Chuyên đề Phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1 4

TỔNG QUAN CHUNG VỀ NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN, KCX VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN, KCX 4

1. Khái quát về các KCN, KCX. 4

2. Nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX – Khái niệm và phân loại. 9

2.1. Khái niệm chung về nhà ở. 9

2.2. Các loại hình nhà ở của công nhân tại các KCN, KCX. 11

3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX. 14

3.1. Một số giải pháp của các tiểu vương quốc Ả Rập (UAE). 14

3.2. Một số giải pháp của Bang Selangor (Malaysia) xây dựng chương trình phát triển nhà ở cho công nhân. 16

3.3. Tại một số quốc gia khác. 17

4. Một số kết luận rút ra cho Việt Nam. 18

CHƯƠNG 2 21

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN, KCX VÀ CÁC CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN, KCX Ở VIỆT NAM 21

1. Những vấn đề nảy sinh khi nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX không được giải quyết. 21

2. Tình hình nhà ở của công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam. 24

2.1. Sự phát triển của các KCN, KCX ở Việt Nam thời gian qua tạo sự thu hút mạnh về lao động và kích thích sự tăng cầu về nhà ở. 27

2.2. Cung về nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay. 28

2.3. Những bất hợp lý và bất cập về vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay. 32

3. Những nguyên nhân của các thực trạng về nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam như trên. 35

3.1. Các cơ chế chính sách của nhà nước còn chưa đồng bộ và chưa đầy đủ. 36

3.2. Sự quan tâm của các địa phương tới vấn đề phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam còn chưa đúng mức. 36

3.3. Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập. 37

3.4. Cơ sở hạ tầng yếu kém. 37

3.5. Nguồn vốn và quỹ đất dành cho xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam còn thiếu thốn. 39

4. Những cơ chế chính sách của nhà nước ta về việc phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX. 40

4.1. Các cơ chế chính sách đã được áp dụng. 40

4.2. Những kết quả đạt được và những mặt còn tồn tại. 43

4.3. Những kết luận rút ra từ việc xây dựng cơ chế chính sách. 45

CHƯƠNG 3 47

NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHO PHÁT TRIỂN NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN TẠI CÁC KCN, KCX. 47

1. Một số nhận định về việc phát triển các KCN, KCX trong thời gian tới (2015 và tầm nhìn 2020). 47

Bảng: phân bổ KCN theo vùng đến tháng 10/2007 47

1.1. Xu hướng phát triển nhà ở trong thời gian tới. 48

1.2. Quan điểm định hướng giải quyết nhà ở cho công nhân trong KCN, KCX. 49

1.2.1. Phát triển các khu đô thị, khu nhà lưu trú cho công nhân ngay gần các KCN, KCX. 50

1.2.2. Vai trò chủ đạo trong vấn đề huy động nguồn lực xã hội vào phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX thuộc về nhà nước. 52

1.2.3. Giải quyết nhà ở cho công nhân trong các KCN, KCX phải được tiến hành từng bước. 54

2. Kiến nghị và giải pháp cho việc phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX tại Việt Nam. 57

2.1. Về phía các chủ doanh nghiệp tại các KCN, KCX và các doanh nghiệp kinh doanh nhà ở. 57

2.2. Về phía nhà nước. 58

3. Những điều kiện để đảm bảo các giải pháp được thực hiện. 61

KẾT LUẬN 63

TÀI LIỆU THAM KHẢO 65

 

 

doc69 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3357 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng Cục quản lý nhà, Bộ Xây dựng, cho biết, Chính phủ đã ban hành Luật Nhà ở, quy định điều kiện tối thiểu về nhà ở đối với người lao động. Ngoài ra, Quy chế nhà trọ công nhân cũng yêu cầu đảm bảo cho người lao động được ở trong những ngôi nhà với điều kiện tối thiểu về diện tích (3m2/người), có cây xanh, ô thoáng… Tuy nhiên, theo ông Thục, để giải quyết nhà ở cho công nhân theo luật định cần có lộ trình. Với các khu công nghiệp sắp hình thành, Chính phủ mà đại diện trực tiếp là các bộ ngành, UBND các tỉnh thành phải quán triệt chặt chẽ việc đảm bảo có chỗ ở cho công nhân. “Tất cả các cơ quan chức năng đều cần phải vào cuộc. Xây nhà trọ công nhân thì được miễn thuế sử dụng đất và nhiều ưu đãi khác, không có lý do gì để các nhà đầu tư từ chối xây dựng nhà ở cho người lao động làm việc cho mình”, ông Thục nói. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc thừa nhận yếu kém của bộ này trong việc lo chỗ ở và môi trường sống của hàng chục nghìn công nhân tại các khu công nghiệp trong suốt 15 năm qua. Ông Phúc cho rằng nếu giải quyết được vấn đề đời sống, nơi ăn chốn ở, chế độ bảo hiểm xã hội… cho công nhân thì chắc chắn người lao động sẽ yên tâm cống hiến sức lao động của mình chứ không xảy ra đình công như thời gian gần đây. Ông Phúc cho biết, trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch Đầu tư sẽ chỉ đạo các khu công nghiệp, khu chế xuất toàn quốc chú trọng đến việc yêu cầu các nhà đầu tư cam kết xây dựng nhà cho công nhân. “Chúng tôi sẽ cùng các bộ liên quan kiểm tra và xử lý các tỉnh không thực hiện tốt chính sách về nhà ở theo đúng Luật xây dựng và Luật nhà ở mà nhà nước ban hành”, ông Phúc khẳng định. Hải Ngọc Theo VnEpress đưa tin ngày 14/7/2006 Sự phát triển của các KCN, KCX ở Việt Nam thời gian qua tạo sự thu hút mạnh về lao động và kích thích sự tăng cầu về nhà ở. Tính đến nay tại Việt Nam đã có rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN, KCX, tỷ lệ đầu tư này ngày càng gia tăng đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh… Trong 10 tháng đầu năm 2007, cả nước có 13 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp giấy chứng nhận đầu tư, thành lập mới 10 KCN và mở rộng 3 KCN với tổng diện tích đạt 1569 ha. Tính đến nay, cả nước đã có 154 KCN thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 32.808 ha trong đó diện tích đất công nghiệp có thể thuê đạt 21.775 ha, chiếm 66% tổng diện tích đất tự nhiên. Có 92 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 20.758 ha và 62 KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên 12.073 ha. Riêng ở Hà Nội, theo số liệu thống kê năm 2005, đã có 13 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN, KCX ở Hà Nội với tổng dự án là 102, tổng số vốn đăng ký trên 1.25 tỷ USD. Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 55 dự án, Singapore có 8 dự án, Hàn Quốc có 7 dự án đầu tư vào KCN Hà Nội. Quá trình đầu tư vào mở rộng phát triển và thu hút mạnh đầu tư vào các KCN, KCX ở Việt Nam tạo ra sức hút về lao động làm việc tại các khu này, gồm đội ngũ công nhân, cán bộ kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ và cán bộ quản lý…Đa số người lao động tại các KCN, KCX hiện là người trẻ tuổi, lao động nữ là lực lượng chính trong các KCN, KCX tuổi từ 18-35. Lực lượng lao động ngoại tỉnh từ các địa phương di cư tới các đô thị và KCN hầu hết đều chỉ được ở trong các ngôi nhà tạm bợ, thuê trọ nhà do dân cư tự phát xây lên với những điều kiện sinh hoạt tối thiểu là tồi tàn và thiếu thốn. Cùng lắm là được ở trong các ngôi nhà dạng ký túc xá cũng trật trội và ẩm thấp điều kiện văn hoá tinh thần gần như không có gì. Không chỉ những lao động ở tỉnh lẻ hoặc ở ngoại tỉnh di cư tới là có nhu cầu về nhà ở mà những người dân sống tại địa bàn tỉnh – nơi có các KCN, KCX cũng có nhu cầu về nhà ở gần với KCN, KCX hay vì một số lý do cá nhân khác mà họ cũng có nhu cầu ra ở riêng gần với nơi làm việc cho thuận tiện đi lại và phù hợp với đặc thù công việc mà họ đang làm. Từ những lý do trên mà ta thấy cầu về nhà ở tại Việt Nam ngày càng gia tăng cùng với sự tăng lên của các KCN, KCX. Hiện nay, chưa có một KCN, KCX nào ở Việt Nam giải quyết tốt vấn đề nhà ở cho công nhân của mình để tạo cho họ sự yên tâm, gắn bó với công việc của mình. Cung về nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay. Cung về nhà ở cho công nhân ở các KCN, KCX tại Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được phần lớn nhu cầu về nhà ở cho người lao động. Nhìn chung lại là quy hoạch về nhà ở và các công trình kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ KCN, KCX chưa được quan tâm đúng mức. Đây hiện đang là tình trạng khá phổ biến tại các KCN, KCX trên địa bàn cả nước. Hiện tại cung về nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Khi nhu cầu về nhà ở của người dân rất lớn thì họ phải thuê những khu vực xung quanh, nơi dân cư làm nhà để cho thuê. Vấn đề xây nhà ở xã hội đã được đặt ra từ rất sớm. Khi Luật Nhà ở được Quốc hội thông qua vào ngày 29-11-2005, quyền lợi về nhà ở của những người có thu nhập thấp được nhà nước xác nhận. Ngay sau đó, vào năm 2006, Bộ Xây dựng đã trình đề án thí điểm xây dựng nhà ở xã hội và chọn 3 địa phương có số lượng công nhân làm việc tại các khu công nghiệp đông nhất là Hà Nội, TPHCM và Bình Dương để áp dụng đề án trước tiên. Sau đó, đề án này sẽ được nhân rộng ra các địa phương trong cả nước. Theo báo cáo của các địa phương, trong giai đoạn 2006-2010 Hà Nội cần xây dựng trên 110.000 căn hộ cho các đối tượng thu nhập thấp, còn TPHCM cần khoảng 100.000 căn hộ thu nhập thấp và trên 50.000 chỗ ở tập thể cho công nhân lao động. Đối với chính quyền địa phương đây quả là bài toán nan giải vì các doanh nghiệp bất động sản vốn không "mặn mà" với chương trình nhà ở xã hội vì thu lãi thấp mà rủi ro cao. Ông Nguyễn Mạnh Hà, Cục trưởng Cục Quản lý nhà (Bộ Xây dựng) thừa nhận từ khi Luật Nhà ở được đưa vào thực tế đến nay, tiến độ xây dựng quỹ nhà ở xã hội còn rất chậm. Một thống kê cụ thể từ Bộ Xây dựng cho thấy, 3 địa phương thực hiện thí điểm chương trình nhà ở xã hội đều rất chậm trễ trong khi lượng công nhân đổ về các địa phương trên ngày càng tăng nhanh. Cụ thể, các doanh nghiệp đang hoạt động tại các khu công nghiệp trong vùng đồng bằng sông Hồng hiện thu hút được 142.000 lao động trực tiếp từ các khu công nghiệp Nomura (Hải Phòng), Hoà Xá (Nam Định), Nguyễn Đức Cảnh, Quang Minh(Vĩnh Phúc), Thăng Long, Sài Đồng B và Khai Quang (Hà Nội). Nhưng số lượng nhà ở đáp ứng được chỉ là 168 căn (trong 1.564 căn hộ dự kiến) cho 1.700 công nhân thuê. Tại Bình Dương, 21 khu công nghiệp với 149.000 lao động nhưng khu công nghiệp đáp ứng được nhiều chỗ ở nhất cũng chỉ dừng lại con số 1.000 chỗ ở, và số khu công nghiệp như vậy rất ít ỏi. Riêng TP Hồ Chí Minh có số lượng khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung nhiều nhất với 100 xí nghiệp  hoạt động trong 14 khu công nghiệp thu hút 210.000 lao động. Trong đó, 147.000 người có nhu cầu nhà trọ, nhưng chỉ có 4/15 khu công nghiệp, khu chế xuất có nhà lưu trú cho công nhân. Nhiều KCN-KCX thu hút đông lao động phổ thông, tay nghề, trình độ thấp, mức thu nhập thấp, phải chi phí tiền thuê nhà, điện, nước nên anh chị em công nhân càng khó khăn trong đời sống hàng ngày, chưa kể phải dành tiền đề phòng ốm đau, gửi về giúp đỡ gia đình. Các số liệu công bố gần đây của TP.HCM cho thấy, 70% lao động ở các KCN thành phố là ngoại tỉnh. Chính vì thế nhu cầu nhà ở cho những lao động này là rất lớn. Còn theo kết quả điều tra xã hội học của Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.Hồ Chí Minh, đa số lao động là những người trẻ nhập cư, nên gặp nhiều khó khăn trong ổn định cuộc sống, nhất là về nhà ở. Phần lớn họ phải thuê nhà dân vì không mấy doanh nghiệp có ký túc xá. Kết quả điều tra cũng cho thấy 65,8% công nhân tại các KCN-KCX TP.Hồ Chí Minh có nhu cầu nhà ở, song các doanh nghiệp chỉ mới đáp ứng được 4-15%. Còn ở Bình Dương cũng mới đảm bảo nhà cho 15% số lao động (đáp ứng cho khoảng 11.000 lao động), tỉnh Đồng Nai đảm bảo được 6,5% lao động (đáp ứng được gần 9.000 lao động). Tuy nhiên, do thuê nhà chật chội, công nhân làm việc vất vả đã khiến cho họ không còn thời gian tiếp xúc với văn hóa. Theo khảo sát, 89,3% công nhân ở các KCN cho rằng, nếu có các hoạt động văn hoá - văn nghệ, thể dục - thể thao thì cũng chỉ diễn ra tại địa bàn cư trú và không phải ai cũng có điều kiện tham gia. Còn tại nơi cư trú, số lượng thiết chế văn hóa, thể dục - thể thao lại quá ít ỏi và nghèo nàn. Qua thực tế ở hầu hết các KCN, KCX cho thấy, một tình trạng chung là nhà ở cho công nhân thuê hầu hết là những dãy phòng trọ, nhà trọ, do người dân xung quanh xây dựng một cách tự phát, tạm bợ, hầu hết các phòng chỉ rộng từ 10-15m2, mái lợp fibro-xi măng, dột và ẩm thấp khi trời mưa, nóng như lò nung vào mỗi đợt hè, điện nước thiếu thốn, không đảm bảo được ngay cả những điều kiện sinh hoạt bình thường, lối đi lại thì chật hẹp, không hợp vệ sinh, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không đáp ứng được yêu cầu, giá cả và thời gian thuê nhà không được lâu dài và ổn định…Đa phần những nhà cho thuê mới chỉ giải quyết được phần trước mắt là chỗ ngủ, còn lại chất lượng ở và các công trình phục vụ sinh hoạt rất yếu kém, thực chất đây là các khu nhà lụp xụp, giống như những khu nhà “ổ chuột”. Những người công nhân với điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, với số tiền ít ỏi, với giá cả đắt đỏ, buộc phải ở trong những ngôi nhà như thế này gây rất nhiều khó khăn và ảnh hưởng xấu đến chất lượng làm việc và khả năng tái sản xuất sức lao động của người công nhân. Bên cạnh đó với tốc độ phát triển của những nhà ở kém chất lượng và không đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu đang gia tăng rất nhanh, tuy vậy nó vẫn không đủ để đáp ứng được nhu cầu về nhà ở giá rẻ của công nhân cũng đang gia tăng mạnh mẽ. Những người dân cho thuê nhà có diện tích đất chật hẹp, không thể có khả năng mở rộng, hơn nữa họ cũng không thể đầu tư để xây dựng được, chính vì vậy mà việc có nhà để thuê của đa phần người công nhân là cực kỳ khó khăn, nhất là vào những thời kỳ mùa vụ, khi đồng loạt các nhà máy tuyển thêm công nhân. Có những người công nhân phải đi xa chỗ làm việc hơn 5-7 km mới mong thuê được nhà. Hơn thế nữa khi nhà ở khan hiếm thế thì giá nhà lại ngày càng có xu hướng bị đẩy cao lên theo, khiến việc thuê nhà của người lao động tại các KCN, KCX đã khó nay lại càng khó khăn hơn. Tiền thuê nhà cũng là một vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến những người lao động ngoại tỉnh ở Việt Nam, chính là những công nhân thuê nhà trọ tại các KCN, KCX. Đồng lương trung bình hiện nay của công nhân đang ở mức khoảng từ 800.000-1200.000 đồng/người/tháng. Với mức lương như vậy thì người công nhân không thể chi trả quá 10%-15% lương cho việc thuê nhà. Vì vậy để có việc làm và đảm bảo các thứ khác cho cuộc sống buộc họ phải chấp nhận sống trong những ngôi nhà tạm bợ, điều kiện sống tồi tàn như đã nêu trên. Vấn đề nhà ở cho công nhân trong các KCN, KCX bức xúc như vậy nhưng hiện nay chỉ có những người dân trong khu vực tự phát xây dựng nhà để cho thuê chứ hiện tại chưa có một tổ chức hay một doanh nghiệp nào tham gia giải quyết vấn đề này. Có thể nói thị trường về nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX hiện nay ở Việt Nam là đang bị bỏ trống do cung quá thiếu so với cầu cả về số lượng và chất lượng, không đáp ứng được cầu. Nếu tình trạng nhà ở cho công nhân không sớm được cải thiện có thể gây nên những vấn đề xã hội, chính trị phức tạp. Những bất hợp lý và bất cập về vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay. Việc quy hoạch phát triển các KCN, KCX thường chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, ảnh hưởng đến tính bền vững trong phát triển; chưa chú trọng gắn việc xây dựng quy hoạch chi tiết từng khu công nghiệp với quy hoạch nhà ở, công trình công cộng phục vụ đời sống người lao động làm việc trong khu công nghiệp, đặc biệt là đối với người lao động nhập cư. Thực tế phát triển các khu công nghiệp thời gian qua đã đặt ra vấn đề nhà ở cần phải được giải quyết phù hợp với thu nhập của công nhân, nhất là công nhân nhập cư. Tại một số địa phương như: Đồng Nai, Long An, Bình Dương, Hải Dương, Bắc Ninh, v.v… đã bước đầu triển khai song song với các đề án phát triển khu công nghiệp là các dự án phát triển nhà nhằm tạo tiện ích công cộng cho công nhân yên tâm và có điều kiện làm việc. Đây là vấn đề khá bức bách đặt ra đối với các địa phương khi tiến hành phát triển các khu công nghiệp. Tuy nhiên, đó cũng chỉ mới là bước đầu. Hiện tại, Thủ tướng Chính phủ đang giao Bộ Xây dựng nghiên cứu đề án này để sớm đưa ra chính sách giải quyết. Tình trạng hàng trăm nghìn công nhân nhập cư làm việc trong các khu công nghiệp chưa có nhà ở trở thành phổ biến đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp không những cho bản thân người công nhân nhập cư, mà cả các địa phương nơi có khu công nghiệp, nhất là các địa phương có nhiều khu công nghiệp tập trung tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh… Hiện tại, các khu công nghiệp trên cả nước thu hút được hơn 86 vạn lao động trực tiếp, trong đó có gần 30 vạn lao động nhập cư. Ở hầu hết các khu công nghiệp cả nước, số người lao động nhập cư có điều kiện sống rất khó khăn. Do lao động nhập cư làm việc tại các khu công nghiệp tăng mạnh về số lượng, dẫn tới nhu cầu nhà ở tăng cao, trong khi hầu hết chính quyền địa phương và các chủ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và các doanh nghiệp đều chưa chú trọng tới việc xây dựng nhà ở cho công nhân thuê với giá thấp. Điều này chủ yếu do việc xây dựng nhà ở đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, hiệu quả đầu tư không cao, nên rất ít doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà ở cho công nhân thuê. Các địa phương phát triển nhanh về khu công nghiệp cũng chưa có những quyết sách căn cơ để giải quyết được vấn đề nhà ở cho công nhân nhập cư. Cụ thể, Bình Dương mới chỉ đảm bảo nhà cho 15% số lao động; Đồng Nai: 6,5%, Thành phố Hồ Chí Minh: 4%. Hiện nay, nhiều địa phương mới chỉ có dự kiến quy hoạch phát triển nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp, nhưng chưa có định hướng rõ và có chính sách ưu đãi đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động. Số lao động nhập cư thường phải thuê nhà trọ ở khu vực xung quanh khu công nghiệp để cư trú với chất lượng thấp, không đảm bảo điều kiện vệ sinh và điều kiện sống tối thiểu. Điều này đang ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người lao động nhập cư và vấn đề vệ sinh môi trường sống của những khu vực xung quanh khu công nghiệp. Với mức thu nhập thấp và điều kiện nhà ở khó khăn hiện nay, người lao động rất thiếu điều kiện để thoả mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, thể thao, nghỉ ngơi, học tập, giao lưu tình cảm. Đặc biệt, trong các khu công nghiệp có số lao động nữ nhiều, vấn đề hôn nhân và gia đình trở nên bức xúc nhưng chưa được các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể quan tâm thỏa đáng. Hầu hết các luật, pháp lệnh quy định vấn đề liên quan đến di cư đều chỉ mới dừng lại ở các quy định có tính nguyên tắc chung, áp dụng cho tất cả tổ chức, cá nhân có liên quan trong phạm vi cả nước (kể cả tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động tại Việt Nam). Vì vậy, nội dung các quy định chủ yếu mang tính khái quát mà không đề cập đến các nhóm đối tượng áp dụng đặc thù như lao động di cư đến làm việc tại các khu công nghiệp. Mặc dù nội dung của Hiến pháp, Luật pháp và Pháp lệnh đều không có những quy định thể hiện sự phân biệt đối xử với lao động nhập cư đến làm việc tại các khu công nghiệp, nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, Pháp lệnh của Chính phủ, bộ, ngành liên quan tới một số vấn đề cụ thể như hộ khẩu, hộ tịch, đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, chăm sóc sức khoẻ và khám chữa bệnh, giáo dục (nhập học và tuyển sinh vào các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học), vay vốn tạo việc làm và sản xuất kinh doanh của hộ gia đình, mua và trao đổi nhà ở thành phố, mắc điện, mắc nước… đã đưa ra một số điều kiện và thủ tục ràng buộc quá chặt chẽ (đặc biệt là yêu cầu phải có hộ khẩu thường trú hoặc có đăng ký tạm trú dài hạn), vì vậy, người dân, mà chủ yếu là người lao động nhập cư khó có thể thụ hưởng một cách toàn vẹn các quyền cơ bản của họ bao gồm: quyền tư do đi lại; quyền được chăm sóc y tế và bảo vệ sức khoẻ; quyền được học tập và phát triển trí tuệ; quyền có việc làm của người lao động; quyền có chỗ ở và sở hữu tài sản hợp pháp, của cải để dành; quyền thụ hưởng các dịch vụ kinh tế - xã hội. Đối với người lao động nhập cư, vấn đề quan trọng là việc đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố, nhưng việc này rất khó khăn, nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người lao động nhập cư, gây trở ngại đối với họ trong việc hưởng các quyền cơ bản trong hiến pháp quy định của công dân, trong đó có quyền lợi về nhà ở. Những nguyên nhân của các thực trạng về nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam như trên. Có thể nói thực trạng về nhà ở của công nhân tại các KCN, KCX hiện nay đang có tình trạng cung không đáp ứng đủ cầu cả về số lượng và chất lượng. Cung về nhà ở thì có hạn mà cầu thì ngày càng gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển của các KCN, KCX. Có thể tựu chung lại thực trạng trên là do những nguyên nhân sau: Các cơ chế chính sách của nhà nước còn chưa đồng bộ và chưa đầy đủ. Xét ở tầm vĩ mô ta thấy, số lượng lao động trong các KCN, KCX tăng nhanh nhưng quy hoạch phát triển KCN chưa tính tới yêu cầu về chỗ ở của công nhân. Khi lập các dự án đầu tư xây dựng các KCN, KCX, các chủ dự án đầu tư hầu như không quan tâm đến việc xây dựng nhà ở cho công nhân. Cho đến khi tất cả đã xong xuôi, cơ sở hạ tầng đã hoàn thành thì vấn đề nhà ở cho công nhân mới trở nên bức xúc. Thời gian qua chúng ta chưa có những chính sách đồng bộ về đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân nhất là trong cơ chế thị trường không thể chỉ dựa vào vấn đề đầu tư từ ngân sách Nhà nước như thời bao cấp nhưng cũng không thể thả nổi cho doanh nghiệp và người công nhân Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng đã có những tìm tòi, vận dụng nhưng hiện vẫn chưa có một cơ chế chính sách nào có thể vận dụng chung để giải quyết tương đối hiệu quả vấn đề nhà ở cho công nhân các KCN, KCX từ khía cạnh doanh nghiệp. Sự quan tâm của các địa phương tới vấn đề phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam còn chưa đúng mức. Đứng trên quan điểm về quản lý nhà nước, việc đặt vấn đề xây dựng nhà cho lao động trong các KCN, KCX phải là nhiệm vụ của cấp chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh. Việc quy hoạch, hình thành, xây dựng và phát triển các KCN, KCX là do nhu cầu và đề xuất của các chính quyền cấp tỉnh. Tuy nhiên đến nay các cấp chính quyền địa phương còn chưa có những động thái cụ thể trong vấn đề này. Hiện nay, chỉ có những tỉnh, thành phố có mật độ KCN, KCX với số lao động lớn mới có những động thái cụ thể. Đồng thời từ phía các cơ quan Trung ương cũng chưa có được những giải pháp, những cơ chế đủ để giải quyết vấn đề này. Chẳng hạn, khi trình phê duyệt các quy hoạch KCN, KCX, hầu như luôn kèm những phương án phát triển những khu tái định cư, khu nhà ở cho công nhân. Bên cạnh đó, khi KCN, KCX được phê duyệt thì động thái tiếp theo của chính quyền cấp tỉnh về phát triển khu nhà ở cho công nhân hầu như không được triển khai. Công tác quy hoạch còn nhiều bất cập. Các KCN, KCX ở nước ta đã phát triển với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát triển của các đô thị. Việc đầu tư cho phát triển đô thị ít hơn phát triển công nghiệp, nhất là các hạ tầng khung cho đô thị có tiềm năng phát triển trong tương lai. Quy hoạch đô thị và phát triển các KCN, KCX chưa nắm bắt kịp những xu thế mới của tiến trình đô thị hoá, CNH- HĐH và những lợi thế về mặt địa điểm đã dẫn đến những ý tưởng thiếu thực tế và vì vậy không đáp ứng được thực tiễn phát triển. Bên cạnh đó, tính cạnh tranh quyết liệt trong thu hút đầu tư đã dẫn tới tình trạng thiếu phối hợp giữa các địa phương và giữa các cấp các ngành trong các chính sách phát triển kinh tế nói chung cũng như trong lĩnh vực công nghiệp và đô thị nói riêng. Cơ sở hạ tầng yếu kém. Phát triển công nghiệp thường kéo theo gia tăng dân số cơ học tại các đô thị. Thực tế đó cũng đặt ra bài toán đối với các địa phương về khả năng đáp ứng được về cơ sở hạ tầng. Hiện nay hệ thống hạ tầng kĩ thuật chủ yếu là tập trung tại nơi có mật độ dân cư cao, khu vực trung tâm và các đô thị hay bên trong các KCN trung tâm. Nếu như cơ sở hạ tầng được xây dựng để phục vụ cho các KCN, KCX và các vấn đề xã hội khác thì cũng gặp phải những vấn đề khó khăn về ngân sách, hạn chế về công tác đền bù, giải tỏa, việc xây dựng hàng rào bên trong và hàng rào bên ngoài dự án cũng chưa thể kịp để đáp ứng tiến độ của dự án. Có nhiều nơi mạng lưới giao thông bên ngoài các KCN, KCX cụm công nghiệp chưa phát triển mạnh gây nên tình trạng khó khăn trở ngại cho việc liên hệ giữa các đô thị với các KCN và các vùng lân cận khác. Có một xu hướng chung là hệ thống giao thông công cộng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, ngay cả ở những thành phố lớn thì tỷ lệ này cũng không phải là cao. Điều này khiến cho tình trạng ách tắc giao thông rất phổ biến, mặt khác đất dành cho xây dựng hệ thống giao thông mới đạt được 5% đất đô thị. Từ đó làm cho sự tiếp cận giao lưu giữa các hoạt động vui chơi giải trí, sinh hoạt, nghỉ ngơi, kinh doanh, sản xuất trong các KCN, KCX bị hạn chế một cách nghiêm trọng. Ngoài hệ thống giao thông, thì việc cung cấp điện nước cho các đô thị, các KCN, KCX cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của công nhân. Việc cung cấp điện nước cho các khu đô thị, KCN, KCX hiện nay chưa có quy hoạch và kế hoạch khai thác cân đối và hợp lý, quá trình thực hiện còn nhiều chậm trễ đã ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các doanh nghiệp KCN, KCX cũng như khả năng thu hút đầu tư vào KCN nói chung và lĩnh vực nhà ở cho công nhân tại các KCX, KCX nói riêng. Nguồn vốn và quỹ đất dành cho xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam còn thiếu thốn. Vấn đề xây dựng nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX ở Việt Nam hiện nay đang lâm vào tình trạng khó khăn như trên không thể không nói đến một nguyên nhân rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đầu tư xây dựng đó là nguồn vốn và quỹ đất dành cho xây dựng. Xuất phát từ việc không có đủ cơ chế, chính sách chỉ đạo triển khai là việc hiện quỹ đất để có thể hình thành và xây dựng các khu nhà cho lao động các KCN đang thiếu thốn nhiều. Để có thể tạo ra các quỹ này thì công tác giải phóng mặt bằng phải được triển khai đồng bộ. Tuy nhiên khi đó vấn đề đặt ra sẽ là chi phí giải phóng mặt bằng sẽ rất cao vì khi KCN đã và đang trong giai đoạn hình thành thì sẽ kéo theo giá đất xung quanh các KCN, KCX bị đẩy lên rất cao. Có thể lấy một ví dụ như KCN Sông Công, hiện rất khó có thể tạo được quỹ đất để phục vụ cho lao động trong KCN. Hoặc như KCN Tân Bình, đất xung quanh hiện đã là đất đô thị nên quỹ đất để có được là cả một vấn đề khó khăn. Về phía nhà nước nói chung và các địa phương nói riêng thì cơ chế chính sách không công bằng giữa những nhà đầu tư cho KCN, KCX và những nhà đầu tư cho khu dân cư. Trong khi đầu tư cho KCN, KCX được ưu tiên giải phóng mặt bằng thì nhiều địa phương lại gần như bỏ mặc nhà đầu tư cho xây dựng khu dân cư khiến cho họ phải đối mặt với những thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng rất nhiêu khê, phiền toái. Bên cạnh đó, thiếu vốn cũng là một nguyên nhân làm cho vấn đề nhà ở cho công nhân gặp khá nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng cung cầu bất hợp lý như đã nêu trên. Thứ nhất, chúng ta chưa có chủ trương hình thành quỹ tài chính cho xây dựng nhà ở công nhân tại các KCN, KCX. Thứ hai, chúng ta vẫn coi như đặt chung vấn đề nhà ở cho lao động trong các KCN vào với vấn đề nhà ở xã hội, vì vậy không tạo được quỹ riêng cho vấn đề này. Thứ ba là chưa có một nguồn tài chính cơ sở nào từ những cơ quan hữu quan cho vấn đề này. Trong khi đó tất cả các chủ thể có liên quan đều cho rằng cần phải có một quỹ hỗ trợ cho vấn đề nhà ở công nhân này. Ba nguyên nhân trên chính là những nhân tố làm cho nguồn tài chính dành cho việc xây dựng nhà ở công nhân tại các KCN, KCX hiện nay rơi vào tình trạng thiếu thốn lớn. Ông Võ Thanh Hùng, Trưởng BQL KCX-KCN Cần Thơ cho biết, khó khăn lớn nhất trong triển khai xây dựng nhà ở công nhân vẫn là mặt bằng. Bên cạnh đó, hiện chưa có chính sách ưu đãi đặt biệt cho dự án nhà ở công nhân, hỗ trợ công nhân mua nhà, nên khi kêu gọi đầu tư thì hầu như các nhà đầu tư đều bỏ chạy, vì dự án nhà ở công nhân kém sinh lợi và thu hồi vốn chậm. Những cơ chế chính sách của nhà nước ta về việc phát triển nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX. Các cơ chế chính sách đã được áp dụng. Ở Việt Nam các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa chú trọng giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân tại các KCN, KCX. Đến thời điểm hiện nay thì Nhà nước ta chưa có chính sách ưu đãi rõ ràng cho công tác xây dựng nhà ở cho các đối tượng này. Có ba nghị định liên quan đến vấn đề trên đó là: Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của chính phủ đã quy định “Việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, có tính đến đầu mối kỹ thuật ngoài KCN, khu dân cư phục vụ công nhân, lao động làm việc tại các KCN; các trường học, cơ sở khám ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam - Thực trạng và Giải pháp.doc
Tài liệu liên quan