Chuyên đề Phát triển hoạt động kinh doanh thẻ quốc tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam ( VIB Bank )

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THẺ NGÂN HÀNG 3

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẺ NGÂN HÀNG 3

1.1. Đặc điểm và các hình thức thanh toán kinh doanh thương mại 3

1.1.1. Đặc điểm các hình thức thanh toán kinh doanh thương mại 3

1.1.2. Các hình thức thanh toán kinh doanh TM 4

1.2. Lịch sử hình thành thẻ ngân hàng 5

1.3. Khái niệm và phân loại thẻ ngân hàng 7

1.3.1 Khái niệm 7

1.3.2 Phân loại 7

1.4 Đặc điểm của thẻ 10

1.4.1 Đặc điểm cấu tạo 10

1.4.2 Đặc tính của thẻ 11

1.5 Lợi ích của việc sử dụng thẻ 12

1.5.1.Đối với khách hàng( Chủ thẻ- Cardholder): 12

1.5.2.Đối với các điểm chấp nhận thẻ: 14

1.5.3.Đối với các NHTM 14

1.5.4.Đối với nền kinh tế - xã hội 16

1.6 Rủi ro trong kinh doanh thẻ 17

1.6.1.Đơn xin phát hành thẻ với thông tin giả mạo: 17

1.6.2.Thẻ giả: 18

1.6.3.Thẻ bị mất cắp, thất lạc: 18

1.6.4.Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPH gửi. 18

1.6.5.Tài khoản chủ thẻ bị lợi dụng: 18

1.6.6.Thẻ bị giả mạo để thanh toán qua thư, điện thoại: 18

1.6.7.Nhân viên CSCNT giả mạo hoá đơn thanh toán thẻ 18

1.6.8.Tạo băng từ giả: 19

1.6.9.Rủi ro khác: 19

1.7 Các nhân tố ảnh hưởng đến kinh doanh thẻ 19

1.7.1.Thói quen tiêu dùng của người dân: 19

1.7.2.Trình độ dân trí: 19

1.7.3.Thu nhập của người dùng thẻ: 19

1.7.4. Trình độ công nghệ của NH: 20

1.7.5.Môi trường pháp lý: 20

II. NGHIỆP VỤ PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ NGÂN HÀNG 20

2.1.Các chủ thể tham gia vào quá trình phát hành và thanh toán thẻ 20

2.2.Ngân hàng phát hành thẻ: 20

2.3.Ngân hàng thanh toán thẻ: 20

2.4.Chủ thẻ: 21

2.5.Cơ sở chấp nhận thẻ: 21

2.6.Tổ chức thẻ quốc tế: 21

2.7. Trung tâm dịch vụ thẻ: 21

2.8.Cơ sở pháp lý cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ 21

2.9.Các nghiệp vụ cơ bản trong kinh doanh thẻ của NHTM 23

2.10.Nghiệp vụ phát hành thẻ 25

2.11.Nghiệp vụ thanh toán thẻ 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TẠI NGÂN HÀNG QUỐC TẾ ( VIB BANK ) 28

I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ ( VIB BANK ) 28

1.1 Lịch sử hình thành và tình hình kinh doanh của Ngân hàng Quốc Tế 28

1.1.1 Lịch sử hình thành 28

1.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh 28

1.2 Khái quát về Trung tâm Thẻ Ngân hàng Quốc Tế ( VIB Bank ) 29

1.2.1 Quá trình hình thành 29

2.2 Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trung tâm Thẻ 30

II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ 31

2.1 Tổng quan về thị trường thẻ Việt Nam 31

2.2 Thực trạng kinh doanh thẻ ở Ngân hàng Quốc Tế 34

2.2.1 Các sản phẩm thẻ của Ngân hàng Quốc Tế 34

2.2.2 Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của Ngân hàng Quốc Tế 37

III. ĐÀNH GIÁ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ ( VIB BANK ) 37

3.1 Kết quả đạt được 37

3.2 Hạn chế và nguyên nhân 37

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ CỦA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ ( VIB BANK ) 38

I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẺ CỦA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI 38

1.1 Những thuận lợi và khó khăn của Ngân hàng Quốc Tế trong kinh doanh thẻ Ngân hàng 38

1.1.1 Điểm mạnh 38

1.1.2 Điểm yếu 38

1.2 Định hướng phát triển 38

II. GIẢI PHÁP 38

2.1 Chính sách về công nghệ 38

2.2 Về quy trình nghiệp vụ 38

2.3 Về nguồn nhân lực 38

2.4 Về hoạt động Marketing 38

2.4.1 Chiến lược sản phẩm 38

2.4.2 Chính sách giá cả 38

2.4.3 Chiến lược phân phối 38

2.4.4.Chiến lược về quảng cáo và khuyến mại 38

 

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động kinh doanh thẻ quốc tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam ( VIB Bank ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ ngân hàng. Do vậy thẻ tín dụng cung cấp cho khách hàng khả năng mở rộng tài chính của mình, đặc biệt trong trường hợp cần chi tiêu ngay trong tháng nhưng cuối tháng mới có tiền, thì có thể đáp ứng ngay nhu cầu thanh toán thông qua sử dụng thẻ. Thứ ba,tối đa hoá lợi ích kinh tế với một chi phí hợp lý. Những tiện ích mà thẻ ngân hàng đem lại đó là sự tiết kiệm về mặt thời gian, chi phí đi lại giao dịch…Đối với thẻ tín dụng, khách hàng sẽ được tiêu tiền trước và trả tiền sau miễn phí. Trường hợp phải kí quỹ hay phải có số dư tiền gửi thanh toán thì khách hàng còn được hưởng lãi suất trên số dư tiền gửi trên tài khoản. Đặc biệt, tính đa năng về hạn mức cũng là một đặc điểm nổi bật đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Thứ tư,kiểm soát được chi tiêu. Với việc gửi sao kê hàng tháng từ ngân hàng phát hành, chủ thẻ hoàn toàn có thể kiểm soát được chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời tính được phí và lãi nếu trả cho mỗi khoản giao dịch. Chi phí cho tất cả những lợi ích mà thẻ mang lại là khoản phí thường niên mà chủ thẻ phải chịu và tỷ lệ lãi phạt nếu khoản chi tiêu không được thanh toán đúng hạn. Tuy nhiên với tất cả những lợi ích mà thẻ mang lại cho chủ thẻ thi khoản phí này không đáng kể. 1.5.2.Đối với các điểm chấp nhận thẻ: Là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình thanh toán thẻ, các điểm chấp nhận thẻ cũng được hưởng những lợi ích không nhỏ từ hoạt động kinh doanh thẻ, đó là: Thứ nhất, mỗi điểm chấp nhận thẻ cũng như các đơn vị kinh tế khác, hoạt động vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận thông qua tối đa hoá lượng hàng hóa dịch vụ bán được. Vì thế, việc càng nhiều người sử dụng thẻ ngân hàng đã góp phần mở rộng thị trường cho các ĐVCNT. Nhờ vào tiện ích mở rộng khả năng tài chính cho chủ thẻ, thẻ ngân hàng đã giúp cho chủ thẻ chi tiêu vượt quá khả năng tài chính của mình. Vô hình chung, nó trở thành lực đẩy tích cực đối với sức mua, từ đó tăng cung ứng hàng hoá dịch vụ cho các ĐVCNT. Thứ hai, khi sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thẻ, người bán hàng có khả năng giảm thiểu các chi phí bảo quản, kiểm đếm, nộp vào tài khoản…Hơn nữa, việc thanh toán giữa người mua và người bán được ngân hàng đảm bảo nên vừa nhanh chóng, thuận tiện, vừa chính xác. Thứ ba, việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ còn đem lại cho các ĐVCNT những lợi ích từ chính sách khách hàng của ngân hàng. Ngoài việc cung cấp đầy đủ các máy móc thiết bị cần thiết phục vụ thanh toán thẻ (máy POS) thì nhiều ngân hàng còn có chính sách ưu đãi về tín dụng, về dịch vụ thanh toán…với hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ như một chính sách khách hàng khép kín. Thứ tư, thẻ tín dụng quốc tế là một phương tiện thanh toán quốc tế. Hiện nay, hầu hết doanh số thanh toán thẻ tín dụng quốc tế ở Việt Nam đều là doanh số thanh toán của khách nước ngoài. Vô hình chung, đây là một biện pháp xuất khẩu tại chỗ và cũng là biện pháp để các CSCNT mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của mình ra thị trường quốc tế. 1.5.3.Đối với các NHTM Thứ nhất , góp phần thu hút khách hàng. Thông thường khi khách hàng sử dụng dịch vụ thẻ của một ngân hàng thì sẽ kéo theo sử dụng nhiều dịch vụ khác, đặc biệt là dịch vụ bán lẻ, như mở tài khoản thanh toán, tín dụng, tiết kiệm. Ngoài ra, đối với những khách hàng đã có quan hệ với ngân hàng từ trước thì việc cung cấp và phát triển dịch vụ thẻ cung có tác dụng rất lớn trong việc giữ chân khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu về dịch vụ này, họ sẽ được đáp ứng ngay mà không phải tìm đến một ngân hàng khác. Hơn nữa, dịch vụ thẻ là một phương thức thanh toán hiện đại và văn minh nên việc cung cấp một dịch vụ thẻ với nhiều tiện ích sẽ tạo uy tín, hình ảnh đẹp đối với khách hàng về một ngân hàng hiện đại và tiện nghi. Qua đó càng củng cố được lòng tin của khách hàng vào ngân hàng để ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Thứ hai, góp phần tạo lợi nhuận cho ngân hàng. Cùng với những hoạt động kinh doanh khác, kinh doanh thẻ cũng mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thông qua các khoản thu: - Lãi cho vay: Khoản thu này là đối với thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng không chỉ là một dịch vụ thanh toán mà còn là hoạt động cho vay với độ an toàn cao. Thường vào cuối tháng, khách hàng sẽ nhận được sao kê về số tiền đã sử dụng và số tiền tối thiểu phải thanh toán lại cho ngân hàng. Trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán hết mà chỉ thanh toán ở mức tối thiểu thì số dư nợ còn lại sẽ được tính lãi như một khoản ngân hàng cho khách hàng vay. - Chiết khấu thương mại: đây cũng là khoản thu đối với thẻ tín dụng. Nó phát sinh trên doanh số thanh toán của các điểm chấp nhận thẻ. Khi các CSCNT trình hoá đơn thanh toán lên ngân hàng, ngân hàng sẽ tính chiết khấu một tỷ lệ trên doanh thu. Tỷ lệ chiết khấu này thường phụ thuộc vào tình hình thị trường và doanh số bán hàng. - Lệ phí thường niên và phí phát hành thẻ: Đây là khoản phí mà chủ thẻ phải trả cho việc sử dụng thẻ. Ví dụ như với thẻ Visa Card do NHNT phát hành thì mức phí phát hành là 200.000 VND cho một thẻ vàng và 100.000 VND cho một thẻ thường. - Phí rút tiền mặt: là khoản phí mà khách hàng phải trả khi rút tiền mặt áp dụng đối với thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ. Tuy nhiên hiện nay khoản phí này thường chỉ áp dụng với thẻ ghi nợ, còn các giao dịch đối với thẻ ATM thực hiện tại máy ATM hầu như được miễn phí. - Phí đại lý thanh toán: Khi NHTM tham gia kinh doanh thẻ với tư cách là đại lý thanh toán thì Ngân hàng sẽ được hưởng một phần chiết khấu trên doanh số thanh toán hộ. Với nhiều ngân hàng khi mới thâm nhập vào thị trường thẻ thì đây là nguồn thu đáng kể. - Các khoản phụ thu khác: Đó là các khoản như phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời, phí cấp lại thẻ mất cắp, thất lạc, phí tra soát… Thứ ba, góp phần cải thiện công tác thanh toán. Hoạt động kinh doanh thẻ của hệ thống NHTM đã tạo điều kiện cho cả khách hàng và Ngân hàng tự động hoá các giao dịch, đẩy nhanh tốc độ thanh toán. Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động kinh doanh thẻ còn tạo động lực thúc đẩy các hình thức thanh toán khác phát triển bởi sự hiện đại hoá công nghệ trong mỗi ngân hàng. Đồng thời hoạt động kinh doanh thẻ phát triển cũng đi kèm với sự gia tăng số lượng các điểm tiếp nhận thẻ trong quan hệ giao dịch với ngân hàng. Bản thân các CSCNT này cũng là các tổ chức kinh tế như khách sạn, nhà hàng, trung tâm thương mại…và cũng có nhiều nhu cầu sử dụng loại hình dịch vụ cho giới doanh nhân. Vô hình chung, phát triển thị trường thẻ đồng thời phát triển thị trường dành cho các hình thức thanh toán khác. Thứ tư, hoạt động kinh doanh thẻ trực tiếp tác động đến mở rộng tín dụng cho Ngân hàng. Thẻ tín dụng là phương thức dễ dàng nhất cho ngân hàng mở rộng tín dụng và cũng thuận tiện cho người vay. Với hạn mức tín dụng tuần hoàn, khách hàng có thể vay tiền, hoàn trả và vay lại một cách dễ dàng. Vì vậy thông qua hoạt động thẻ tín dụng, ngân hàng tăng được công tác cho vay của mình. Thứ năm, làm tăng lượng vốn huy động cho ngân hàng. Khi đặt quan hệ với các CSCNT, để thuận tiện trong thanh toán, các CSCNT thường mở tài khoản tại ngân hàng thanh toán. Sau khi giao dịch thẻ phát sinh, CSCNT sẽ gửi hóa đơn thanh toán cho Ngân hàng và Ngân hàng sẽ căn cứ vào đó để ghi có vào tài khoản tiền gửi của CSCNT. Vì vậy sẽ làm tăng số dư tiền gửi trên tài khoản tiền gửi nói chung và tăng nguồn huy động cho ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng có thể có thêm nguồn vốn huy động từ các chủ thẻ. Thông thường để được phát hành thẻ, khách hàng sẽ phải ký quỹ hoặc có số dư nhất định trên tài khoản tiền gửi theo quy định của Ngân hàng. Từ đó tổng số dư tiền gửi của ngân hàng cũng sẽ tăng theo. Thứ sáu, góp phần đa dạng hoá dịch vụ làm phân tán rủi ro. Thẻ thanh toán ra đời làm phong phú thêm dịch vụ của ngân hàng cũng như thoả mãn tốt hơn những nhu cầu mới của khách hàng. Bên cạnh đó, ở các nước phát triển, nơi mà hoạt động kinh doanh thẻ phát triển mạnh mẽ thì nó còn tạo điều kiện để phát triển các dịch vụ khác song song như đầu tư hoặc bảo hiểm cho các sản phẩm. Như vậy, kinh doanh thẻ còn tạo ra sự “hỗ trợ chéo” rất hiệu quả cho ngân hàng, làm đa dạng hoá hoạt động kinh doanh và góp phần phân tán rủi ro mỗi ngân hàng. 1.5.4.Đối với nền kinh tế - xã hội Hoạt động kinh doanh thẻ của các NHTM phát triển đã có vai trò lớn trong sự phát triển kinh tế- xã hội. Điều này được thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, góp phần giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông Là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, vai trò đầu tiên của thanh toán thẻ là làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Nhờ đó khối lượng cũng như áp lực tiền mặt trong lưu thông giảm đi đáng kể. Nó có vai trò rất lớn trong việc kiểm soát lạm phát và điều hành chính sách tiền tệ của nhà nước. Đặc biệt với ngân hàng, thanh toán thẻ còn giúp giảm chi phí kiểm đếm, in ấn, bảo quản và sự tham gia của các nhân viên ngân hàng. Thứ hai, tăng nhanh khối lượng chu chuyển và thanh toán trong nền kinh tế. Hầu hết các giao dịch thẻ nội địa hay quốc tế đều được thực hiện và thanh toán trực tuyến nên tốc độ chu chuyển và thanh toán nhanh hơn nhiều so với các phương tiện thanh toán khác như séc, ửy nhiệm thu hay uỷ nhiệm chi. Mặt khác, các giao dịch thẻ đều được xử lý qua hệ thống điện tử nên thuận tiện và nhanh chóng hơn nhiều so với việc thực hiện các giao dịch trên giấy tờ như đối với các phương thức giao dịch khác. Thứ ba, góp phần thực hiện biện pháp kích cầu của nhà nước. Sự tiện dụng mà thẻ mang lại cho chủ thẻ, CSCNT, các NHTM …khiến cho ngày càng nhiều người ưa chuộng sử dụng thẻ, tăng cường việc tiêu dùng bằng thẻ. Việc thanh toán và chi tiêu thực hiện dễ dàng hơn sẽ đẩy mạnh nhu cầu tiêu dùng của mọi cá nhân, tổ chức. Như vậy, khuyến khích phát hành và thanh toán thẻ cũng là khuyến khích tăng cầu tiêu dùng. Thứ tư, tạo môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du kịch và đầu tư nước ngoài. Thanh toán bằng thẻ là giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp cận với một phương tiện văn minh của thế giới, từ đó sẽ tạo ra một môi trường thương mại văn minh, hiện đại hơn. Bên cạnh đó, phát triển thanh toán thẻ làm cải thiện hoạt động thanh toán theo hướng tiện dụng, hiệu quả và hội nhập hơn sẽ góp phần thu hút khách du lịch cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. 1.6 Rủi ro trong kinh doanh thẻ Trong kinh doanh , đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng luôn luôn phải đối mặt với rủi ro. Kinh doanh thẻ cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là các ngân hàng phải nghiên cứu, phân tích, từ đó hạn chế tối đa rủi ro thể gặp phải. Các loại rủi ro thường gặp trong kinh doanh thẻ cụ thể là: 1.6.1.Đơn xin phát hành thẻ với thông tin giả mạo: Đây là trường hợp Ngân hàng phát hành do không thẩm định kỹ hồ sơ, tiến hành phát hành thẻ cho khách hàng mà không biết rằng thông tin trên đơn xin phát hành là giả mạo. Trường hợp này sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng cho NHPH khi đến hạn thanh toán chủ thẻ không có khả năng thanh toán. 1.6.2.Thẻ giả: Đây là trường hợp các tổ chức tội phạm làm giả thẻ căn cứ vào các thông tin có được từ các giao dịch thẻ hoặc thông tin của thẻ bị mắt cắp. Thẻ giả được sử dụng để tạo ra các giao dịch giả mạo, gây tổn thất cho các Ngân hàng mà chủ yếu là Ngân hàng phát hành, vì theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế thì NHPH chịu trách nhiệm với mọi giao dịch thẻ giả mạo có mã số của NHPH. Loại rủi ro này rất nguy hiểm và khó quản lý vì nó liên quan đến nhiều nguồn thông tin và nằm ngoài khả năng kiểm soát của NHPH. 1.6.3.Thẻ bị mất cắp, thất lạc: Đây là trường hợp chủ thẻ bị mất cắp, thất lạc thẻ và bị người khác sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo với NHPH để có các biện pháp hạn chế sử dụng thẻ hoặc khoá thẻ. Thẻ này có thể bị tổ chức tội phạm in nổi và mã hoá lại thẻ để thực hiện các giao dịch giả mạo. Như vậy, rủi ro này có thể dẫn đến tổn thất của cả chủ thẻ và NHPH, thường chiếm tỷ lệ lớn nhất. 1.6.4.Chủ thẻ không nhận được thẻ do NHPH gửi. Rủi ro này xảy ra khi NHPH gửi thẻ cho chủ thẻ bằng đường bưu điện nhưng thẻ bị thất lạc hoặc bị đánh cắp trên đường gửi. Thẻ bị sử dụng trong khi chủ thẻ chính thức lại không biết gì về việc thẻ đã được gửi cho mình. 1.6.5.Tài khoản chủ thẻ bị lợi dụng: Đền kì phát hành, NHPH nhận được thông báo thay đổi địa chỉ của chủ thẻ. Do không kiểm tra tính xác thực của thông báo đó, thẻ được gửi về địa chỉ mới không phải là địa chỉ của chủ thẻ đích thực, khiến tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng. Việc này chỉ bị phát hiện khi chủ thẻ hỏi NHPH về thẻ mới của mình hoặc khi nhận được sao kê thanh toán nợ cho những khoản mà mình không hề chi tiêu. Rủi ro này chủ thẻ và NHPH cùng chịu. 1.6.6.Thẻ bị giả mạo để thanh toán qua thư, điện thoại: CSCNT cung cấp dịch vụ, hàng hoá theo yêu cầu của chủ thẻ qua thư hoặc điện thoại dựa vào các thông tin về chủ thẻ như: Loại thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ…mà không biết rằng khách hàng đó có thể không phải là chủ thẻ thực sự. Khi giao dịch đó bị NHPH từ chối thanh toán thì CSCNT phải chịu rủi ro. 1.6.7.Nhân viên CSCNT giả mạo hoá đơn thanh toán thẻ Khi thực hiện giao dịch , nhân viên CSCNT cố tình in ra nhiều bộ hoá đơn thanh toán cho một giao dịch nhưng chỉ đưa cho chủ thẻ kí vào một bộ hoá đơn. Các hoá đơn còn lại bị CSCNT giả mạo chữ ký của chủ thẻ để thu đòi tiền. 1.6.8.Tạo băng từ giả: Rủi ro này xảy ra khi tổ chức tội phạm dùng các thiết bị chuyên dụng thu thập thông tin trên thẻ băng từ của thẻ thật. Sau đó chúng sử dụng các thiết bị riêng để mã hoá và in tạo các băng từ trên thẻ giả rồi thực hiện các giao dịch giả mạo. Loại giả mạo kỹ thuật cao này đang rất phổ biến ở các nước phát triển gây thiệt hại cho cả chủ thẻ, NHPH và NHTT. 1.6.9.Rủi ro khác: Rủi ro do khách hàng thiếu trung thực: là trường hợp khi khách hàng gian dối khi họ sử dụng thẻ ở các điểm chấp nhận thẻ khác nhau với hạn mức tín dụng nhỏ nhưng tổng hạn mức lại cao hơn hạn mức thanh toán cho phép. Điều này chỉ được phát hiện khi NHTT kiểm tra các hoá đơn do CSCNT gửi đến. Khi đó, NH có thể chịu rủi ro khi khách hàng mất khả năng thanh toán. Mặt khác, chủ thẻ cũng có thể lợi dụng đặc điểm thanh toán toàn cầu của thẻ quốc tế để thông đồng với người khác và giao thẻ cho người dó sử dụng ở các nước khác nhau bằng chữ ký giả mạo của chủ thẻ và từ chối thanh toán khi bị NHPH đòi tiền. Rủi ro mà NHTT phải chịu do không kịp thời cung cấp danh sách thẻ bị cấm lưu hành cho các ĐVCNT khi các giao dịch đã được các ĐVCNT thực hiện. 1.7 Các nhân tố ảnh hưởng đến kinh doanh thẻ 1.7.1.Thói quen tiêu dùng của người dân: Thói quen tiêu dùng của người dân có ảnh hưởng lớn đến ciệc sử dụng thẻ. Nó tạo ra môi trường cho thanh toán thẻ. Một thị trường mà người dân vẫn mang nặng thói quen tiêu dung bằng tiền mặt thì không thể là một môi trường tốt để phát triển thị trường thẻ. Chỉ khi việc thanh toán được thực hiện chủ yếu qua hệ thống Ngân hàng thì thẻ thanh toán mới thực sự phát huy được hiệu quả sử dụng của nó. 1.7.2.Trình độ dân trí: Trình độ dân trí tác động lớn đến nhận thức của người dân về sử dụng thẻ, một phương tiện thanh toán hiện đại và đa tiện ích. Một thị trường với trình độ dân trí cao, họ sẽ chủ động tiếp cận, tìm hiểu về thẻ để từ đó tạo thói quen sử dụng thẻ. Trình độ dân trí cao cũng đồng nghĩa với một nền kinh tế phát triển về mọi mặt, tiếp cận với nền văn minh thế giới, ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật phục vụ con người. 1.7.3.Thu nhập của người dùng thẻ: Thu nhập cao đồng nghĩa với mức sống cao hơn. Khi đó, nhu cầu của con người không chỉ dừng lại ở việc mua được hàng hoá mà là phải mua bán với độ thoả dụng tối đa. Thanh toán thẻ sẽ đáp ứng nhu cầu này của họ. Khi mức sống nâng cao, nhu cầu du lịch, giải trí... của con người cũng cao hơn, phong phú hơn. Thẻ thanh toán là phương tiện hữu hiệu nhất đáp ứng dược nhu cầu này của họ. Mặt khác, chỉ với mức thu nhập khá cao và ổn định mới có thể đáp ứng được những điều kiện của NH khi phát hành thẻ. Khi thu nhập thấp, khách hàng dù có nhu cầu sử dụng thẻ thì NH cũng thể cung cấp dịch vụ được. 1.7.4. Trình độ công nghệ của NH: Thanh toán thẻ là một phương thức thanh toán hiện đại, vì thế nó cũng đòi hỏi một hệ thống vận hành với những máy móc thiết bị hiện đại. Mặt khác sự đồng bộ của hệ thống công nghệ thẻ là rất quan trọng, vì một khâu nhỏ bị trục trặc cũng sẽ dẫn đến gây ách tắc toàn hệ thống. Vì vậy khi đã đưa ra dịch vụ thẻ, Ngân hang phải đảm bảo một công nghệ thanh toán hiện đại theo kịp yêu cầu của thế giới. Hơn nữa, chỉ khi có trình độ kỹ thuật cao thi việc vận hành, bảo dưỡng, duy trì hệ thống máy móc phục vụ phát hành và thanh toán thẻ mới có hiệu quả, giảm giá thành dịch vụ, từ đó thu hút thêm người sử dụng nó. 1.7.5.Môi trường pháp lý: Môi trường là một yếu tố rất quan trọng đối với việc kinh doanh thẻ NH. Một môi trường pháp lý hoàn thiện, chặt chẽ, đầy đủ hiệu lực mới có thể đảm bảo cho quyền lợi cuả tất cả các bên tham gia phát hành, thanh toán, sử dụng thẻ. II. NGHIỆP VỤ PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ NGÂN HÀNG 2.1.Các chủ thể tham gia vào quá trình phát hành và thanh toán thẻ Hoạt động kinh doanh thẻ diễn ra theo một chu trình khép kín, bao gồm nhiều chủ thể tham gia. Có thể khái quát chung lại các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh thẻ gồm: 2.2.Ngân hàng phát hành thẻ: Ngân hàng phát hành thẻ (NHPH) là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế, đồng thời được NHTW cho phép thực hiện nghiệp vụ phát hành. Ngân hàng phát hành thẻ tham gia vào quá trình thanh toán với tư cách là chủ nợ của chủ thẻ và là người chịu trách nhiệm thanh toán lại cho các Ngân hàng thanh toán và các điểm chấp nhận thẻ. NHPH được quyền đưa ra các điều kiện về phát hành và thanh toán thẻ mà chủ thẻ và các NH đại lý thanh toán, cơ sở chấp nhận thẻ phải chấp hành. 2.3.Ngân hàng thanh toán thẻ: Ngân hàng thanh toán thẻ (NHTT) là thành viên chính thức hoặc thành viên liên kết của tổ chức thẻ quốc tế, hoặc các ngân hàng được các NHPH uỷ quyền thực hiện việc thanh toán thẻ. NHTT đảm nhiệm hoạt động thanh toán chứ không liên quan đến công tác phát hành thẻ. Vì vậy, đối tượng quản lý của NHTT là các CSCNT. Riêng thẻ quốc tế Visa và Master thì NHTT phải là thành viên chính thức của các tổ chức này. Trên thực tế, nhiều Ngân hàng vừa là NHPH, vừa là NHTT. 2.4.Chủ thẻ: Là người được NHPH cho phép sử dụng thẻ theo hạn mức tín dụng được cấp hoặc theo số dư trên tài khoản thẻ. Các thông tin về chủ thẻ được in nổi hoặc mã hoá trên thẻ 2.5.Cơ sở chấp nhận thẻ: CSCNT là các đơn vị cung ứng hàng hoá, dịch vụ…và chấp nhận thẻ làm phương tiện thanh toán. CSCNT là khách hàng trực tiếp của NHTT nên phải có hợp đồng với NHTT. CSCNT cũng có quyền đòi hỏi NHTT cung cấp máy móc, thiết bị phục vụ việc kiểm tra và thanh toán bằng thẻ. Số lượng các điểm chấp nhận thẻ quyết định quy mô của hoạt động thanh toán thẻ, nó tác động đến tiện ích và hiệu quả của việc thanh toán bằng thẻ của khách hàng. 2.6.Tổ chức thẻ quốc tế: Là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng tham gia phát hành và thanh toán thẻ quốc tế. Tổ chức thẻ quốc tế có mạng lưới hoạt động rộng khắp và làm trung tâm xử lý, cấp phép, thông tin giao dịch thanh toán của các ngân hàng thành viên trên toàn thế giới. Tên của mỗi tổ chức thẻ quốc tế đều được in trên sản phẩm của họ. Khác với Ngân hàng thành viên, tổ chức thẻ quốc tế không có quan hệ trực tiếp với chủ thẻ hay CSCNT mà chỉ có trách nhiệm về uy tín của snr phẩm thẻ của mình cũng như cung cấp một mạng lưới viễn thông toàn cầu phục vụ cho quá trình thanh toán hay cấp phép của các ngân hàng thành viên một cách nhanh chóng. Hiện tại các có các tổ chức thẻ VISA, MASTERCARD, AMEX, JCB… 2.7. Trung tâm dịch vụ thẻ: Trung tâm dịch vụ thẻ trực thuộc Ngân hàng phát hành thẻ, là đại diện trực tiếp của ngân hàng trong quan hệ đối ngoại về phát hành, cấp phép, tra soát, thanh toán thẻ và quản lý rủi ro. Trung tâm dịch vụ thẻ thường đứng ra ký hợp đồng sử dụng thẻ, cung cấp thẻ và các dịch vụ kèm theo cho người sử dụng thẻ, đồng thời giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động của thẻ. Ngoài ra, trung tâm dịch vụ thẻ còn đảm nhận việc cung cấp các thiết bị chuyên dùng cho các CSCNT để phục vụ cho hoạt động thanh toán thẻ. 2.8.Cơ sở pháp lý cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ Hoạt động của các chủ thể trong kinh doanh và sử dụng thẻ trong tời gian qua chủ yếu dựa và hai nguồn chính. Đó là các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và của các Tổ chức thẻ Quốc tế ban hành. Trong đó, hiện nay NHNNVN mới chỉ ban hành hai văn bản đề cập đến thanh toán thẻ. Thứ nhất là thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, ban hành kèm theo quyết định số 22/QĐ- NH1 ngày 21/02/1994. Tịa Phần 1, mục IIG, điều 24 quy định về thanh toán thẻ. Theo thể lệ này, thẻ thanh toán có nhiều loại nhưng chủ yếu là 3 loại chính là Thẻ ghi nợ, Thẻ ký quỹ thanh toán, và thẻ tín dụng. Cụ thể: Thẻ ghi nợ: Áp dụng đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán thường xuyên, có tín nhiệm với Ngân hàng, do Giám đốc Ngân hàng phát hành thẻ xem xét quyết định. Mỗi thẻ có hạn mức thanh toán tối đa do Ngân hàng phát hành thẻ quy định, khách hàng chỉ được thanh toán trong phạm vi hạn mức của thẻ. Thẻ ký quỹ thanh toán: Áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng muốn sử dụng loại thẻ này, khách hàng phải lưu ký tiền vào một tài khoản riêng tại Ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán bằng số tiền ký quỹ ghi trong thẻ. - Thẻ tín dụng: Áp dụng với khách hàng có đủ điều kiện được ngân hàng đồng ý cho vay tiền. Khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận bằng văn bản. Ngoài ra còn một số quy định về trách nhiệm của các chủ thể tham gia. Nội dung của Quyết định này đề cập còn khá sơ lược về thanh toán thẻ. Mặt khác, chưa có sự rõ ràng giữa thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng. Theo khái niệm như trên thì hai loại này gần như là tương tự nhau.Tuy nhiên, vào thời điểm ban hành quy chế này, hoạt động thẻ của nước ta chưa phát triển, các ngân hàng cũng chưa có nhiều kinh nghiệm, vì vậy việc tồn tại những hạn chế như trên cũng là khó tránh khỏi. Thứ hai là quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng, ban hành kèm theo quyết đinh số 371/1999/QĐ- NHNN1 ngày 19/01/1999. Quy chế này ra đời trong khi hoạt động thanh toán thẻ của Việt Nam bắt đầu có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải có hành lang pháp lý cụ thể và đầy đủ hơn. Đồng thời cũng nhằm khắc phục những hạn chế của Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt. Có thể nói Quy chế này là đầy đủ và cụ thể nhất trong các quy định liên quan đến thanh toán thẻ từ trước tới nay. Quy chế gồm 8 chương và 31 điều quy định về quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể trên thị trường thẻ của Việt Nam. Đồng thời cũng có sự phân biệt cụ thể giữa các loại sản phẩm thẻ như thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ nội địa, thẻ quốc tế,…Các loại thẻ này được thống nhất gọi chung là thẻ Ngân hàng. Quy chế cũng có sự rõ ràng giữa thẻ thanh toán và thẻ tín dụng, cùng các quy định về các vấn đề: Điều kiện phát hành thẻ, điều kiện sử dụng thẻ, phạm vi và thời hạn sử dụng thẻ, các trường hợp mất thẻ cũng như trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể trên thị trương thẻ… Tuy nhiên, quy chế này còn có hạn chế là chưa đề cập cụ thể về vấn đề quản lý ngoại hối đối với sử dụng thẻ ở nước ngoài. Trong đó cần quy định cụ thể số tiền tối đa mà các chủ thẻ có thể sử dụng để thanh toán ở nước ngoài mà không cần khai báo với cơ quan hải quan. Đồng thời, quy chế cũng chưa cụ thể quá trình nghiệp cụ phát hành thẻ tại NHTM , các quy định liên quan đến giao dịch qua Internet, qua máy rút tiền tự động ATM. Trong quá trình gia nhập vào lĩnh vực kinh doanh thẻ đầy mới mẻ ,các văn bản này ra đời là hành lang pháp lý quan trọng và cần thiết với các chủ thể tham gia trên thị trường thẻ, đặc biệt là đối với các NHTM. Gần đây nhất, với sự ra đời của Luật giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính ngày 29/11/2005 cũng đã tạo điều kiện cho các Ngân hàng yên tâm đẩy mạnh kinh doanh trong lĩnh vực thanh toán thẻ. Bên cạnh sự điều chỉnh của các quy định của NHNNVN, Các chủ thể trên thị trường thẻ nước ta còn chịu chi phối bởi các quy định của các tổ chức thẻ quốc tế. Đặc điểm nổi bật của các quy định này là luôn nhằm bảo vệ uy tín về thương hiệu của các TCTQT. Vì vậy, nội dung các quy định thường rất chặt chẽ, cụ thể và mang tính áp đặt. Các vấn đề được các TCTQT quy định như: Quy định về tiêu chuẩn trong thiết kế sản phẩm. Quy định về hạn mức thẻ. Quy định về trách nhiệm của các thành viên (NHTT, NHPH, các công ty cung cấp dịch vụ liên quan đến thẻ). Quy định về giải quyết các xung đột, khiếu nại, tranh chấp giữa các thành viên… Các tổ chức này còn áp dụng các biện pháp xử phạt rất nặng nề đối với các thành viên vi phạm. 2.9.Các nghiệp vụ cơ bản trong kinh doanh thẻ của NHTM Với 5 chủ thể chính trên thi trường thẻ là : NHPH, NHTT, Chủ thẻ, ĐVCNT, và Tổ chức thẻ quốc tế thì hoạt động kinh doanh thẻ có thể được khái quát theo mô hình sau: Hội thẻ QT Chủ thẻ ĐVCNT NHPHT NHTTT 3 4 5 6 7 8 9 2 1 Biểu đồ 1 NHPTT phát hành thẻ cho chủ thẻ. Khách hàng mua hàng hoá, dịch vụ bằng thẻ. Giao dịch viên kiểm tra thẻ và quẹt thẻ qua POS. ĐVCNT gửi yêu cầu cấp phép phê duyệt giao dịch đến NHTTT. NHTTT gửi yêu cầu cấp phép giao dịch đến Hiệp hội thẻ Quốc tế (Visa, MasterCard…) Hiệp hội thẻ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2914.doc
Tài liệu liên quan