Chuyên đề Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của KTĐN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

 MỤC LỤC

 Trang

A:Đặt vấn đề. 2

B:Giải quyết vấn đề. 4

I:Một số vấn đề về mặt lý luận cơ bản 4

1:Một số khái niệm. 4

2:Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng và nâng cao hiệu 4

quả của KTĐN.

3:Những nguyên tắc và hình thức chủ yếu của KTĐN. 6

4:Vai trò, tác dụng của KTĐN. 11

II:Thực trạng và các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả 11

của KTĐN.

1:Các nguồn lực và lợi thế trong việc phát triển KTĐN ở 12

Việt Nam.

2:Những thuận lợi và khó khăn. 13

3:Thực trạng KTĐN ở Việt Nam hiện nay. 14

4:Mục tiêu của KTĐN. 24

5:Các giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của 24

KTĐN.

C:Kết luận. 31

 

 

 

 

doc42 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của KTĐN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hó khăn, khối lượng không lớn, tài nguyên rừng và biển bị xói mòn hiệu quả sử dụng thấp. Tài nguyên đất đai:Diện tích đất canh tác hạn chế,trong 64 loại đất chiếm gần 30 triệu ha,chỉ có 2 loại đất chiếm khoảng 6 triệu ha có độ phì nhiêu cao và thuận lợi cho việc trồng trọt:đất phù xa và đất đỏ 3 gian Về khí hậu:khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới ẩm cho phép khai thác có hiệu quả tài nguyên đất đai. Tài nguyên rừng:với 8 triệu ha rừng hiện nay được quản lí tốt. Nó sẽ trở thành một lợi thế nhất định trong quan hệ KTĐN. Tài nguyên biển:Việt Nam có tiềm năng thuận lợi cho việc nuôi trồng một số loại hải sản. Tài nguyên khoáng sản: đa dạng nhưng lợi thế này tồn taị trong một thời gian nhất định nên phải khai thác hợp lý có hiệu quả. Tiềm năng du lịch:có nhiều thắng cảnh đẹp có lợi thế trong mối quan hệ kinh tế và mối quan hệ đối ngoại. 1.3:Nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực dồi dào,giá nhân công rẻ,tư chất con người Việt Nam rất cần cù,sáng tạo,tiếp thu nhanh công nghệ mới,có thể tham gia vào phân công lao động quốc tế.Tuy nhiên,người lao động Việt Nam bị hạn chế về thể lực,về trình độ và ý thức kỉ luật trong lao động,còn thiếu nhiều việc làm và tâm lí hẹp hòi,tản mạn. Phát triển những mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu thì nguồn nhân lực và yếu tố con người mới trở thành thế mạnh trong KTĐN. 1.4:Cơ sở vật chất kinh tế. Nó đặt nền tảng cho kinh tế phát triển cả nước cũng như KTĐN. 2:Những thuận lợi và khó khăn. 2.1:Thuận lợi. Với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng,Việt Nam chủ động đẩy nhanh quá trình hội nhập.Đường lối ở tầm vĩ mô về su thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá.Từ nhận thức này,trong những năm qua Việt Nam đã có những thay đổi lớn trong chính sách phát triển KTĐN. Tham gia toàn cầu hoá chính là nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế để khai thác tiềm năng của nước nhà.Việt Nam là quốc gia có tài nguyên thiên nhiên phong phú, những nguồn lực và lợi thế so sánh quan trọng.Trên cơ sở đó Việt Nam có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. Việt Nam nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất của nền kinh tế thế giới,có thời cơ thuận lợi để hội nhập và giao lưu kinh tế khu vực cũng nhu tham gia vào các tổ chức kinh tế APEC... Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước hoà bình,chính trị ổn định.Đây là cơ hội rất quan trọng để tập chung phát triển kinh tế,mở rộng quan hệ đối ngoại.Chính trị xã hội ổn định là bộ lọc quan trọng trong quá trình hội nhập,hơn nữa nó bảo đảm vai trò định hướng trong hội nhập quốc tế. Qua 15 năm đổi mới Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa và đạt được nhiều kết quả quan trọng Là quốc gia đi sau Việt Nam có điều kiện học hỏi,rút ra kinh nghiệm của các quốc gia đi trước,hơn nữa Việt Nâm cũng có được nhiều kinh nghiệm trong hơn 15 năm đổi mới của mình. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ,khoa học công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,chi phối mọi hoạt động kinh tế-xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động,hơn nữa,bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị và sử dụng chúng trong qua trình phát triển kinh tế.Trên thực tế nhiều công ty của nước ngoài vào Việt Nam,một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lao động rồi rào,rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới ở Việt Nam.Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội cho nguồn lực của chúng ta khai thông,giao lưu với thế giới bên ngoài. 2.2:Khó khăn và thách thức. Đất nước ta tiến hành hội nhập trong điều kiện nước ta là nước đang phát triển ở trình độ thấp,sản xuất nông nghiệp là chủ yếu,sản phẩm chưa có sức cạnh tranh cao,nhiều nguyên nhiên liệu,máy móc vẫn phải phụ thuộc nhiều vào bên ngoài. Tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu,nguồn nhân lực nói chung có trình độ thấp và có kỹ năng không cao,điều này khiến cho việc tham gia vào phân công lao động thế giới gặp nhiều khó khăn.Khó khăn này thể hiện ở chỗ năng lực tiếp nhận công nghệ yếu,khó phát huy lợi thế của nươc đi sau trong việc tiếp nhận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến Việt Nam có thể trở thành bãi rác của công nghệ lạc hậu. Sức cạnh tranh,đặc biệt là của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn thấp,do đó Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển thị trường mới trong điều kiện nhiều nước cũng đang chọn chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên Việt Nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay trong nội địa,việc mở cửa thị trường nội địa theo AFTA,WTO có thể biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm của nước ngoài nếu các doanh ngiệp trong nước không bám giữ được. Do tri thức và trình độ kinh doanh của dân ta còn thấp,cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên rất rễ bị tổn thương và bị thao túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm,từ kinh ngiệm của các nước cho thấy nguy cơ lệ thuộc vào các tổ chức tài chính nước ngoài và quốc tế là một thực tế. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực mạnh,có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép,buộc Việt Nam phải thay đổi những vấn đề có tính nguyên tắc như định hướng,mục tiêu,mục đích phát triển. Nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế khu vực và thế giới là một thách thức to lớn,để tránh những yếu tố gây ảnh hưởng tớ nguy cơ này Việt Nam cần đưa ra những chính sách phát triển đúng đắn hợp thời đúng lúc. Xu hướng tự do hoá thương mại đang diễn gia mạnh mẽ,ngày càng được các nước áp dụng mạnh mẽ nhưng xu hướng bảo hộ mậu dịch cũng hết sức dày đặc với nhiều công cụ mới. 3:Thực trạng KTĐN ở Việt Nam hiện nay. Sự phát triển của KTĐN ở nước ta trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan trọng,thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta.Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu cả về tăng trưởng xuất nhập khẩu,thu hút vốn nước ngoài và phát triển du lịch...Bên cạnh đó KTĐN ở nước ta cũng có những hạn chế đáng quan tâm. Quá trình đổi mới qua hơn 15 năm đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.Trong sự thành công đó không thể không nhắc tới sự đóng góp của KTĐN. +Về ngoại thương:Nhờ có sự thay đổi trong chính sách và quản lý ngoại thương của nhà nước,các doanh nghiệp thuộc mọi ngành kinh tế đều được quyền xuất khẩu.Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm,năm 2001 đạt 16,2 tỷ USD,năm 2002 đạt 16,53 tỷ USD tăng 9,8% so với năm 2001và cao nhất từ trước cho tới nay.Cho tới năm 2002 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,03 tỷ USD,cao su xuất khẩu gần hết sản lượng hàng hoá.Hàng dệt may đã đạt 2,6 tỷ USD.Hạt tiêu đứng đầu thế giới về xuất khẩu.Nhiều mặt hàng của Việt Nam đã có mặt trên thị trường thế giới như gạo, dệt may, thuỷ sản, chè, hàng thủ công mỹ nghệ...Chúng ta một mặt phát triển ở cả các thị trường truyền thống một mặt tìm kiếm và giao lưu phát triển ở những thị trường mới.Tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới.Kim ngạch nhập khẩu năm 2002 đạt 19,3tỷ USD tăng 19,4% so với năm 2001. Trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng.Từ năm 1990 đến nay,chúng ta đã duy trì được mức độ thu nhập tương đối cao,khắc phục được hậu quả của việc thị trường truyền thống giảm sút đột ngột sau khi Liên Xô tan dã vầ các nước XHCN Đông Âu xụp đổ. Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng ngoại thương của Việt Nam còn nhiều hạn chế như :Mức xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp,chưa có hoặc có rất ít mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.Nhìn chung,chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam còn kém khả năng cạnh tranh.Cơ cấu hàng xuất khẩu chưa hấp dẫn,trình độ chế biến còn kém,mẫu mã,bao bì chưa theo kịp quốc tế,xuất khẩu hàng thô là chủ yếu,kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất rất lạc hậu,tổ chức bộ máy xuất khẩu chưa hợp lý,yếu và kém;hoạt động nhập khẩu chưa gắn liền với đẩy mạnh xuất khẩu,còn lãng phí trong sử dụng hàng nhập khẩu,tệ nạn buôn lậu rất trầm trọng,còn có hiện tượng chạy theo lợi nhuận,chèn ép sản xuất trong nước và khuyến khích tiêu dùng hàng ngoại.Gần đây xuất hiện những vụ tranh chấp kiện tụng về bán phá gía,về thương hiệu.Mặt khác hiện tượng nhập siêu gia tăng tập trung vào một số thị trường,trong khi đó lại suất siêu vào một số thị trường khác,cán cân thương mại mất cân bằng với nhiều bạn hàng chủ chốt.Sự mất cân bằng này làm nảy sinh hai vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển lâu dài của nền kinh tế:Thứ nhất,kim ngạch nhập khẩu công nghệ nguồn từ ba trung tâm kinh tế thế giới Mỹ,Tây Âu và Nhật Bản.Hai là,trong giá trị nhập siêu lớn từ các nước châu á phần lớn là nhập khẩu nguyên phụ liệu cho hai ngành công nghiệp may mặc và giầy da.Điều này có nghĩa là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chưa kéo được sản xuất trong nước. Để đẩy mạnh hoạt động ngoại thương nước ta cần hướng vào giải quyết các vấn đề sau: -Tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu,chính sách mặt hàng nhập khẩu:Theo tiêu chuẩn được thừa nhận trên thế giới,bình quân một người một năm phải đạt mức 170 USD một năm mới được coi là nước có nền ngoại thương phát triển.Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt 184 USD/người. Chúng ta phải tăng nhanh mức xuất khẩu bình quân đầu người.Nâng tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu giảm tỷ trọng hàng sơ chế và nguyên liệu,hiện nay hàng nguyên liệu thô chiếm tỷ trọng hơn 80% hàng xuất khẩu,các sản phẩm qua chế biến chỉ chiếm khoảng 19%.Do vậy,phải gấp rút nâng cao trình độ công nghệ,hạ giá thành,tiếp cận thị trường thế giới,xây dựng đồng bộ chương trình và công nghệ xuất khẩu,thực hiện nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương,nhưng không độc quyền ngoại thương. - Chính sách mặt hàng nhập khẩu:Trong thời gian tới phải tập trung vào nguyên liệu,vật liệu,các loại thiết bị công nghệ đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá.Việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá phục vụ chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu,đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất có hiệu quả ở trong nước,coi trọng phạm vi xây dựng kết cấu hạ tầng,thực hiện tiết kiệm ngoại tệ,bảo vệ sản xuất trong nước,điều tiết thu nhập qua việc bán hàng cao cấp,tăng việc làm... - Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách thương mại tự do và chính sách bảo hộ thương mại:Vấn đề đặt ra cho đất nước ta đó là sử lý thoả đáng hai xu hướng nói trên bằng cách kết hợp hai xu hướng đó trong chính sách ngoại thương sao cho vừa bảo vệ và phát triển kinh tế,công nghiệp hoá,hiện đại hoá bảo vệ thị trường trong nước,thúc đẩy tự do thương mại,khai thác có hiệu quả thị trường thế giới. - Hình thành một thị trường tỉ giá hối đoái sát với sức mua của thị trường Việt Nam:Tỷ giá hối đoái là một trong những đòn bẩy quan trọng trong trao đổi kinh tế quốc tế.Do vậy việc xây dựng một tỷ giá hối đoái thống nhất,sát với giá thị trường tiền tệ là rất cần thiết cho mỗi nước.Đây là một công việc khó khăn đòi hỏi phải có nỗ lực cao trong quản lý vĩ mô. - Đa dạng hoá ngành hàng,mở rộng thiết lập quan hệ thương mại với Mỹ và các nước công nghiệp phát triển Âu-Mỹ khác:Việt Nam có quan hệ ngoại thương với trên 100 nước,nhưng tập trung ở 14 nước chiếm 90%kim ngạch xuất nhập khẩu.Hiện nay,gần 2/3số thiết bị kỹ thuật dược nhập từ các nước và lãnh thổ có công nghệ trung gian và 1/4 là từ các nước công nghệ tiên tiến,kinh tế trung hoa đang là đối tác quan trọng của nước ta .Như vậy cần thay đổi cơ cấu bạn hàng,không quá tập trung vào khu vực châu á,tích cực tăng dần tỉ trọng buôn bán với các nước có nền công nghệ cao và hiện đại.Chúng ta cần phải nhanh chóng tham gia vào các tổ chức kinh tế lớn như WTO,cải cách cơ cấu và chính sách kinh tế cho phù hợp,tham gia vào các hiệp định hàng hoá quốc tế,nhanh chóng xúc tiến các quan hệ ngoại thương với thị trường Âu-Mĩ. - Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam chủ động đầu tư ra nước ngoài:Hiện nay,chính phủ đã có quy định về đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.Tiếp đến cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, mạnh dạn ra nước ngoài kinh doanh và thừa nhận tính hợp pháp của việc chuyển lợi nhuận về nước qua các hoạt động kinh doanh đó. - Triệt để cải tiến cơ chế quản lý của nhà nước. +Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất. Hiện nay nước ta có trên 30 triệu người ở trong độ tuổi lao động, trong đó có mấy triệu người chưa có việc làm.Dự kiến đến năm 2010 có 56,8triệu người ở độ tuổi lao động,tăng gần11triệu người so với năm 2000. Đây là lực lượng lao động đông đảo cho việc nhận gia công trong những năm tới và xuất khẩu lao động sang các nước phát triển làm việc. Với nước ta trong những năm trước mắt,tăng cường nhận gia công để tạo công ăn việc làm và tận dụng công xuất máy móc,ổn định tình hình kinh tế xã hội trong nước.Xu hướng hiện nay là chuyển những ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao sang các nước đang phát triển.Nó cũng rất thích hợp với nước ta vì cần ít vốn đầu tư,việc đào tạo công nhân nhanh .. Việc xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ của nước ngoài dưới dạng các công ty cổ phần,công ty trách nhiệm hữu hạn ở nước ta hiện nay là rất phát triển. Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá.Hình thức này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau,phụ thuộc vào nhau. +Hợp tác khoa học công nghệ. Đối với sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ của đất nước,trong những năm qua,hoạt động hợp tác quốc tế về khoa họccông nghệ đã chứng tỏ vai trò,vị trí quan trọng của mình với những thành tựu chủ yếu sau: Tiếp thu và cập nhật tri thức mới của thế giới,tiếp cận với nền khoa hiện đại và công nghệ tiên tiến,trang bị kiến thức chuyên môn cho nhiều cán bộ khoa học.Đồng thời học hỏi,thu nhận nhiều phương pháp kinh nghiệm tổ chức quản lý khoa học và tiến hành nghiên cứu của nước ngoài. Giới thiệu và quảng bá các thành tựu khoa học,tiềm năng của khoa học công nghệ,những vấn đề cấp bách của Việt Nam.Mặt khác,cung cấp nhiều thông tin chính xác về công nghệ mới,hiện đại, giúp các cá nhân,tổ chức...chuyển giao được nhiều công nghệ hiện đại,tạo điều kiện đi tắt đón đầu trong nghiên cứu và ứng dụng. Tăng cường tiềm lực khoa học-công nghệ quốc gia,thông qua sự hợp tác có hiệu quả đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ và năng lực tự mình tiến hành nghiên cứu và ứng dụng khoa học. Góp phần giải quyết các nhu cầu cấp bách của sản xuất,kinh doanh,dịch vụ và đời sống xã hội Việt Nam,đẹm lại hiệu quả kinh tế xã hội nhất định. Trong bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi đột ngột và sâu sắc,hợp tác khoa học công nghệ đã vượt qua những thử thách gay gắt,duy trì và có những bước phát triển mới về chất lượng, hiệu quả ...Góp phần vào sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ chung của đất nước. Việc đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài đã giả quyết được nhu cầu việc làm và đem lại thu nhập cao cho công nhân.Và đang được vận dụng có hiệu quả tại Việt Nam. Ngoài những thành tựu to lớn,lĩnh vực hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ trong thời gian qua cũng có những hạn chế, những mặt cần cải tiến,hoàn thiện hơn: -Quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ chủ yếu mang tính chất đơn cực,phụ thuộc vào quan hệ chính trị ý thức hệ,chưa tiếp cận được toàn diện với nền khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. -Hình thức chủ yếu về khoa học công nghệ trước thời kỳ đổi mới là song phương,chủ yếu diễn ra giữa nhà nước ta với một số nước và tổ chức quốc tế,do đó có đặc điểm tập trung vào bao cấp,không khuyến khích các quan hệ trực tiếp giữa các tổ chức cá nhân và với thành phần tư nhân. -Nguồn kinh phí chủ yếu là viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế.Nhà nước và các tổ chức cá nhân chưa dành kinh phí đầu tư hoặc hỗ trợ cho hoạt động này. Để nâng cao và mở rộng quan hệ hợp tác về khoa học công nghệ chúng ta phải thực hiện một số biện pháp sau : -Xây dựng một chính sách hợp tác quốc tế đa phương,đa dạng về hợp tác khoa học công nghệ theo tinh thần tăng cường đổi mới và chủ động hội nhập phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước.Xác lập và phát triển quan hệ đối ngoại đối với tất cả các tổ chức,quốc gia,trong đó đặc biệt quan tâm đến các đối tác có tiềm năng to lớn về khoa học công nghệ và kinh tế cũng như có truyền thống quan hệ,lợi ích đặc biệt. -Tạo điều kiện cho mọi cơ quan,tổ chức và cá nhân trong nước mở rộng quan hệ,tham gia hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, trong đó đặc biệt chú trọng thành phần doanh nghiệp,các hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ và người Việt định cư ở nước ngoài. -Hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ cần phải được gắn với phát triển kinh tế,các nhu cầu kinh tế-xã hội và các chương trình kinh tế kỹ thuật của nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của KTĐN và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ,biến hợp tác quốc tế thành một bộ phận gắn bó khăng khít của cả hệ thống,có quan hệ hỗ trợ,thúc đẩy lẫn nhau trong sự nghiệp phát triển chung. -Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ,củng cố tiềm lực khoa học công nghệ ở trong nước,trong đó chú trọng đến các cán bộ chuyên trách hoặc có liên quan trực tiếp đến công tác này. -Nhà nước hàng năm dành tỉ lệ ngân sách thoả đáng để dành cho khoa học công nghệ.Kinh nghiệm một số nước cho thấy do có đầu tư ngân sách thích đáng cho nên nền khoa học kỹ thuật nói chung và hoạt động chuyển giao khoa học công nghệ có nhiều kết quả tốt,đồng thời huy động mọi nguồn tài trợ và các nguồn kinh phí khác phục vụ mục đích này. -Hoàn thiện hệ thống quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ trong nước và ngoài nước. Mặt khác, cần phát triển thị trường khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí tuệ và quyền tác giả, hoàn thiện pháp luật có biện pháp bảo vệ hữu hiệu đối với quyền sở hữu trí tuệ, vì đó là một trong các điều kiện tiên quyết để phát triển nền kinh tế tri thức, làm lành mạnh môi trường xã hội và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về chuyển giao khoa học công nghệ. -Có chính sách thúc đẩy chuyển giao công nghệ, triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu theo hướng hoàn thiện quy trình, giảm nhẹ thủ tục. +Đầu tư quốc tế. Từ năm 1987,khi lần đầu tiên chúng ta ban hành luật đầu tư nước ngoài, cho đến nay đã có trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào nước ta.Tính đến hết tháng 12/2001 có 3346 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký 41,8 tỷ USD,trong đó vốn thực hiện khoảng 38%.Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp ngày càng phù hợp với nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.Vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất,kết cấu hạ tầng kinh tế đều tăng,năm 2001 đạt 85% tổng số vốn đầu tư.Đầu tư của nước ngoài từ các quốc gia phát triển đều tăng và chiếm 44% tổng vốn đăng kí tại Việt Nam.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tạo ra 34% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp,khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 12% GDP của cả nước,thu hút hơn 30 vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.Vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA) cho Việt Nam tiếp tục tăng,đóng góp đặc biệt trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng,xoá đói giảm nghèo,y tế,giáo dục đô thị...Đến tháng 12/2001 vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam vay là 15,04 tỉ USD(bình quân hàng năm là 1,5 tỉ). Năm2002 đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đạt 6 triệu USD vốn thực hiện. Tính đến hết năm 2002 Việt Nam đã có 64 dự án đầu tư trực tiếp tại 19 nước và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký hơn 52 triệu USD.Theo đánh giá của chương trình phát triển Liên Hợp Quốc,Việt Nam đã cải thiện được tình hình giải ngân của các khoản ODA,đạt tới 1,5 tỉ USD trong năm 2002. Tuy phát triển nhanh và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ,tuy nhiên đầu tư quốc tế vào Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế như: -Chưa có định hướng và quy hoạch rõ ràng cho việc đầu tư của nước ngoài, cho việc hình thành các khu công nghiệp nên có hiện tượng phát triển tràn lan,gây khó khăn không ít cho sản xuất nội địa. -Đầu tư chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước ,các ngành thiết yếu quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân còn ít được đầu tư. -Việc tổ chức quản lý một số dự án gây thua thiệt cho phía Việt Nam,công nhân bị nguợc đãi,quả lý vĩ mô thiếu chặt chẽ.Đội ngũ cán bộ về quản lý của Việt Nam còn yếu về trình độ chuyên môn và chưa được rèn luyện về bản lĩnh và tinh thần dân tộc. -Sự mất cân đối đáng kể về thu hút đầu tư theo từng ngành từng vùng.Hầu hết các dự án đều tập chung ở những đô thị lớn như TP Hồ CHí Minh,Hà Nội,Đồng Nai,Bà Rịa ... -Tỉ lệ góp vốn trong liên doanh của nhiều dự án bên phía Việt Nam chỉ sấp xỉ 30% đã gây khó khăn cho việc tổ chức và quản lý,đưa đến sự thiệt thòi cho phía Việt Nam. -Một số dự án đáng kể bị rút vốn ra khỏi liên doanh hoặc rút giấy phép trước thời hạn,đưa đến sự thua thiệt cho cả hai bên. -Một số mục tiêu như tỉ trọng xuất khẩu ,chuyển từ lắp ráp bằng linh kiện nước ngoài sang lắp ráp bằng linh kiện được sản xuất trong nước...không đạt được. Để thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có hiệu quả cả về số lượng và chất lượng nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước,chúng ta cần lưu ý các vấn đề sau: -Hoàn thiện chính sách, luật pháp,cải cách hành chính để huy động nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng có hiệu quả kinh tế xã hội nhiều hơn các nguồn vốn ấy. -Có chiến lược quan hệ kinh tế đối ngoại cùng với quy hoạch và thực hiện ngiêm ngặt quy hoạch gọi vốn đầu tư của nước ngoài trên quan điểm vì lợi ích căn bản và lâu dài của đất nước,xác định đúng đắn đối tác khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan,kiểm soát vốn đầu tư bên ngoài,ngăn chặn sự đối lập giữa đầu tư nước ngoài với lợi ích quốc phòng an ninh,với việc giữ gìn nền văn hoá dân tộc... -Xác định tốc độ tăng trưởng một cách hợp lý,vừa bảo đảm tốc độ phát triển kinh tế tối ưu,vừa thực hiện đảm bảo công bằng xã hội. -Có chính sách huy động nhiều tiềm lực trong nước để thực hiện chủ trương chiến lược lấy nguồn vốn trong nước là chính,tạo điều kiện tối đa cho các ngành các thành phần kinh tế trong nước phát triển. -Xây dựng các khu vực kinh tế nhà nước,kinh tế hợp tác xã hội chủ nghĩa vững mạnh và làm điểm tựa cho nền kinh tế quốc dân và cùng với các khu vực kinh tế tư nhân trong nước với tư cách là nội lực làm đối trọng với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. +Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ,du lịch quốc tế. Du lịch quốc tế:ngành du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể.Số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam tăng đều. Năm 2001 đạt 2,3 triệu khách,năm 2002 là 2,6 triệu lượt người. Khách nội địa đạt 12,5 triệu lượt người.Doanh thu xã hội từ du lịch đạt 23 nghìn tỉ đồng,tương đương 1,5 tỉ USD,tăng 11% so với năm 2001.Đáng chú ý là khách vào bằng đường hàng không đường biển đều tăng và các đối tượng có khả năng chi tiêu cao như khách Nhật Bản ngày càng đông,công suất sử dụng buồng,phòng khách sạn ở các đô thị và các trung tâm du lịch đạt 80%.Trong tình hình thế giới phức tạp và biến động thì Việt Nam được bình chọn là điểm du lịch an toàn và thân thiện.Đồng thời nhạy bén nắm bắt được cơ hội,ngành du lịch Việt Nam đã tích cực tận dụng các ưu thế để thu hút khách du lịch.Ngành du lịch đã phối hợp với các ngành hàng không,ngoại giao văn hoá.Du lịch phát triển kéo theo các ngành hàng không,giao thông vận tải,bưu chính viễn thông,thủ công nghiệp phát triển.Điều này đã góp phần làm thay đổi đời sống vật chất, tinh thần của nhiều vùng dân cư,mở ra hướng tiêu thụ hàng hoá dịch vụ ... Hoạt động du lịch đã tạo việc làm trực tiếp và gián tiếp cho 670 nghìn người. Đáng chú ý là trong năm 2002 ngành dịch vụ tăng trưởng chậm,chỉ đạt 6,2% thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP toàn quốc.Vì vậy,tỷ trọng của lĩnh vực này trong tổng sản phẩm quốc dân giảm từ 39% năm 2001 xuống còn38,2% năm 2002.Có 6/13 nhóm dịch vụ có tốc độ tăng trưởng chậm hơn năm 2001.Trong đó quan trọng nhất là thương nghiệp ,chỉ tăng 6,9% so với 7,2%của năm 2001. Việt Nam có rất nhiều lợi thế để phát triển vận tải quốc tế như bờ biển dài có nhiều hải cảng và vùng vịnh nhưng thực tế vận tải quốc tế ở Việt Nam chưa phát triển tương xứng với các tiềm năng của nó. Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác ở Việt Nam nhìn chung mới ở giai đoạn đầu hình thành và phát triển bước đầu và có những triển vọng to lớn.Tuy nhiên để đưa ngành này trở thành ngành quan trọng thì cần có cái nhìn đúng đắn về vai trò của chúng,cần đầu tư thoả đáng và có các chính sách thích hợp tích luỹ ngoại tệ tăng thu cho ngân sách nhà nước,giải quyết việc làm,cải thiện đời sống nhân dân... Trong thời gian vừa qua tuy KTĐN đã thu được nhiều thành công và phát triển nhất định nhưng đã gặp phải nhiều vấn đề cấp bách thể hiện ở các điểm sau : +KTĐN đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả thập kỉ 90,nhưng đã có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999.Đó là do các nguyên nhân sau đây: - Tình trạng bảo hộ mậu dịch không giảm đáng kể mà còn gia tăng.Mức thuế suất nhập khẩu bình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4789.doc
Tài liệu liên quan