Chuyên đề Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1

DANH MỤC CÁC BẢNG 2

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ 3

MỞ ĐẦU 4

PHẦN 1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI 6

I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI 6

1. Khái niệm và đặc điểm quản lý nhà nước 6

a. Khái niệm quản lý nhà nước 6

b. Đặc điểm quản lý nhà nước 8

c. Cơ cấu hệ thống và các yếu tố tạo nên hoạt động quản lý nhà nước 9

2. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm xã hội 11

a. Khái niệm về bảo hiểm xã hội 11

b. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội 12

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm xã hội 13

a. Sự phát triển của nền kinh tế 13

b. Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước 14

c. Người sử dụng lao động 14

d. Nhận thức của người lao động 15

4. Quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội. 15

a. Quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH. 15

b. Đặc điểm quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội 16

II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI 17

1. Xuất phát từ đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 17

2. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân 18

3. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực 19

III. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI 19

1. Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội 19

2. Tổ chức và hoàn thiện bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội 21

3. Nhà nước tổ chức quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội 21

a. Xây dựng chiến lược, chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội. 21

b. Thực hiện áp dụng hệ thống các biện pháp nhằm quản lý hoạt động BHXH 23

4. Nhà nước thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH 25

5. Công cụ quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội 26

IV. KINH NGHIỆM VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI 27

PHẦN 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 29

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM. 29

II. XÁC ĐỊNH CÁC CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ TRONG QUẢN LÝ BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 32

1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội 32

2. Đối tượng quản lý trong bảo hiểm xã hội 35

III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI 36

1. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội. 36

2. Thực trạng tổ chức quản lý và thực hiện chính sách của nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội trong những năm qua 40

a. Quản lý và ngày càng mở rộng đối tượng áp dụng: Đối tượng áp dụng được quy định ở điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 41

b. Quản lý và phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội 44

3. Thực trạng thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH; Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH. 51

4. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội 52

PHẦN 3 GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 57

I. QUAN ĐIỂM VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 57

1. Nhận thức về vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH, quản lý phát triển BHXH 58

2. Đổi mới và hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý hoạt động BHXH, hoàn thiện mô hình tổ chức bên trong của BHXH Việt Nam trên cơ sở đảm bảo tính kế thừa và phát triển, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thế giới. 59

3. Quản lý chặt chẽ nhằm bảo toàn và phát triển quỹ BHXH trong khuôn khổ pháp luật và rủi ro nhỏ nhất. Đảm bảo quỹ luôn tăng trưởng và làm yên lòng người tham gia BHXH. 59

4. Thực hiện quản lý chặt chẽ các chế độ BHXH bắt buộc theo quy định của Luật BHXH, triển khai kịp thời và quản lý có hiệu quả chế độ BHXH thất nghiệp, chế độ BHXH tự nguyện. 59

II. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BHXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 59

1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đối với BHXH bắt buộc đồng thời xây dựng và hoàn thiện Luật BHXH Thất nghiệp và BHXH Tự nguyện. 59

2. Tiếp tục mở rộng và tăng cường quản lý có hiệu quả đối tượng tham gia BHXH trong thời gian tới. 60

3. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động quản lý và phát triển quỹ BHXH 61

a. Hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH phù hợp với từng loại đối tượng tham gia BHXH. 62

b. Nâng cao hiệu quả công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH 63

c. Tăng cường công tác quản lý chi BHXH 64

d. Tăng cường phát triển quỹ BHXH 64

4. Hoàn thiện tổ chưc bộ máy, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH, công tác quản lý và theo dõi hoạt động BHXH ở cơ sở. 65

5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra và sử lý vi phạm Luật BHXH. 66

6. Ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý. 67

KẾT LUẬN 69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70

 

 

doc76 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5826 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM. Cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự ra đời của BHXH Việt Nam là bản Hiến pháp năm 1946. Điều 14 Hiến pháp 1946 khẳng định: “ Những người công nhân già cả hoặc tàn tật không làm việc được thì được giúp đỡ”. Chính phủ đã ban hành các sắc lệnh quy định về các chế độ trợ cấp BHXH như: Sắc lệnh số 20/SL ngày 16 tháng 2 năm 1947 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quy định về chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ đối với những quân nhân cấp bấc binh, sĩ, uý, tá và tướng thuộc các nghành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Sắc lệnh số29 /SL ngày 12 tháng 3 năm 1947 quy định về các quan hệ làm công. Sắc lệnh số 70/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 về quy chế công chức Việt Nam. Sắc lệnh số 77/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 ban hành quy chế công dân. Những quy định về BHXH đầu tiên này đã đặt nền móng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật BHXH sau này. Sự phát triển của BHXH Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước là sự cụ thể hóa đướng lối, chính sách của Đảng trên phạm vi cả nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. BHXH trong thời kỳ này đã đảm bảo được điều kiện sống thiết yếu về vật chất và tinh thần cho hàng triệu công nhân, viên chức nhà nước, quân nhân và gia đình họ trong trường hợp gặp rủi ro không làm việc được, không có thu nhập hoặc khi già yếu, mất sức lao động hoặc qua đời. Chính sách BHXH đã động viên được đội ngũ công nhân, viên chức nhà nước gắn bó với với cách mạng, hăng say chiến đấu, lao động sản xuất, xây dựng đất nước. Cuộc cách mạng trong quá trình phát triển của BHXH thực sự bắt đầu từ khi Bộ Luật Lao động do Quốc hội khoá IX thông qua 23/6/1994 có hiệu lực ngày 01/01/1995 trong đó có chương IX quy định về BHXH. Tiếp đó điều lệ BHXH được ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về những nội pháp luật BHXH trong nền kinh tế đổi mới. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế và các quan hệ lao động phức tạp trong cơ chế kinh tế hội nhập ngày 29/6/2006 Luật BHXH đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, 01/01/2008 đối với BHXH tự nguyện và 01/01/2009 đối với BHXH thất nghiệp là cơ sở pháp lý cao nhất làm chỗ dựa tinh thần và vật chất cho người lao động. Hiện nay, Cơ quan quản lý cao nhất về BHXH là Chính phủ, cơ quan sự nghiệp cao nhất là Bảo hiểm xã hội Việt Nam. BHXH Việt Nam có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý Quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lí theo hệ thống dọc, tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương gồm có: - Ở Trung ương là BHXH Việt Nam. - Ở Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là BHXH tỉnh). Trực thuộc BHXH Việt Nam. - Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là BHXH huyện) trực thuộc BHXH tỉnh Sơ đồ 2: Bộ máy tổ chức BHXH Việt Nam Thủ tướng Chính phủ Hội đồng quản lý Tổng Giám đốc Các Phó Tổng Giám đốc Ban Giám định y tế Trung tâm CNTT Ban Tuyên truyền Ban Kiểm tra Ban Kế hoạch Tài chính Ban Tổ chức cán bộ Ban BHXH tự nguyện Văn phòng Ban Chế độ Chính sách Ban Chi BHXH Ban Thu BHXH Phòng Quan hệ quốc tế Ban Quản lý ĐT và XD Báo Bảo hiểm xã hội Tạp chí Bảo hiểm xã hội Trung tâm Nghiên cứu KH Trung tâm Đào tạo Trung tâm lưu trữ Bảo hiểm xã hội Thành phố Bảo hiểm xã hội Quận, Huyện, Thị xã II. XÁC ĐỊNH CÁC CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ TRONG QUẢN LÝ BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội Nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với bất kỳ lĩnh vực kinh tế - xã hội nào cần thiết phải chỉ ra chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, để từ đó thấy được đặc điểm của quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế - xã hội đó. Xét về mặt xã hội Chủ thể quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động kinh tế - xã hội là nhân dân lao động - lực lượng nắm toàn bộ quyền lực nhà nước. Điều này được quy định tại điều 2 hiến pháp năm 1992: : “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ chí thức”. Tuy nhiên việc nắm quyền lực của nhân dân phải thông qua hình thức đại diện, và như vậy sẽ có sự hiện diện của một loại chủ thể thực tế là chủ thể pháp lý. Bản thân cơ quan nhà nước không tự có quyền được mà được nhân dân uỷ nhiệm theo thẩm quyền cụ thể do pháp luật quy định. Xét dưới góc độ pháp lý Chủ thể quản lý nhà nước là nhà nước với hệ thống các cơ quan hành chính được tổ chức chặt chẽ và quy định thẩm quyền theo đúng chức năng của từng loại cơ quan đó. Cơ quan quản lý nhà nước có hai loại cơ quan: cơ quan thẩm quyền chung và cơ quan thẩm quyền riêng. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2002; Luật Tổ chức UBNH, HĐND năm 2003 (sửa đổi) và một số văn bản quy phạm pháp luật khác là cơ sở pháp lý để xác định hệ thống chủ thể quản lý trong lĩnh vực BHXH. Cơ quan có thẩm quyền chung về quản lý hoạt động BHXH là Chính phủ và UBND các cấp. Theo những quy định về thẩm quyền của Chính phủ tại chương VIII Hiến pháp năm 1992 và chương II Luật Tổ chức Chính phủ năm 2002 thì thẩm quyền của Chính phủ trong lĩnh vực BHXH là: Quyền kiến nghị lập pháp, dự thảo các văn bản luật BHXH trình quốc hội, dự thảo trình Quốc hội các chính sách lớn về BHXH; Quyền lập quy, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành các quy định pháp luật về BHXH, quyết định các chủ trương, biện pháp về tổ chức và quản lý BHXH; Quyền quản lý và điều hành các hoạt động BHXH; Quyền tổ chức, xây dựng bộ máy quản lý BHXH trong cả nước; Quyền hoạch định chính sách, quy hoạch, đào tạo, quản lý nguồn nhân lực cho BHXH; Quyền kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong quá trình tổ chức và quản lý BHXH. Như vậy, Chính phủ là chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực BHXH và tổ chức hoạt động BHXH. UBND các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm quản lý toàn diện các lĩnh vực hoạt động ở địa phương trong đó có tổ chức và chỉ đạo công tác BHXH ở địa phương theo quy định của pháp luật. Ta có thể xem UBND các cấp là loại chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH dưới góc độ chủ thể hình thức. Trong cơ cấu tổ chức hành chính nhà nước, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm được Chính phủ giao. Các bộ có chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH theo trách nhiệm quản lý nhà nước đối với nghành hoặc lĩnh vực được Chính phủ giao, cụ thể là: Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quỹ BHXH và mọi hoạt động tài chính BHXH. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực, chế độ chính sách BHXH. Bộ y tế thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực chăm sóc y tế. Căn cứ nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 01/04/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan trực thuộc chính phủ và Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy định quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam thì BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Có thể coi chủ thể BHXH Việt Nam là chủ thể đặc biệt trong lĩnh vực tổ chức và quản lý hoạt động BHXH. Theo điều 8 Luật BHXH quy định rõ cơ quan quản lý nhà nước về BHXH bao gồm: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHXH. Bộ lao động – Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về BHXH Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về BHXH trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ. Để cụ thể hoá chức năng quản lý nhà nước có Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện việc giám sát chỉ đạo trực tiếp các hoạt động của cơ quan BHXH: chỉ đạo quản lý và phát triển quỹ BHXH; thông qua dự toán và quyết toán hàng năm về thu, chi trả các chế độ, thông qua chiến lược phát triển ngành BHXH, kế hoạch dài hạn... Trong cơ cấu Hội đồng quản lý gồm đại diện lãnh đạo của Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Tóm lại, hiện nay ở nước ta chủ thể quản lý nhà nước bao gồm nhiều cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, trong đó có một cơ quan thuộc Chính phủ chuyên trách chịu trách nhiệm tổ chức và điều hành mọi hoạt động BHXH – Cơ quan BHXH Việt Nam. 2. Đối tượng quản lý trong bảo hiểm xã hội Trong BHXH đối tượng quản lý chính là các quan hệ BHXH. Quan hệ BHXH bao gồm hai nhóm quan hệ dưới đây: Quan hệ trong việc hình thành quỹ BHXH. Quan hệ trong việc hình thành quỹ BHXH chính là quan hệ đóng góp BHXH và quản lý quỹ BHXH giữa các bên tham gia BHXH và cơ quan BHXH, được điều chỉnh bởi Luật BHXH. Như vậy, chủ thể trong quan hệ này bao gồm các bên tham gia BHXH và cơ quan BHXH. Các bên tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động – chính họ là những chủ thể trong quan hệ lao động. Cơ quan BHXH là chủ thể trong quan hệ quản lý quỹ BHXH, được nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thu các nguồn đóng góp vào quỹ tài chính tập trung (quỹ BHXH) và quản lý quỹ theo quy định của nhà nước. Quan hệ trong việc chi trả các chế độ trợ cấp BHXH Quan hệ trong việc chi trả các chế độ trợ cấp BHXH là quan hệ giữa cơ quan BHXH và người hưởng BHXH, được điều chỉnh bởi Luật BHXH. Cơ quan BHXH là chủ thể tham gia quan hệ này để thực hiện việc chi trả trợ cấp cho người được hưởng theo quy định của pháp luật. Người hưởng BHXH tham gia quan hệ trong việc chi trả các chế độ trợ cấp BHXH phải là cá nhân người lao động đang hoặc đã tham gia vào quan hệ lao động. Trong một số trường hợp, người được hưởng còn là thân nhân trong gia đình người lao động. Đây là quan hệ chủ yếu trong quan hệ BHXH, vì mục đích của BHXH là đảm bảo vật chất cho cuộc sống của người lao động và thân nhân của họ khi họ mất hoặc giảm khả năng lao động trong trường hợp gặp các rủi ro theo quy định của Luật BHXH hoặc hết tuối lao động. Quan hệ trong việc hình thành quỹ là tiền đề, là điều kiện để thực hiện quan hệ trong việc chi trả các chế độ trợ cấp BHXH và hai quan hệ này tạo thành quan hệ BHXH. III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI 1. Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội. Năm 2007 là năm đánh dấu bước phát triển mới trong lĩnh vực BHXH với việc Luật BHXH đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 và có hiệu lực ngày 01/01/2007. Cùng với việc ban hành Luật BHXH nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản Luật nhằm đưa Luật BHXH đi vào đời sống người lao động. Riêng năm 2007 Luật BHXH có hiệu lực Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn, thi hành luật. Trong thời kỳ 2001- 2006 Đảng và Chính phủ đã thể chế hoá thành 138 văn bản đối với chính sách BHXH ( gồm: 8 Luật và Bộ luật, 4 Pháp lệnh, 2 Nghị quyết, 26 Nghị định, 12 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, 51 Thông tư và Thông tư liên tịch, 35 Công văn và Công điện ). Riêng năm 2007 Luật BHXH có hiệu lực, Nhà nước lại tiếp tục ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn, thi hành luật [ trích từ các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH]. Với tư cách là cơ quan sự nghiệp BHXH cao nhất BHXH Việt Nam đã ban hành hàng loạt quyết định, văn bản hướng dẫn chỉ đạo về BHXH và hàng chục văn bản tham gia với chính phủ nhằm hoàn thiện chính sách BHXH nói chung và hệ thống quản lý BHXH nói riêng. Riêng năm 2007 BHXHVN đã có 42 văn bản tham gia với Chính phủ và các Bộ nghành chức năng về nội dung liên quan đến chế độ, chính sách BHXH [ trích: bảo hiểm xã hội trong tiến trình hội nhập]. Nhờ đó, mà chính sách BHXH luôn được kế thừa và đổi mới cơ bản; tạo điều kiện cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển, đã mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho người lao động vào làm việc trong các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh; thành lập quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nước, hạch toán độc lập trên cơ sở lấy thu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động để chi trả các chế độ trợ cấp cho người lao động. Công tác quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện chính sách BHXH cũng được đổi mới căn bản; hình thành nhanh tróng, đồng bộ hệ thống tổ chức nghành BHXH từ Trung ương đến địa phương; Hệ thống văn bản về BHXH có nhiều chuyển biến đã tạo nên hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện ngày một tốt hơn chế độ, chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Các chế độ BHXH thực sự đã đi vào đời sống người lao động; tạo sự yên tâm cho người lao động làm việc; làm lành mạnh hoá thị trường lao động, khắc phục dần tính bình quân, bao cấp, nhưng vẫn đảm bảo tính điều tiết và chia sẻ cộng đồng. Cụ thể một số nội dung pháp luật về BHXH ( Luật BHXH ) được bổ xung sửa đổi phù hợp với tiến trình phát triển như: Phạm vi đối tượng được mở rộng hơn trước không chỉ bó hẹp trong phạm vi cán bộ, công chức mà áp dụng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên. Người sử dụng lao động tham gia BHXH là bất kỳ tổ chức, cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động ( trước là người sử dụng lao động có sử dụng từ mười người trở lên). Áp dụng 5 chế độ BHXH là: Chế độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất; giảm chế độ mất sức lao động so với thời kỳ trước là tinh ngọn hệ thống chi trả trợ cấp BHXH. Bước đầu đã kiện toàn hai hình thức BHXH tự nguyện và BHXH thất nghiệp. Hình thức BHXH tự nguyện áp dụng hai chế độ: chế độ hưu trí và chế độ tử tuất ( trước đây là 5 chế độ như BHXH bắt buộc ) phù hợp với thực tế của các đố tượng tham gia BHXH tự nguyện đồng thời tránh được nguy cơ thâm hụt quỹ BHXH ( nếu áp dụng 3 chế độ còn lại như BHXH bắt buộc). Tuy vậy, việc ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội còn một số hạn chế như: Một là: đường lối chính sách về BHXH còn chậm được pháp luật hoá. Việc xây dựng, sửa đổi, bổ xung đến ban hành Luật BHXH còn chậm so với yêu cầu thực tiễn của sự phát triển kinh tế. Chính sách đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường được Đảng ta khởi xướng từ Đại hội VI nhưng đến năm 1995 chính sách BHXH mới thự sự đi vào cuộc sống người lao động và chủ yếu là công nhân viên chức. Đến năm 2007, Luật BHXH mới được ban hành, tức sau 21 năm từ khi đổi mới kinh tế nước ta mới có khung pháp lý rõ ràng điều chỉnh quan hệ gắn bó mật thiết không thể tách rời đối với nền kinh tế thị trường – Quan hệ làm công ăn lương. Hai là: việc ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội chậm, thiếu tính cụ thể dẫn đến khó khăn trong việc đưa Luật vào đời sống người lao động . Các quy định về BHXH mang tính nguyên tắc, thiếu chi tiết cụ thể nên thường phải có Nghị định kèm theo. Nghị định cũng chưa cụ thể nên phải có thông tư liên bộ hoặc của bộ, nghành có liên quan mới thực hiện được. Các văn bản pháp luật thường chậm trễ thiếu đồng bộ ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện. Vì vậy trong 5 năm có 8 luật mà cần đến 51 thông tư và 35 công văn. Một số văn bản Luật về BHXH còn đan xen với những quy định thuộc phạm vi chính sách của nhà nước. Ba là: số lượng văn bản thì nhiều mà hiệu quả thì ít. Mặc dù hệ thống văn bản về chế độ, chính sách BHXH tương đối nhiều nhưng vẫn chưa mang lại hiệu quả mong muốn cho người lao động. Phạm vi, đối tượng trong các văn bản đề cập đến chưa bao hàm được đầy đủ các lực lượng lao động trong xã hội. Chế độ BHXH tự nguyện đã có hiệu lực từ năm 2008 nhưng các văn bản hướng dẫn còn lan man, thiếu cụ thể dẫn đến việc lúng túng trong thực hiện ở các địa phương. Văn bản có nhưng việc quản lý BHXH tự nguyện còn nhiều sơ hở gây khó khăn trong việc quản lý. Bốn là: một số nội dung quy định về điều kiện hưởng, mức hưởng thuộc chế độ BHXH bắt buộc còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu của thực tế. Ví dụ, chế độ ốm đau, thai sản chưa quy định thời gian tối thiểu đóng BHXH trước khi được hưởng, do đó không ít người lao động thời gian đóng BHXH chưa nhiều nhưng đã được hưởng nhiều hơn mức đóng, tạo ra sự mất công bằng. Năm là: Luật BHXH tự nguyện mới chỉ áp dụng 2 chế độ hưu trí và tử tuất. BHXH thất nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm kiếm việc làm. Phạm vi chế độ còn hẹp, các chế độ BHXH thất nghiệp chưa cụ thể thiết thực với người lao động thất nghiệp. Điều này, chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động nằm trong đối tượng 2 loại hình BHXH này. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc xây dựng, ban hành và sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật BHXH: Việc hạn chế trong việc ban hành, thực hiện Luật BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH là do BHXH liên quan trực tiếp đến việc làm, thất nghiệp, tiền lương, tiền công ... Các quy định việc làm, tiền lương, tiền công, ... nằm trong nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như lao động, dân số, doanh nghiệp, cán bộ, công chức, viên chức, giáo dục đào tạo hoặc các quy định về bảo vệ sức khỏe nhân dân, ... Vì vậy, Luật BHXH không thể tách rời các lĩnh vực nói trên. Hay nói cách khác Luật BHXH phải đi sau – là hệ quả của các lĩnh vực kinh tế - xã hội đó. Mặt khác, chúng ta chưa tích luỹ được kinh nghiệm để xây dựng một hệ thống pháp luật có hiệu lực, hiệu quả để quan lý để quản lý nền kinh tế thị trường với nhiều cơ chế phức tạp, lại không ngừng thay đổi. Trong khi đó xu thế hội nhập, toàn cầu hoá lại diễn ra hết sức nhanh tróng. Với bối cảnh đó, không riêng gì Luật BHXH mà cả hệ thống Luật quản lý kinh tế - xã hội của chúng ta được xây dựng trên cơ sở vừa tìm tòi, vừa học hỏi và vừa rút kinh nghiệm nên khó tránh khỏi những hạn chế bất cập. 2. Thực trạng tổ chức quản lý và thực hiện chính sách của nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội trong những năm qua Theo tổng hợp báo cáo tổng kết hàng năm của cơ quan BHXH Việt Nam trong BHXH Việt Nam phát triển và hội nhập ( TS. Đỗ Văn Sinh – Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam ): năm 1995 mới có 2,85 triệu người thì đến cuối năm 2007 số người tham gia BHXH là 7.99 triệu người, riêng số tiền thu BHXH năm 2007 đạt khoảng 23.000 tỷ đồng. Bình quân mỗi năm tăng thêm 47 vạn người mới tham gia BHXH. Năm 2003 mới có 3,7 triệu người tham gia BHYT thì đến năm 2007 tăng lên khoảng 37,85 triệu người, chiếm khoảng 45% dân số cả nước, trong đó 9.32 triệu người tham gia BHYT tự nguyện. Tổng số thu toàn nghành được 29.805 tỷ đồng, trong đó thu BHXH, BHYT bắt buộc 28.991 tỷ đồng; thu BHYT tự nguyện 814 tỷ đồng. Chi trả trợ cấp hàng tháng của các chế độ: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động cho hơn 2 triệu người với số tiền chi hàng tháng là hơn 2,2 nghìn tỷ đồng (năm 2007), đảm bảo đúng đối tượng, đủ số lượng, kịp thời và giao tận tay từng người; không còn tình trạng nợ đọng lương hưu như thời kỳ bao cấp. Số người hưởng trợ cấp hàng tháng tử quỹ BHXH chi trả sẽ tăng nhanh theo các năm sau và đồng thời nguồn quỹ chi trả từ ngân sách nhà nước sẽ giảm dần cho đến khi chỉ còn những đối tượng hưởng các chế độ BHXH từ nguồn quy BHXH. Hàng năm có hàng triệu lượt người được nhận các khoản trợ cấp khi bản thân bị ốm hay con ốm, khi thai sản, khi bị tai nạn lao động hoăc bệnh nghề nghiệp. Chất lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu, khám chữa bệnh nội trú, ngoại trú của người có thẻ BHYT ngày càng được nâng cao. Người bệnh ngày càng được tiếp cận với các dịch vụ y tế với trình độ khoa học tiên tiến và hiện đại. Công tác quản lý và thực hiện chính sách đối với hoạt động BHXH ngày càng hoàn thiện, cụ thể về các mặt như sau: a. Quản lý và ngày càng mở rộng đối tượng áp dụng: Đối tượng áp dụng được quy định ở điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội Việc ban hành Luật BHXH đã mở rộng đối tượng BHXH hơn so với trước rất nhiều. Sự tồn tại của BHXH tự nguyện song song với BHXH bắt buộc đã đảm bảo mọi người dân đều có thể tham gia BHXH nếu có nhu cầu. Vấn đề quản lý đối tượng tham gia và hưởng chế độ BHXH được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý trực tiếp (điều 8 khoản 2 Luật BHXH) có sự phối hợp với cơ quan BHXH Việt Nam binh và có sự chỉ đạo BHXH tỉnh, thành phố quản lý đối tượng trong phạm vi địa lý hành chính của mình. Hàng quý, hàng năm báo cáo Chính phủ về tình hình quản lý và mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Sau đây là tình hình tham gia và quản lý đối tượng tham gia BHXH trong những năm qua. Bảng 1: Đối tượng tham gia BHXH ở Việt Nam từ 2003 - 2007 Số liệu Năm Tổng số LĐ tham gia BHXH (người) Tổng số LĐ trong độ tuổi lao động (người) Tốc độ tăng tổng số LĐ tham gia BHXH (%) Tỷ lệ LĐ tham gia BHXH so với tổng số lao động (%) Qúi IV/1995 2.840.404 2003 5.319.547 39.525.854 13,46 2004 5.820.012 40.517.836 9,41 14,36 2005 6.105.159 44.385.000 4,90 13,76 2006 6.718.110 45.400.000 10,04 14,80 2007 7.992.212 46.325.000 18,96 17,25 (Nguồn: Lấy từ báo cáo tổng kết hàng năm của BHXH Việt Nam) Tốc độ số lao động tham gia BHXH liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Số lao động tham gia bảo hiểm xã hội năm 2007 đạt 7,992 triệu đạt mức cao nhất từ trước tới nay, người gấp 2,83 lần so với năm 1995 (tương ứng tăng 5,152 triệu người) và tăng 19% so với năm 2006 ( tương ứng tăng 1,274 triệu người ). Đây là kết quả của việc không ngừng sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước và cũng là thành quả của việc sâu sát, tăng cường công tác thống kê, thu thập thông tin nhu cầu nguyện vọng của người lao động trong những năm qua. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội quản lý trực tiếp tổng số lao động đã kết hợp với BHXH Việt Nam tiến hành chỉ đạo các sở Lao động – Thương binh và xã hội kết hợp với BHXH tỉnh tiến hành quản lý lực lượng lao động trong phạm vi quản lý và tiến hành buộc chủ sử dụng lao động đóng BHXH cho người lao động. Luật BHXH có hiệu lực, phạm vi đối tượng được tham gia tăng lên cao nhất từ trước đến nay ( 1,274 triệu người), gần bằng 50% tổng đối tượng tham gia BHXH năm 1995 ( 2,85 triệu người). Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động tham gia BHXH cũng tăng: năm 2005 là 13,76% thì đến năm 2006 là 14,8% ( tăng 1,04% ); năm 2007 là 17,25% tăng cao nhất trong các năm ( 2,45% so với năm 2006), nhưng tăng chậm do tốc độ tăng dân số những năm thập kỷ 90 cao dẫn đến thời điểm này lực lượng lao động trong độ tuổi tăng nhanh. Chính vì vậy tỷ lệ % lao động trong độ tuổi tham gia BHXH tuy có tăng nhưng tốc độ tăng không cao, trung bình tăng khoảng 2% mỗi năm. Hàng năm, số lao động tham gia BHXH liên tục gia tăng. Nhưng thực tế vẫn còn nhiều lao động chưa được tham gia, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân. Nguyên nhân chủ yếu là nhiều cơ sở lao động chủ sử dụng lao động chưa khai báo đúng số lao động, hoặc dung các thủ đoạn thêu lao động thời hạn dưới 3 tháng ( hợp đồng lao động mang tính thời vụ) để chốn việc đóng BHXH cho người lao động.Vì vậy tuy số lao động tham gia BHXH qua các năm đều tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp so với số người trong độ tuổi lao động. Vấn đề này đặt ra muốn bảo vệ quyền lợi cho người lao động được tham gia BHXH theo đúng quy định của pháp luật đồng thời giúp cho công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH được thuận tiện đòi hỏi công tác quản lý lao động, quản lý các cơ sở sử dụng lao động cần được tăng cường hơn nữa, đặc biệt là các cơ sở sử dụng lao động tư nhân. b. Quản lý và phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sửa dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHXH thất nghiệp. Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quỹ BHXH và mọi hoạt động tài chính BHXH, và được cụ thể hoá cho bộ phận thực hiện chức năng sự nghiệp là Ban Thu và Ban Chi thuộc BHXH Việt Nam. Sau đây là thực trạng đóng góp Quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội Theo Luật Bảo hiểm xã hội thì nguồn hình thành quỹ bao gồm: Hàng tháng, người sửa dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động là :3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sửa dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau và chế độ thai sản và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội. 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất. Tổng cộng người sửa dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của người lao động. Hàng tháng, người lao động đóng 5% mức tiền công, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất; B¶ng 2: Tỷ lệ đóng góp (%) trên tổng quỹ lương qua các thời kỳ Các thời kỳ Tỷ lệ đóng góp quỹ lương Cho các chế độ trợ cấp BHXH dài hạn Cho các chế độ trợ cấp BHXH ngắn hạn 01/1961-9/1985 1% 3,7% 10/1985-2/198

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động Bảo Hiểm XH ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan