nghèo ở mức cao. Cơ sở vật chất ngành y tế đã được cải thiện nhưng không đồng đều ở các vùng, các tỉnh. Người nghèo vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc đi khám chữa bệnh. Môi trường đô thị và các khu công nghiệp bị ô nhiễm nặng nề, nhận thức của người dân về bảo vệ mổitường còn kém. Các tệ nạn xã hội, tệ tham nhũng vẫn không giảm ảnh hưởng lớn đến trật tự và an toàn xã hội. 2. Phân tích cơ cấu chi tiêu theo đặc điểm cộng đồng. Tổng chi tiêu của hộ gia đình khác nhau khá nhiều, có thể thấy phần lớn các hộ có chi tiêu bình quân đầu người dưới 5 triệu đồng/ năm( Hình 1). Phân bố chi tiêu là phân bố lệch, số hộ có thu nhập cao giảm dần. Sự phân cách chi tiêu có quan sát theo một cách khác là dựa vào đường cong Lorenz (Hình 2). Tuy nhiên nếu so sánh Việt Nam và nhiều nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc... thì phân cách giàu nghèo của Việt Nam vẫn chưa phải là quá xa. Hình 2.2. Đường cong Lorenz của Việt Nam năm 2004. 2.1. Của khu vực. Phân bố chi tiêu bình quân đầu người của hộ khá khác nhau giữa thành thị và nông thôn. Tại Thành thị (Hình 3) chi tiêu phân bố rộng hơn và đường phân bố thấp hơn so với nông thôn (Hình 4). Điều này cũng có nghĩa là nhu cầu tại thành thị đa dạng hơn rất nhiều so với nhu cầu tại nông thôn. Vì vậy, chủng loại hàng hoá đáp ứng nhu cầu khu vực thành thị cần phong phú đa dạng hơn rất nhiều so với chủng loại hàng hoá đáp ứng nhu cầu tại khu vực nông thôn.      Hình 2.3                                                               Hình 2.4 Tại khu vực nông thôn, phần lớn các hộ gia đình có chi tiêu bình quân đầu người thấp dưới 5 triệu đồng/ năm. Số hộ giàu tại nông thôn ít, điều này cũng có nghĩa là nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ khu vực nông thôn tập trung vào các nhu cầu thiết yếu nhiều hơn là vào các nhu cầu cao cấp. 2.2. Của các tỉnh. Hình 2.5: Phân bố hộ gia đình thành thị về chi tiêu, theo vùng Hình 2.6: Phân bố hộ gia đình nông thôn về chi tiêu theo vùng Chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình khác nhau giữa các vùng khi xem xét theo thành thị và nông thôn. Sức mua khu vực thành thị vùng Đông Nam Bộ khác nhau nhiều và chênh lệch lớn giữa các hộ gia đình. Vùng này có nhiều hộ giàu có, mức chi tiêu chung cũng cao so với các vùng khác. Sau vùng Đông Nam Bộ là vùng Đồng bằng Sông Hồng, tại vùng này cũng có nhiều hộ giàu có, tiếp đến là vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và chi tiêu thấp phải nói tới vùng Núi Trung du Phía Bắc. Tại nông thôn Tây Nguyên, nhiều hộ có chi tiêu quá thấp, vùng Núi Trung du Phía Bắc là vùng có nhiều hộ ở mức chi tiêu thấp, tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ. Vùng Đông Nam Bộ vẫn là vùng có ít hộ có chi tiêu thấp so với các vùng khác trong cả nước. Mặc dù chi tiêu bình quân của khu vực thành thị cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn, nhưng khi xem xét theo tổng chi tiêu của hai khu vực, tổng chi tiêu khu vực thành thị chỉ chiếm 49%, còn khu vực nông thôn chiếm 51%. Như vậy, nếu chỉ chú trọng tới bề nổi tập trung vào khu vực thành thị, cho rằng khu vực thành thị mới có sức mua cao là điều sai lầm. Mặc dù thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình nông thôn thấp nhưng do số lượng lớn hộ gia đình làm cho tổng sức mua lớn. Đây là tiềm năng cho các doanh nghiệp có thể khai thác. Phân bố tổng chi tiêu theo vùng được thể hiện qua Hình 2.7. Vùng Đông Nam Bộ (6) là vùng có thị phần lớn nhất, chiếm 22% thị phần trong cả nước. Sau đó là vùng Đồng bằng Sông Hồng (1) chiếm 19% thị phần cả nước. Đồng bằng Sông Cửu Long có thị phần gần bằng khu vực Đông Bắc (13%, 14%). Vùng Tây Bắc, Duyên hải Phía Nam Trung Bộ và Tây Nguyên chiếm thị phần gần tương đương nhau là 5, 9 và 7% tương ứng. Phân bố chi tiêu theo một số khoản mục: lương thực thực phẩm, phi lương thực thực phẩm, hàng lâu bền, Chi tiêu của hộ gia đình theo khoản chi tiêu khá khác nhau giữa các vùng. Tỷ lệ chi cho ăn, uống, hút của vùng Đông Nam Bộ nhỏ nhất (46,71%), trong khi vùng Núi Trung du Phía Bắc cao nhất (60,91%). Tỷ lệ chi mua lương thực thực phẩm của vùng Đông Nam Bộ cũng nhỏ nhất, chỉ chiếm 9,15% trong tổng chi tiêu, nhưng tại vùng này, chi cho ăn uống ngoài lại cao nhất (8,42%). Tỷ lệ chi ăn uống ngoài của vùng Đồng bằng Sông Hồng, Duyên hải Phía Nam và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long tương đương nhau (4,85%, 5,66% và 4,57%). Chi cho uống và hút có khuynh hướng tăng dần khi chuyển dịch vào phía Nam. Chi tiêu không phải ăn uống có tỷ lệ thấp tại vùng Núi Trung du Phía Bắc (39,09%) và cao nhất là vùng Đông Nam Bộ (53,29%). Điều này phản ánh mức sống của các hộ gia đình vùng Đông Nam Bộ là cao nhất, khi nhu cầu cơ bản được đáp ứng, tỷ trọng chi tiêu của hộ gia đình tăng lên cho các nhu cầu vui chơi giải trí, giáo dục y tế,... 3. Phân tích cơ cấu chi tiêu theo đặc điểm hộ gia đình. 3.1. Theo nhóm chi tiêu. Khi quan sát chi tiêu của hộ gia đình theo nhóm chi tiêu, có thể thấy rất rõ về tỷ lệ chi tiêu cho ăn, uống, hút giảm đi rõ rệt theo nhóm chi tiêu. Với nhóm nghèo nhất, chi ăn, uống, hút( cc1,2) chiếm tới 56% trong khi đó nhóm giàu nhất chỉ chiếm 41%. Chi ăn uống của nhóm nghèo tập trung vào chi lương thực (41%) thì nhóm giàu lại tập trung vào thực phẩm và ăn uống ít hơn (nhóm giàu nhất chiếm 28%). Trong chi không phải ăn uống, tỷ lệ chi cho đồ dùng lâu bền, giáo dục, văn hoá thể thao giải trí của nhóm giàu nhất cao hơn hẳn so với các nhóm khác. Tuy nhiên ở đây có sự khác biệt là chi cho dịch vụ của các hộ nghèo nhất lại lớn hơn các hộ giàu nhất( dịch vụ ở đây không chỉ bao gồm chỉ có vui chơi giải trí mà còn có cả chi cho các dịch vụ sản xuất nông nghiệp nên có thể các hộ nghèo lại là các hộ nông nghiệp nên chi phí cho dịch vụ lại cao hơn). Nhận xét: - Sức mua bình quân của hộ gia đình tại thành thị cao gấp khoảng hai lần so với sức mua bình quân của hộ gia đình tại nông thôn. Phân bố hộ gia đình nông thôn theo sức mua tập trung hơn so với phân bố hộ gia đình thành thị theo sức mua. Điều này có nghĩa là nhu cầu của hộ gia đình thành thị theo giá đa dạng hơn nhiều so với nhu cầu của hộ gia đình nông thôn. - Phân bố hộ gia đình theo sức mua khác nhau khá rõ rệt giữa các vùng trong cả nước và giữa các vùng thành thị, nông thôn trong cả nước. Chi tiêu của các hộ gia đình vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long khác nhau nhiều, trong khi chi tiêu của các hộ vùng Núi Trung du Phía Bắc, vùng Tây Nguyên chênh lệch ít. - Mặc dù sức mua của hộ gia đình nông thôn thấp, nhưng do số lượng hộ gia đình sống ở nông thôn cao, tổng sức mua của hộ gia đình nông thôn chiếm tỷ trọng lớn (51% tổng sức mua). Vì vậy cần quan tâm khai thác sức mua khu vực nông thôn. - Cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình khá khác nhau giữa các vùng thành thị, nông thôn và giữa bảy vùng trong nước. Chi cho nhu cầu cơ bản chiếm tỷ trọng cao tại các vùng nông thôn, vùng Núi Trung du Phía Bắc, vùng Tây Nguyên, trong khi đó, chi cho nhu cầu văn hoá tinh thần, nhu cầu cao cấp, chi ăn uống ngoài cao tại các vùng thành thị, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng, Đồng bằng Sông Cửu Long. PHẦN 3. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CẤU CHI TIÊU HỘ GIA ĐÌNH. 1. Số liệu và phương pháp. Số liệu: sử dụng bộ số liệu điều tra mức sống dân cư VLSS năm 2004. VLSS thực hiện bởi GSO do cơ quan Phát triển Quốc tế Thụy Sĩ và UNDP tài trợ với sự hỗ trợ về kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới . Mẫu điều tra gồm hơn 9000 hộ, tạo thành mẫu phân tầng ngẫu nhiên. - Phương pháp: Giai đoạn 1: Xác định các đặc điểm của hộ trong VLSS. Bước đầu tiên là xem bảng hỏi của VLSS2004 để xác định những đặc điểm nào của hộ có tính chất đại diện nhất, có thể sử dụng để phân tích hồi quy chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình. Sau đó phân tích cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình với các nhóm hàng để đưa vào mô hình, xem xét tác động của nhóm biến này với chi tiêu bình quân đầu người của hộ. Một số đặc điểm của hộ có tính chất phân loại khi hồi quy phải được biểu thị bởi các biến giả (nhị nguyên). Ví dụ nguồn nước uống chính là một đặc điểm của hộ, nhưng để phân tích hồi quy thì nó phải được trình biểu thị qua các biên giả riêng biệt cho nước máy bên ngoài, vòi nước máy trong nhà, giếng khoan, giếng thường …Vì vậy 17 đặc điểm của hộ được trình này trong phân tích hồi quy qua 44 biến. Giai đoạn 2: Ước tính sự tác động của cơ cấu chi tiêu tới thu nhập chi bình quân với điều tra hộ gia đình. Trong nghiên cứu này sử dụng chi tiêu bình quân đầu người thực tế trong VLSS2004 làm biến đại diện cho thu nhập của hộ gia đình vì số liệu về thu nhập thường không chính xác bằng chi tiêu. Các biến giải thích là 17 đặc điểm của hộ như miêu tả ở trên, biểu thị qua 44 biến. Học thuyết kinh tế cho thấy không có sự hướng dẫn nào về dạng hàm nhưng nhìn chung hàm logarit - tuyến tính hay được sử dụng: ln(yi ) = X’iβ+ εi (1) trong đó yi là chi tiêu bình quân đầu người thực tế của hộ i, Xi’là vector của các đặc điểm hộ i, β là vector của các hệ số ước lượng, εi là số dư ngẫu nhiên phân bố N(0,σ). Sau đó phân tích riêng rẽ sự tác động của cơ cấu chi tiêu tới chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình: ln(yi ) = X’iβ+ εi (2) với X’i là vector của cơ cấu chi tiêu của hộ i. Trong đó cơ cấu chi tiêu cho lương thực thực phẩm được chọn làm biến so sánh với cơ cấu chi các nhóm khác, tức là các hệ số sẽ phản ánh tác động của việc chi tiêu của các nhóm hàng khác với việc chi cho lương thực thực phẩm. 2. Sự tác động đến thu nhập( chi tiêu) của hộ gia đình. 2.1. Xem xét các tác động của dặc điểm hộ đồng thời với nhóm biến cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình. Những đặc điểm của hộ bao gồm quy mô hộ, thành phần, dân tộc, trình độ chủ hộ hay vợ/ chồng chủ hộ, nghề nghiệp chủ hộ, loại nhà, tiếp cận các dịch vụ cơ bản, sở hữu một số đồ dùng và cơ cấu chi tiêu các nhóm hàng của các hộ gia đình. Bảng 3.1 liệt kê các biến sử dụng mô tả đặc điểm của hộ trong phân tích hồi quy. Trong mỗi tập hợp biến mô tả như phân loại vùng thì một vùng sẽ bị bỏ qua và xem như nhóm tham khảo. Ví dụ, đồng bằng sông Hồng là nhóm bị bỏ qua cho biến “reg_, vì thế các hệ số vùng khác phản ánh tác động của mức sống của vùng đó so với vùng đồng bằng sông Hồng. Cũng hợp lý nếu chúng ta kỳ vọng rằng các hệ số để ước lượng chi tiêu trong khu vực nông thôn có thể khác với các hệ số ước lượng chi tiêu ở khu vực thành thị. Các kiểm định thống kê cho thấy rằng các hệ số trong mô hình phân tích thành thị là tương đối khác trong mô hình phân tích vùng nông thôn. Điều này cho thấy nên có sự phân tích riêng biệt cho mẫu thành thị và nông thôn. ( Kiểm định Chow để thấy sự khác biệt của mẫu nông thôn và thành thị.) Bảng 3.1. Các đặc điểm hộ sử dụng trong mô hình. Tên biến Loại biến Mô tả biến Lny educ educ_1 educ_2 educ_3 educ_4 educ_5 married ttnt hhsize ethnic reg8_1 reg8_2 reg8_3 reg8_4 reg8_5 reg8_6 reg8_7 reg8_8 tv house1 huose2 house3 water1 water2 water3 wc1 wc2 wc3 elec work1 work2 work3 work4 work5 work6 work7 edu edu_1 edu_2 edu_3 edu_4 edu_5 gtinh tuoi x1 x2 x3 cc1 cc2 cc3 cc4 cc5 cc6 Liên tục Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Liên tục Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Nhị nguyên Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liêntục Loga chi tiêu bình quân đầu người Chủ hộ chưa tốt nghiệp tiểu học( loại bỏ) Chủ hộ tốt nghiệp tiểu học Chủ hộ tốt nghiệp trung học cơ sở Chủ hộ tốt nghiệp phổ thông trunghọc Chủ hộ tốt nghiệp trung cấp kỹ thuật Chủ hộ có trình độ đại học, cao đẳng và sau ĐH Chủ hộ có vợ/ c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12860.doc
Tài liệu liên quan