Chuyên đề Thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU . . .1

NỘI DUNG . . . .2

1.Cơ sở pháp lý . .2

2. Thực thi quyền hạn của Quốc hội và vai trò của Quốc hội

trong lĩnh vực ngân sách nhà nước . 4

2.1 Thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách

nhà nước. .4

2.2 Vai trò của Quốc hội trong trong lĩnh vực ngân sách nhà nước . 5

3. Thực trạng việc thực thi quyền hạn của của Quốc hội trong

lĩnh vực ngân sách nhà nước 6

4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền hạn của

Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. .9

KẾT LUẬN 11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .12

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1986 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Việt Nam. Chính vì thế mà quyền hạn và vai trò của Quốc hội là rất lớn đối với các hoạt động của bộ máy nhà nước để thực hiện chức năng của nhà nước. Quốc hội thực hiện vai trò lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Trong đó, lĩnh vực ngân sách nhà nước là một lĩnh vực quan trọng. Quốc hội cùng các cơ quan chuyên trách của mình tham gia vào lĩnh vực ngân sách nhà nước ngay từ khâu ban hành và bãi bỏ các sắc thuế, quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, quyết định chiến lược và chính sách tài chính quốc gia… Và thực tế cho thấy, Quốc hội đã đạt được những kết quả rất lớn và tác động tích cực trong việc thực hiện chức năng quyết định ngân sách Nhà nước, các chương trình, dự án quan trọng quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số hạn chế về quy trình ngân sách, tổ chức bộ máy cơ quan lập pháp và công cụ hỗ trợ đã là những tồn tại và hạn chế trong việc nâng cao vai trò của Quốc hội. Vậy, việc thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước trong thực tế hiện nay ở nước ta như thế nào? Đây là một vấn đề cần được sự quan tâm, tìm hiểu của tất cả chúng ta. Do đó, trong bài tập nhóm tháng 1 lần này, nhóm chúng em đã lựa chọn đề bài số 3: “Thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”. Do khả năng còn hạn chế nên bài tiểu luận của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, chúng em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo để chúng em hoàn thiện được kiến thức của mình. Chúng em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG Cơ sở pháp lý. Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội khóa X sửa đổi, bổ sung năm 2001. Tại khoản 4 Điều 84 của Hiến pháp này đã khẳng định quyền và nghĩa vụ của Quốc hội trong lĩnh vực tài chính ngân sách như sau: “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế”. Quy định trên còn được thể hiện ở khoản 4 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội Thực hiện quyền quyết định của mình năm 1996, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật ngân sách nhà nước và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/ 1/ 1997. Đây là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất đối với công tác quản lý tài chính, ngân sách nhà nước góp phần hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế, phục vụ quá trình đổi mới kinh tế xã hội. Vai trò của Quốc hội và các cơ quan Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như lĩnh vực kinh tế - ngân sách là một bước khẳng định vai trò của cơ quan dân cử trong đời sống chính trị đất nước. Cụ thể hóa quy định của hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001) về chức năng của Quốc hội, năm 2002 Quốc hội khóa XI tiếp tục sửa đổi bổ sung Luật ngân sách nhà nước năm 1996, Luật ngân sách nhà nước sửa đổi bổ sung năm 2002 có hiệu lực từ năm ngân sách 2004 đã cụ thể hóa thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Điều 15, Luật NSNN năm 2002 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội như sau: “1. Làm luật và sửa đổi luật trong lĩnh vực tài chính - ngân sách; 2. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cân đối thu, chi ngân sách nhà nước; 3. Quyết định dự toán ngân sách nhà nước: a) Tổng số thu ngân sách nhà nước, bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu, thu viện trợ không hoàn lại; b) Tổng số chi ngân sách nhà nước, bao gồm chi ngân sách trung ương và chi ngân sách địa phương, chi tiết theo các lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi trả nợ và viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phòng ngân sách. Trong chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên có mức chi cụ thể cho các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; c) Mức bội chi ngân sách nhà nước và nguồn bù đắp; 4. Quyết định phân bổ ngân sách trung ương: a) Tổng số và mức chi từng lĩnh vực; b) Dự toán chi của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực; c) Mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng địa phương, bao gồm bổ sung cân đối ngân sách và bổ sung có mục tiêu; 5. Quyết định các dự án, các công trình quan trọng quốc gia được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước; 6. Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết; 7. Giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước, các dự án và công trình quan trọng quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác; 8. Phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; 9. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.” 2. Thực thi quyền hạn của Quốc hội và vai trò của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. 2.1 Thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Một là, quyết định dự toán ngân sách nhà nước. Với thẩm quyền này trước tiên Quốc hội thảo luận và quyết định tổng quát về dự toán ngân sách nhà nước gồm tổng số thu ngân sách nhà nước và tổng số chi ngân sách nhà nước, mức bội chi ngân sách nhà nước và nguồn bù đắp. Sau đó, Quốc hội quyết định chi tiết một số nội dung quan trọng trong dự toán ngân sách nhà nước. Những nội dung chủ yếu của thẩm tra dự toán và phân bổ ngân sách nhà nước: thẩm tra việc bảo đảm yêu cầu mục tiêu, nhiệm vụ của ngân sách theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; thẩm tra các căn cứ xây dựng dự toán và phân bổ dự toán; thẩm tra tính công bằng hợp lý, việc bảo đảm các mục tiêu ưu tiên; đối với năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách còn phải thẩm tra các nội dung về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng địa phương; phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước (đối với năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách); tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu và mức bổ sung cân đối ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương (đối với năm tiếp theo của thời kỳ ổn định ngân sách)... Khi thẩm tra dự toán thu ngân sách, các cơ quan của Quốc hội tập trung dự báo các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng của các khu vực, các ngành, một số loại sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách; các chính sách thu của Nhà nước ảnh hưởng đến thu ngân sách năm kế hoạch; dự kiến các nguồn thu mới tăng thêm; dự kiến các nguồn thu giảm đi; kết quả các nguồn thu giảm đi; kết quả thực hiện thu một số năm trước... Hai là, quyết định phân bổ ngân sách trung ương gồm tổng số và mức chi từng lĩnh vực, dự toán chi của từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ và cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực, mức bổ sung ngân sách từ trung ương cho ngân sách từng địa phương bao gồm bổ sung cân đối ngân sách và bổ sung có mục tiêu. Ba là, quyết định các dự án, các công trình quan trọng của quốc gia được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước. Bốn là, quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết. Năm là, quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cân đối thu và chi trong ngân sách nhà nước.. Ngoài ra, trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước với tư cách là chủ thể quyết định phân bổ ngân sách nhà nước, chủ thể có quyền giám sát hoặc điều hành cao nhất với các hoạt động chấp hành ngân sách nhà nước, tham gia trực tiếp vào tất cả các giai đoạn chấp hành ngân sách nhà nước. Quốc hội tham gia vào hoạt động chấp hành ngân sách nhà nước thông qua các nội dung như điều chỉnh các chi tiêu ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát về NSNN trên các nội dung sau: Giám sát về dự toán NSNN hàng năm; Giám sát phân bổ NSTW và số bổ sung từ NSTW cho NSĐP; giám sát việc giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các Bộ, ngành trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Giám sát quá trình chấp hành NSNN; Giám sát việc phê chuẩn quyết toán NSNN. Quốc hội là cơ quan có trách nhiệm cao nhất trong hoạt động ngân sách nhà nước, có quyền phể chuẩn, quyết toán ngân sách nhà nước, quyết toán các dự án, công trình đầu tư quốc gia quan trọng đã được Quốc hội phê chuẩn. 2.2 Vai trò của Quốc hội trong trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Quốc hội là người quyết định cuối cùng để đảm bảo cho dự toán ngân sách nhà nước có hiệu lực pháp lý thi hành. Pháp luật trao quyền quyết định tối cao cho Quốc hội chính là để cho bản dự toán được thể hiện đầy đủ nhất nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân vì bản chất của Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Sự tham gia trực tiếp của Quốc hội trong việc quyết định phân bổ chi tiết ngân sách Trung ương và số bổ sung cho ngân sách địa phương, quyết định những công trình quan trọng quốc gia tạo sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa cơ quan hành pháp và lập pháp trong hệ thống chính trị, thúc đẩy cơ quan chuẩn bị dự án trình và cơ quan thẩm tra, quyết định; cơ quan thực hiện và cơ quan giám sát phải làm tốt hơn trách nhiệm của mình, góp phần tạo ra sự chuyển biến tích cực trong quá trình phân chia quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cơ quan trong quy trình ngân sách. Việc thẩm tra, xem xét dự toán, phương án phân bổ ngân sách nhà nước của Quốc hội bảo đảm cho việc xây dựng và quyết định dự toán ngân sách của QH theo đúng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tính công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ NSTW đã có tiến bộ nổi bật, hạn chế được tình trạng "xin - cho" trong lĩnh vực ngân sách, bảo đảm ngân sách được sử dụng hiệu quả, tiết kiệm thực hiện đúng các quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. 3. Thực trạng việc thực thi quyền hạn của của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Bên cạnh những kết quả đạt được và tác động tích cực trong việc thực hiện chức năng quyết định ngân sách Nhà nước, một số hạn chế về quy trình ngân sách, tổ chức bộ máy cơ quan lập pháp và công cụ hỗ trợ đã là những tồn tại và hạn chế trong việc thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Cụ thể như sau: Một là, với những quy định hiện hành của Luật Ngân sách nhà nước thì việc quyết định ngân sách nhà nước còn một số bất cập như: nguồn thu ngân sách nhà nước chưa vững chắc, còn phụ thuộc nhiều vào hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là xuất khẩu nguyên liệu thô (dầu thô), tỷ trọng thuế trực thu còn thấp và tăng chậm, tình trạng thất thu còn khá cao. Việc phân cấp nguồn thu giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, giữa các cấp ngân sách còn có điểm chưa phù hợp với thực tế. Do đó, trong thực tế thực hiện nhiệm vụ quyết định ngân sách Nhà nước của Quốc hội vẫn còn nhiều khó khăn, chưa thực hiện được đầy đủ thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Chất lượng các quyết định chưa cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của cử tri và nhân dân trong cả nước Hai là, thời gian giành cho hoạt động thẩm tra, giám sát ngân sách của Quốc hội trong lịch biểu chưa thỏa đáng để hoạt động giám sát có chất lượng cao. Theo quy định của Luật NSNN, để các cơ quan của Quốc hội xem xét, thẩm tra tình hình thực hiện NSNN năm hiện hành, dự toán NSNN và phương án phân bổ NSTW, các báo cáo này phải gửi tới HĐDT và các Uỷ ban của Quốc hội xem xét thẩm tra trước 1/10. Uỷ ban Tài chính – Ngân sách chủ trì thẩm tra chậm nhất là 5/10, tiếp đó các báo cáo phải được hoàn thiện gửi tới Đại biểu Quốc hội 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội. Quy trình trên cho thấy các cơ quan của Quốc hội phải chịu sức ép về thời gian rất lớn để hoàn thành báo cáo thẩm tra trình ra Quốc hội. Thời gian khoảng một tuần để Uỷ ban Tài chính - Ngân sách chủ trì thẩm tra cùng với HĐDT và các Uỷ ban khác của Quốc hội về các báo cáo ngân sách là quá ngắn. Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo thẩm tra ngân sách và chất lượng thảo luận, quyết định ngân sách của Quốc hội. Ở nhiều quốc gia, thời gian để Quốc hội và các Uỷ ban thẩm tra, thảo luận ngân sách từ 2 - 3 tháng, có một số nước trên 4 tháng. Ba là, sự phối hợp giữa Ủy ban tài chính, ngân sách với Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội trong quá trình thẩm tra, giám sát ngân sách, thẩm định chương trình, dự án quan trọng quốc gia còn thiếu hiệu quả. Việc chia sẻ thông tin, phân tích số liệu giữa cân đối vĩ mô với chỉ tiêu chuyên ngành; sự hợp lý, gắn kết giữa chính sách ngân sách Nhà nước và ngân sách ngành, lĩnh vực cũng chưa được phối hợp đánh giá một cách chặt chẽ, gắn kết giữa các Uỷ ban. Nội dung trình các chương trình, dự án quan trọng quốc gia tại Quốc hội rất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, nên sự phối hợp giữa các Uỷ ban của Quốc hội để có một báo cáo thẩm tra toàn diện, có chất lượng là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thảo luận và quyết định của Quốc hội về chương trình, dự án đó tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Bốn là, chế độ báo cáo, cung cấp thông tin cho cơ quan Quốc hội còn nhiều bất cập, sự phối hợp giữa cơ quan hành pháp và lập pháp về chia sẻ thông tin còn mang tính hình thức, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thảo luận và quyết định ngân sách và những công trình quan trọng quốc gia của Quốc hội. Để cơ quan lập pháp có điều kiện thảo luận và quyết định ngân sách một cách tích cực, có chất lượng thì những thông tin quản lý cần phải được cung cấp một cách kịp thời, chính xác và có hệ thống. Ngoài những thông tin do Chính phủ cung cấp, Quốc hội cũng cần nhận được những thông tin từ Kiểm toán Nhà nước và những ý kiến đóng góp của các tổ chức xã hội. Nguồn thông tin độc lập sẽ tạo ra cách nhìn nhận, đánh giá của các đại biểu Quốc hội từ nhiều góc độ, quan điểm khác nhau. Năm là, cơ chế trách nhiệm trong toàn hệ thống không rõ ràng, có sự xung đột về lợi ích khi đại biểu Quốc hội vừa ở vai hành pháp, vừa ở vai lập pháp hoặc đại diện cho đoàn thể, doanh nghiệp, địa phương. Nhìn chung, chưa có động lực thực sự để đại biểu Quốc hội làm tốt chức năng của mình. Sự đan xen, lẫn lộn giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập thể trong quy trình ra quyết định hiện nay là rào cản cho quy trình xác định trách nhiệm khi có sai phạm, nhất là những sai phạm lớn thuộc về chủ trương, chính sách. Quy định bỏ phiếu tín nhiệm các thành viên Chính phủ đã được Luật hoá nhưng vẫn còn thiếu những trình tự, thủ tục cụ thể để quy định này có tính khả thi. Những yếu tố đó đều ảnh hưởng đến việc trình, thảo luận và quyết định, triển khai những vấn đề quan trọng của Quốc hội trong toàn hệ thống chính trị. Sáu là, chức năng giám sát của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp trong việc thực hiện các Quyết định, Nghị quyết của Quốc hội trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian qua còn chưa tốt nên đã hạn chế tính hiệu quả, hiệu lực chức năng giám sát của Quốc hội. 4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Để khắc phục những bất cập này, đồng thời bảo đảm cho Quốc hội thực hiện thực quyền của mình trong lĩnh vực ngân sách nhà nước có hiệu quả, xin kiến nghị một số giải pháp sau: Một là, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân sách nhà nước, khắc phục được những điểm bất cập của Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, quy định đầy đủ hơn về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách, quyết định các căn cứ xây dựng phương án thu, chi ngân sách nhà nước. Các ĐBQH phải có thời gian và có năng lực nghiên cứu các báo cáo về vấn đề tài chính, ngân sách, nhất là các ĐBQH là thành viên của Ủy ban tài chính và ngân sách, có được sự tham mưu, hỗ trợ có hiệu quả của các cơ quan phục vụ của Quốc hội, trực tiếp là Vụ Tài chính và Ngân sách. Hai là, cần thay đổi lịch biểu tài chính trong quy trình ngân sách thông qua việc sửa đổi Luật NSNN để các cơ quan Quốc hội có thêm thời gian thẩm tra, thảo luận ngân sách và những vấn đề quan trọng khác. Thời gian bắt đầu xây dựng dự toán ngân sách tiến hành sớm hơn, nên bắt đầu từ tháng 2, dự toán ngân sách Chính phủ trình Quốc hội nên vào khoảng tháng 8 hàng năm. Cần phải có các biện pháp bắt buộc các cơ quan liên quan phải tuân thủ nghiêm túc quy định về lịch biểu thời gian trong việc xây dựng dự toán và phân bổ ngân sách. Công tác chuẩn bị báo cáo về dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương để trình QH phải bảo đảm đúng quy trình và thời hạn về thời gian, nội dung và hình thức theo quy định của pháp luật. Ba là, Quốc hội cần thảo luận và quyết định về chính sách đối với những vấn đề quan trọng quốc gia, gồm cả chính sách ngân sách trước khi thảo luận những vấn đề cụ thể. Sự thảo luận về mặt chính sách ngay từ ban đầu nhằm đảm bảo chính sách đó là một sự lựa chọn tối ưu, có tính khả thi cao. Công tác xem xét, đánh giá, thẩm tra của Ủy ban tài chính , ngân sách phải đúng quy trình, quy chế, phải thật sự chu đáo, tỷ mỹ, thận trọng, khách quan. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội cũng phải thực hiện tốt trách nhiệm cùng tham gia thẩm tra của mình. Các ý kiến thẩm tra phải toàn diện, vừa mang tính bao quát, thể hiện tầm vĩ mô vừa sâu sắc, cụ thể. Các nhận định, đánh giá phải thể hiện đầy đủ, rõ chính kiến của cơ quan thẩm tra và của các thành viên tham dự Hội nghị thẩm tra với phân tích và lý giải sâu sắc, có căn cứ xác đáng, có lý lẽ thuyết phục. Nội dung và ý kiến thẩm tra phải giúp cho ĐBQH có cơ sở, có căn cứ để hình thành các ý kiến độc lập và bày tỏ thái độ. Đồng thời, kết quả thẩm tra cần cung cấp các thông tin đa dạng, ý kiến nhiều chiều, các nhìn nhận từ nhiều phía, các quan điểm khác nhau (dù là số ít) trong quá trình thẩm tra để Quốc hội thảo luận đưa ra quyết định. Bốn là, Các báo cáo phải được chuẩn bị nghiêm túc, đầy đủ, toàn diện, chính xác và tin cậy với các thuyết minh, giải trình chi tiết, hợp lý, thuyết phục giúp Quốc hội có thể thảo luận, đưa ra những quyết sách đúng đắn, có hiệu quả cao. Năm là, cần đổi mới cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội để đảm bảo Quốc hội vừa thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời cũng phát huy tính dân chủ, quyền chủ động trong hoạt động của Quốc hội nhằm tạo điều kiện để Quốc hội thực hiện có hiệu quả những chức năng được Hiến pháp và Luật quy định, đặc biệt là quyền quyết định của Quốc hội đối với những vấn đề quan trọng của Quốc gia. Việc thảo luận của các ĐBQH tại tổ và tại hội trường phải thật dân chủ, cởi mở, nghiêm túc và thẳng thắn với tinh thần trách nhiệm cao. Để có quyết định đúng và thực chất rất cần bản lĩnh và trí tuệ của đại biểu trong thảo luận và tranh luận, rất cần quan điểm rõ ràng và cách nhìn nhận toàn cục nhưng sâu sắc và cụ thể. Các quyết định của Quốc hội phải đúng luật, phù hợp thực tế và có tính khả thi cao. Sáu là, cần đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giám sát của Quốc hội thông qua lựa chọn nội dung và hình thức giám sát thích hợp, kết hợp chặt chẽ giữa giám sát của các Uỷ ban của Quốc hội với các Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp; sử dụng có hiệu quả các công cụ phục vụ công tác giám sát của Quốc hội như Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tài chính, Thanh tra chuyên ngành. KẾT LUẬN Như vậy, với việc trình bày thực trạng thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, phân tích và đưa ra một số hướng giải pháp hoàn thiện, giúp chúng ta hiểu thêm về vai trò của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước hiện nay. Trong những năm qua, Quốc hội đã ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét, quyết định ngân sách nhà nước nói riêng và những vấn đề tài chính – ngân sách nói chung. Qua đó đã góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả và chất lượng tăng trưởng kinh tế, tăng tiềm lực và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia cũng như ngân sách nhà nước; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan của Chính phủ trong việc thảo luận, tìm biện pháp giải quyết các vấn đề khó khăn về tài chính và ngân sách nhà nước, góp phần nâng cao tính thực quyền của Quốc hội và ĐBQH đối với hoạt động tài chính – ngân sách của đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước – Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB.Tư pháp Luật Ngân sách nhà nước năm 2002. Hiến pháp năm 1992. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT NSNN Ngân sách nhà nước NSTW Ngân sách Trung ương NSĐP Ngân sách địa phương HĐDT Hội đồng dân tộc ĐBQH Đại biểu Quốc hội MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ..………………………………………………………………..……...1 NỘI DUNG…………………………………..…………...………………….…....2 1.Cơ sở pháp lý ……………………………………………..………………….....2 2. Thực thi quyền hạn của Quốc hội và vai trò của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước ……………………………………..…4 2.1 Thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. …………………………………………………………………...4 2.2 Vai trò của Quốc hội trong trong lĩnh vực ngân sách nhà nước ….…………5 3. Thực trạng việc thực thi quyền hạn của của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước …………………………………………………6 4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. …………………………….........9 KẾT LUẬN ……………………………………………………………………11 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….12

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực thi quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực ngân sách nhà nước - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.doc
Tài liệu liên quan