Chuyên đề Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của Cách Mạng Việt nam

Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh rất thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và các lực lượng dân chủ `thế giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai đã tan rã, Đảng ta đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng.

 Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua ba cao trào cách mạng rộng lớn: Cao trào 1930-1931, Cao trào 1936-1939 và Cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939-1945. Quần chúng cách mạng đã được Đảng tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh đã trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

 Đảng ta đã chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của Cách Mạng Việt nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đường chủ nghĩa xã hội. Với chuyên đề " Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của Cách Mạng Việt nam" em xin trình bày các vấn đề sau: A. Lời mở đầu. B. Nội dung: I. Cách mạng Việt nam trước khi Đảng Cộng Sản Việt nam ra đời. II. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản. 1. Đảng Cộng Sản Việt nam ra đời. 2. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của Cách mạng Việt nam . III. Những thắng lợi cụ thể của CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng. 1. Cách mạng tháng 8 thành công 2. Bảo vệ chính quyền non trẻ 3. Kháng chiến chống Mỹ thành công 4. Công cuộc đổi mới thành công C. Kết luận Vì thời gian có hạn nên bài tập của em khó tránh khỏi thiếu sót và hạn chế nhất định. Kính mong cô sửa đổi, bổ sung thêm để bài tập của em được hoàn chỉnh hơn và hiểu biết của em về Đảng Cộng Sản Việt nam được đâỳ đủ hơn. B. Nội dung I. Cách mạng Việt nam trước khi Đảng Cộng Sản ra đời - Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp công nhân Việt nam đã thực hiện các cuộc đấu tranh chống lại chế độ bóc lột tàn bạo của tư sản thực dân Pháp, với những hình thức đấu tranh ban đầu như: bỏ trốn tập thể, đập phá máy móc.... đến những hình thức đấu tranh đình công, bãi công v.v... - Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, lực lượng công nhân phát triển đông đảo và tập trung hơn, các cuộc đấu tranh cũng nổ ra liên tiếp, mạnh mẽ ở các vùng trung tâm công nghiệp như Hà Nội, Sài Gòn... - Từ năm 1925, nhờ sự xuất hiện và tăng cường hoạt động của Hội Việt nam cách mạng thanh niên, các tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa cộng sản đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy phong trào công nhân ngày càng phát triển và chuyển biến nhanh chóng về chất, từ tự phát đến tự giác - Từ năm 1928, phong trào "vô sản hoá" của Hội Việt nam cách mạng thanh niên đã có tác dụng thúc đẩy và nâng cao nhanh chóng ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Vì vậy phong tào công nhân đã nổ ra mạnh mẽ sôi nổi đều khắp ba kỳ. - Tháng 7-1929, Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ được thành lập. Tổng công hội đỏ đã đề ra chương trình điều lệ và quyết định xuất bản tờ Lao động làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện đó vừa thể hiện bước trưởng thành của phong trào công nhân, vừa tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức, có sự lãnh đạo thống nhất. - Cùng với các cuộc đấu tranh ngày càng trở nên quyết liệt, giai cấp công nhân còn có nhiều hoạt động thể hiện tinh thần cách mang, ý thức Quốc tế của mình. Trong các dịp kỷ niệm ngày quốc tế Lao động (1-5-1929) và Cách mạng tháng Mười nga (7-11-1929), công nhân nhiều nơi đã tổ chức mít tinh, treo cờ đỏ, rải truyền đơn tuyên truyền cách mạng. - Sự phát triển mãnh mẽ của phong trào công nhân ngày càng có sức thu hút, lôi cuốn mãnh mẽ nhiều tầng lớp nhân dân khác, nhất là nông dân đi vào cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Từ năm 1927 đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng...Điển hình là các cuộc đấu tranh của nông dân Bình Giang, Thanh Hà, Vĩnh Bảo , Tứ Kỳ (Hải Dương): Kiến Thuỵ (Kiến An): Tam Sơn (Bắc Ninh)v.v... Phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân và tầng lớp thị dân càng phát triển sôi nổi đòi hỏi phải có người tổ chức và lãnh đạo. Nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng dân tộc và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng đất nước được đặt ra và ngày càng trở nên bức xúc đối với cách mạng Việt nam lúc bấy giờ. II. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt nam. 1. Đảng Cộng Sản Việt nam ra đời 1.1.Điều kiện lịch sử dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam: Từ nửa đầu thế kỷ 19, các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây phần lớn đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp, nền kinh tế có những bước phát triển lớn mạnh, yêu cầu đòi hỏi về thị trường tiêu thụ và cung cấp nguồn nguyên liệu hàng hoá tăng cao, dẫn đến việc đi xâm chiếm các nước kém phát triển. Tại đây, chúng thực hiện chế độ áp bức bóc lột hết sức hà khắc, gây nên mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa và các nước đế quốc ngày càng sâu sắc. Vào giữa thế kỷ 19, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc tiến công vào cảng Đà Nẵng. Sau khi thực hiện việc xâm lược và bình định vũ trang, thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước ta, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của chính quốc. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương là chuyên chế về chính trị, kìm hãm và nô dịch về văn hoá, bóc lột nặng nề về kinh tế, nhằm đem lại lợi ích tối đa cho bọn tư bản lũng đoạn Pháp. Dưới chế độ đó, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề, đời sống của nhân dân bị cùng cực hoá, làm cho mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng người dân với bọn phong kiến cũ không mất đi mà còn xuất hiện thêm mâu thuẫn mới toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn thực dân Pháp. Lịch sử đòi hỏi cần phải giải quyết những mâu thuẫn đó. Vào đầu thế kỷ 20, phong trào dân tộc ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện, hoạt động theo khuynh hướng dân chủ tư sản mang màu sắc và mức độ khác nhau như các phong trào Đông Du do nhà yêu nước Phan Bội Châu lãnh đạo, hay như phong trào Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy tân do cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo, đồng thời nhiều tổ chức chính trị của giai cấp tiểu tư sản trí thức cũng được thành lập. Tất cả đều hoạt động theo một mục đích thống nhất đem lại độc lập cho dân tộc tuy theo các đường lối chủ trương khác nhau. Tuy các phong trào đều thất bại, nhưng sự xuất hiện của các tổ chức này là sự thể hiện tinh thần yêu nước của dân tộc ta đã có từ ngàn đời nay. Song song với sự phát triển của các phong trào yêu nước và dân chủ theo khuynh hướng tư sản và tiểu tư sản, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại sự bóc lột của bọn chủ thực dân lần lượt diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình là biểu tình,bãi công. Từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lực lượng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, các phong trào đấu tranh chống lại sự bóc lột của bọn thống trị nổ ra ở khắp nơi từ Sài Gòn Chợ Lớn cho đến Hà Nội, Nam Định. Trong các cuộc đấu tranh của mình, giai cấp công nhân đã nêu lên các yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm. Các cuộc đấu tranh đã bắt đầu có tổ chức hơn. Song nhìn chung, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn còn mang tính tự phát, chưa trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong phong trào dân tộc, trong khi đó phong trào dân tộc Việt Nam vẫn còn đang bị bế tắc, chưa tìm được con đường đi đến thắng lợi. Giữa lúc đó, Hồ Chí Minh với tên gọi là Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc vào ngày 5/6/1911 để ra đi tìm đường cứu nước. Trên còn đường bôn ba khắp năm châu bốn bể, người đã để tâm nghiên cứu lí luận và kinh nghiệm của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như các cuộc cách mạng của Pháp và của Mỹ.Theo người cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ hay các cuộc cách mạng tư sản là các cuộc cách mạng không đến nơi, không giải phóng nhân dân lao động. Giữa lúc đang hoạt động sôi nổi để tìm ra con đường cho cách mạng Việt Nam, thì cuộc cách mạng tháng 10 Nga (1917) bùng nổ và giành được thắng lợi gây chấn động địa cầu. Hồ Chí Minh đã hướng tới con đường của cách mạng tháng Mười. Tháng 7-1920, bản sơ thảo lần thứ nhất đề cương về vấn đề dân tộc, vấn đề thuộc địa của V.I.Lê nin đến với Nguời. Bản đề cương đó chỉ cho Người, cho cả đồng bào bị áp bức bóc lột của Người con đường tự giải phóng, con đường giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào- đó là con đường tiến hành cuộc cách mạng vô sản.Để làm được cách mạng vô sản thì giai cấp vô sản hay chính là giai cấp công nhân phải có một tổ chức Đảng lãnh đạo -đó chính là Đảng cộng sản. 1.2. Nền tảng lí luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam: Nhận thức rõ chủ nghĩa Mác-Lê nin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã làm rõ vai trò của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay là lật đổ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới-xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân Việt Nam mặc dù ít về số lượng, trình độ văn hoá khoa học kĩ thuật còn thấp nhưng vẫn là giai cấp cách mạng nhất. Trong xu thế thời đại, họ có đủ khả năng để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng của mình. Thông qua việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam, người đã chỉ rõ con đường, mục tiêu phương hướng cũng như phương pháp cách mạng mà giai cấp công nhân Việt Nam phải tiến hành. những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cơ sở lí luận cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở tư tưởng lí luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ba tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, đó là Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn lần lượt ra đời chỉ trong vòng không đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1929. Cả ba tổ chức Đảng đều hoạt động trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Song sự tồn tại ba Đảng hoạt động biệt lập có nguy cơ dẫn đến một sự chia rẽ lớn, yêu cầu đặt ra là phải thống nhất ba tổ chức Đảng thành một Đảng cộng sản thống nhất trong cả nước. Ngày 3/2/1930, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã hoàn thành việc thống nhất thành một chính Đảng duy nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. 2. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt nam. - Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phát huy truyền thống chống xâm lược của dân tộc, các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản chống Pháp rất sôi nổi. Nhưng rút cuộc các phong trào đó đều thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là các giai cấp lãnh đạo hoặc không đủ tư cách, hoặc đã hết vai trò lịch sử. - Đầu năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt nam ra đời, đánh dấu bc ngoặt lịch sử vĩ đại của Cách mạng Việt nam. Đảng ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước, chấm dứt thời kỳ đấu tranh tự phát, chuyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác của giai cấp công nhân. Đảng ra đời, chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành và đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt nam, mở ra thời kỳ cách mạng Việt nam đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt nam có đường lối đúng đắn và khoa học, phù hợp với quy luật của Cách mạng nước ta trong thời đại mới. - Trong lịch sử đấu tranh hơn 60 năm qua của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng nước ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn có ý nghiã chiến lược và ý nghĩa thời đại sâu sắc: + Vừa mới ra đời, Đảng ta phát động được Cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô- Viết Nghệ Tĩnh. + Thoát ra khỏi thời kỳ thoái trào của cách mạng những năm 1932-1935, Đảng lãnh đạ nhân dân ta phát động được Cao trào vận động dân chủ 1936-1939, đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống phát-xít, chống chiến tranh. + Đảng lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc trong những năm 1939-1945, làm Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, đập tan ách thống trị hơn 80 năm của thực dân Pháp và xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta. Thắng lợi này đã đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do. + Đảng lãnh đạo nhân dân ta chống thù trong, giặc ngoài, khắc phục khó khăn của đất nước để giữ vững và củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng miền Bắc. + Từ năm 1954 đến năm 1975, nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn ở miền bắc và đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất Tổ quốc. + Từ năm 1975 đến nay, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng, nhân dân ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghiã, đặc biệt là những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. - Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược trên đây của cách mạng nước ta đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta đứng ở trung tâm các sự kiện lịch sử vĩ đại của cách mạng và thực sự là nhân tố cơ bản lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt nam. Bởi vì: + Đảng Cộng Sản Việt nam là đội tiên phong có tổ chức và tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt nam. + Đảng lấy chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng nhằm giải quyết kịp thời và đúng dắn những vấn đề về chiến lược, sách lược của cách mạng nước ta. + Đảng là người đại diện trung thành và đầy đủ nhất lợi ích sốn còn và nguyện vọng chân chính của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt nam. Đảng lấy phục vụ Tổ quốc phục vụ nhân dân làm mục đích cao nhất của mình. + Đảng có truyền thống đoàn kết thống nhất, kỷ luật nghiêm minh, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, nhằm phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, đoàn kết thống nhất toàn Đảng, chống tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, chia rẽ bè phái trong Đảng. + Đảng có mối liên hệ máu thịt với quần chúng. Đây là tiêu chuẩn cơ bản của một Đảng cách mạng chân chính. Đảng kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa trong sáng, tích cực ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập, tự do và tiến bộ của nhân dân các nước trên thế giới. - Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, cách mạng nước ta còn rất nhiều khó khăn và tồn tại, nhất là trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1975 đến nay. Đảng ta tự kiểm điểm là đã phạm những sai lầm khuyết điểm chủ quan, nóng vội, duy ý chí, đặc biệt là trong việc xác định chủ trương, đường lối và cả trong công tác xây dựng Đảng. những sai lầm và khuyết điểm trên dã kéo dài và chậm sửa chữa, làm cho vai trò lãnh đạo của Đảng bị suy yếu, lòng tin của quần chúng đối với Đảng bị giảm sút so với trước. - Giai đoạn cách mạng hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn về mọi mặt cho ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng hiện nay. + Đảng phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, có căn cứ khoa học, phù hợp với thực tiễn nước ta. Đay là vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất và cũng là lý do tồn tại của Đảng. + Phải phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng. + Cần đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay. + Làm trong sạch đội ngũ đảng viên, củng cố và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. + Đổi mới công tác cán bộ của Đảng, vì "cán bộ là cái gốc của mọi công việc... công việc thành công hay thát bại đều do cán bộ tốt hay kém". III. Những thắng lợi cụ thể của CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng 1. Đảng lãnh đạo Cách Mạng Tháng Tám thành công. Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh rất thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và các lực lượng dân chủ `thế giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai đã tan rã, Đảng ta đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng. Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được rèn luyện qua ba cao trào cách mạng rộng lớn: Cao trào 1930-1931, Cao trào 1936-1939 và Cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939-1945. Quần chúng cách mạng đã được Đảng tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện bằng thực tiễn đấu tranh đã trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Đảng ta đã chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng là người tổ chức và lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám, vì Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, nắm đúng thời cơ và chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo, tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo kẻ thù. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. 2. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện những biện pháp bảo vệ các mạng những năm 1945-1946. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cách mạng Việt nam đứng trước những khó khăn, thử thách cực kỳ nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực: về quân sự, về kinh tế- tài chính và về văn hoá. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã: 1.1 Thực hiện tăng cường khối đoàn kết toàn dân, củng cố chế độ mới - Về chính trị: Đã khẩn trương tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước vào ngày 6-1-1946 bầu Quốc hội, bầu hội đồng nhân dân các cấp; xây dựng Hiến pháp nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Mặt trận dân tộc thống nhất đã được tiếp tục mở rộng. Các tổ chức quần chúng được củng cố và mở rộng. Tổng Liên đoàn lãnh đạo Việt nam. Hội liên hiệp Phụ nữ Việt nam lần lượt ra đời. Đảng xã hội Việt nam được thành lập nhằm đoàn kết những trí thức yêu nước phục vụ chính quyền mới. - Về quân sự: Đảng coi trọng xây dựng và phát triển công cụ bạo lực của cách mạng như công an, bộ đội. Cuối năm 1946 lực lượng quân đội thường trực lên tới 8 vạn . Việc vũ trang cho quần chúng được thực hiện rộng khắp. Hầu hết các thôn xã, khu phố đều đã có đội tự vệ. - Về kinh tế, tài chính: Đảng và chính phủ đã quyết địn đẩy mạnh tăng gia sản xuất, bãi bỏ thuế thân, tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân nghèo, thực hiện giảm tô 25%. Huy động nhân dân đóng góp cho " quỹ độc lập" hàng chục triệu đồng, cho "tuần lễ vàng" hàng trăm kilôgam vàng, từng bước xây dựng tài chính độc lập. - Về văn hoá giáo dục: Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá mới, xoá bỏ tệ nạn văn hoá nô dịch, lạc hậu, phát triển phong trào bình dân học vụ, chống nạn mù chữ. Trong vòng một năm, đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Những thành tựu nói trên tạo nên sức mạnh để bảo vệ chính qyền cách mạng, bảo vệ quyền lãnh đạo của Đảng, chống thù trong, giặc ngoài. 2.2. Thực hiện sách lược lợi dụng mâu thuẫn nội bộ kẻ thù để phân hóa chúng, khôn khéo tránh tình thế phải đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc. - Sách lược hoà hoãn với Tưởng ở miền Bắc để tập trung chống thực dân Pháp ở miền Nam (9-1945 - 6-3-1946). Đảng đã nhân nhượng có nguyên tắc với quân Tưởng trên một số vấn đềkte, chính tị, quân sự nhờ vậy, Đảng ta đã làm thất bại âm mưu khiêu khích của Tưởng, vô hiệu hoá hoạt động chống phá của bọn tay sai, tập trung chống thực dân Pháp ở miền Nam. - Sách lược tạm hoà với Pháp để đuổi Tưởng về nước. Ngày 26-2-1846, Hiệp ước Hoa- Pháp được ký kết, quân đội Pháp ra thay thế quân Tưởng ở miền Bắc và Pháp phải nhượng cho Tưởng một số quyền lợi, đặt cách mạng nước ta trước hoàn cảnh mới phức tạp. Đảng đã chọn giải pháp tạm thời hoà hoãn với Pháp để đuổi nhanh quân Tưởng ra khỏi đất nước, tranh thủ thời gian hoà hoãn để chuẩn bị lực lượng kháng chiến chống Pháp về sau. Ngày 6-3-1946, Chính phủ ta đã ký kết với Chính phủ Pháp bản " Hiệp định sơ bộ" đặt cơ sở để đi đến cuộc đàm phán để ký kết một hiệp định chính thức. Nhằm tranh thủ thời gian tiếp tục xây dựng lực lượng cho cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14-9-1946 Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14-9-1946 Chủ trương thương lượng ký các hiệp định với Pháp là cần thiết và đúng đắn, đã đưa cách mạng Việt nam vượt qua những khó khăn nghiêm trọng, bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám và chuẩn bị điều kiện bước vào cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. 3. Sự lãnh dạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng (7-1973) đã phân tích một cách sâu sắc tình hình cách mạng miền Nam từ sau ngày ký Hiệp định Pari và đề ra tư tưởng chỉ đạo sắc bén là "bất kỳ trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Nhiệm vụ giành dân, giành chính quyền làm chủ phát triển thực lực cách mạng là yêu cầu bức thiết, cơ bản trong giai đoạn mới, nhằm đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, chuẩn bị tiến lên hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hội nghị Bộ chính trị (từ 30-9 đến 7-10-1974) và Hội nghị Bộ chính trị mở rộng (từ 18-12-1974 đến 8-1-1975) đã bàn kế hoạch giải phóng toàn miền nam. Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng đã nhận định: chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc". Ngày 10-3-1975 quân dân ta tiến công thị xã Buôn Mê Thuật, tiến lên giải phóng Tây Nguyên và tiếp đó, ngày 26-3-1975 giải phóng Huế và Đã Nẵng. Ngày 14-4-1975 Bộ chính trị quyết định lấy tên chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn và cả Nam Bộ là Chiến dịch Hồ Chí Minh và lập Bộ chỉ huy chiến dịch trong đó có ba đồng chí Uỷ viên Bộ CHính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Từ 17 giờ ngày 26-4-1975, 5 quân đoàn chủ lực của ta mở đợt Tổng công kích vào khu vực Sài Gòn- Gia Định. 17 giờ 36 phút ngày 28-4-1975, không quân ta tiến công sân bay Tân Sơn Nhất làm tê liệt sân bay và làm náo động thành phố Sài Gòn. Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ họp khẩn cấp quyết định di tản cấp tốc sứ quán và nhân viên quân sự, dân sự Mỹ còn lại ra khỏi miền Nam nước ta. Đêm 28 rạng 29-4-1975, tất cả các cánh quân của ta được lệnh đồng loạt tổng công kích vào trung tâm thành phố chiếm tất cả các cơ quan đầu não của địch. 9 giờ 30 phút ngày 30-4-1875, Dương Văn Minh vừa lên làm Tổng thống nguỵ ngày 28-4, kêu gọi "ngừng bắn để điều đình giáo chính quyền" nhằm cứu quân nguỵ khỏi sụp đổ. 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của ta tiến thẳng vào dinh "Độc lập" bắt sống toàn bộ nguỵ quyền Trung ương, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn, báo hiệu sự toàn thắng của Chiến dịch hồ Chí Minh lịch sử. Thừa thắng sau giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại ở Nam Bộ nhất tề đứng lên tiến công và nổi dậy theo phương thức " xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh". Đến ngày 2-5-1975, Nam Bộ và miền Nam nước ta hoàn toàn được giải phóng Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đội tiên phong dày dạn của giai cấp công nhân Việt nam, người đại biểu trung thành và đầy đủ những lợi ích sống còn, những nguyện vọng sâu xa và chính đáng của nhân dân Việt nam và của cả dân tộc Việt nam, người kết hợp nhuần nhuyễn và thành công khoa học cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mac- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với nghị lực chiến đấu phi thường và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta, với những tinh hoa trong truyền thống bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt nam ta. 4. Công cuộc đổi mới thành công của Đảng Với đường lối đổi mới toàn diện từ Đại hội VI, đã phát huy tinh thần dân tộc, tự chủ, tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, của các cấp các ngành, hợp quy luật, thuận lòng người nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Trong quá trình đổi mới, đặc biệt là vào những thời điểm có tính bước ngoặt, Đảng ta có những quyết sách rất quan trọng. Đó là những kết luận kịp thời của Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) khẳng định 5 nguyên tắc của công cuộc đổi mới: kiên quyết bác bỏ mầm mống đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, chỉ rõ thời cơ và nguy cơ, xác định nhiệm vụ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nhiều nghị quyết, quyết định lớn khác của Đảng và Nhà nước đã cụ thể hoá, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới trên hầu hết các lĩnh vực. Với những quyết định đúng đắn ấy, toàn Đảng, toàn dân ta đã vượt qua khó khăn trở ngại, đưa công cuộc đổi mới đến thắng lợi và đạt được những thành tựu như hôm nay. C. Kết luận Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, đã đánh dấu bước ngoặt trọng đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng cứu nước kéo dài mấy thập kỷ. Từ đây cách mạng Việt Nam đã có sự lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam, một Đảng mác- xít Lê- nin- nít kiên cường, có đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, đã phát triển với những bước đi kiên cường vững chắc, đủ sức đương đầu với mọi kẻ thù. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là người sáng lập ra Đảng, có công truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam. Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lại tiếp tục lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện vai trò của một tổ chức tiên phong trong công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giầu đẹp hơn. Với tư cách là một sinh viên trong thời kì đất nước đã được độc lập tự do, em cảm thấy tự hào về một tổ chức Đảng lãnh đạo, một Đảng đã đưa đất nước thoát ra khỏi đêm trường nô lệ, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Bằng các đường lối chính sách của mình, Đảng đang hướng đất nước Việt Nam tới một tương lai tươi sáng hơn, hướng tới một xã hội chủ nghĩa toàn diện. Trong điều kiện hiện nay, khi mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Â

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29384.doc
Tài liệu liên quan