Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

Chương 1. Cơ sở lí luận về sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử và kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử của một số nước 3

1.1 Lí luận chung về cạnh tranh 3

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và các khái niệm liên quan 3

1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh 3

1.1.1.2. Các khái niệm liên quan 3

1.1.2. Các điều kiện cơ bản cho hoạt động cạnh tranh 6

1.1.3. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực cạnh tranh 7

1.1.3.1. Năng lực cạnh tranh 7

1.1.3.2. Các cấp độ cạnh tranh 7

1.1.4. Lí luận về cạnh tranh 12

1.1.4.1. Quan điểm của Porter 12

1.1.4.2.Quan điểm của Edward H. Chamberlin 14

1.1.5. Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành 15

1.2. Lí luận chung về ngành công nghiệp điện tử 16

1.2.1. Khái niệm 16

1.2.2. Phân loại 17

1.2.3. Vai trò của NCNĐT trong quá trình CNH-HĐH nền kinh tế đất nước 18

1.2. Tổng quan về ngành công nghiệp điện tử thế giới 19

1.2.1. Tổng quan chung 19

1.1.2. Nhận xét đánh giá về tình hình sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm điện tử trên toàn thế giới 22

1.3. Kinh nghiệm nâng cao sức cạnh tranh của NCNĐT một số nước trên thế giới 23

1.3.1. Thực tiễn sức sản xuất các mặt hàng điện tử của một số nước 23

1.3.1.1. Hàn Quốc 23

1.3.1.2. Ấn Độ 24

1.3.1.3. Mailaisia 26

1.3.1.4. Thái Lan 27

1.3.1.5. Đài Loan 28

1.3.2. Kinh nghiệm đối với việc nâng cao sức cạnh tranh hàng điện tử của Việt Nam 29

Chương 2: Tình hình cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam từ 1990 đến nay 32

2.1. Tổng quan chung về cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam 32

2.1.1. Những thành tựu đã đạt được 32

2.2. Đánh giá về khả năng cạnh tranh của hàng CNĐT Việt Nam 35

2.2.1. Về chất lượng sản phẩm 35

2.2.1.1. Đánh giá về nguyên liệu đầu vào của sản phẩm điện tử Việt Nam 36

2.2.1.2. Đánh giá về kiểu dáng mẫu mã và trình độ công nghệ 38

2.2.1.3. Đánh giá về chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm 38

2.2.1.4. Đánh giá về thương hiệu 39

2.2.1.5. Đánh giá về thị trường 41

2.2.1.6. Đánh giá về lực lượng lao động của ngành 43

2.3. Một số doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử lớn tại Việt Nam 45

2.3.1. Công ty cổ phần phát triển và đầu tư công nghệ FPT 45

2.3.2. Hanel- Công ty điện tử Hà Nội 45

2.3.3. Công ty TNHH điện tử Tiến Đạt 47

2.3.4. Tổng Công ty Điện tử-Tin học TCL Việt Nam 48

2.4. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế trong việc nâng cao sức cạnh tranh NCN điện tử Việt Nam 50

2.4.1. Hạn chế 50

2.4.2. Nguyên nhân 53

2.4.2.1. Nguyên nhân từ phía DN sản xuất và xuất khẩu hàng điện tử 53

2.4.2.2. Từ phía nhà nước 57

2.4.2.3. Các nguyên nhân khác 62

Chương 3: Định hướng và các giải pháp đề nâng cao sức cạnh tranh cho ngành công nghiệp điện tử sau khi Việt Nam gia nhập WTO 63

3.1. Định hướng phát triển NCNĐT Việt Nam và các nguyên tắc cạnh tranh trong WTO 63

3.1.1. Định hướng phát triển NCNĐT Việt Nam 63

3.1.2. Nguyên tắc cạnh tranh trong WTO 64

3.2. Giải pháp đề xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử 66

3.2.1. Giải pháp về phía cung 66

3.2.1.1. Các giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm 67

3.2.1.2. Tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp 68

3.2.1.3. Đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm điện tử 70

3.2.1.4. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý, hoàn thiện kỹ năng quản lý hiện dại của đội ngũ lãnh đạo, quản trị trong các doanh nghiệp 70

3.2.2. Các giải pháp về phái cầu 72

3.2.2.1. Các giải pháp cạnh tranh về giá 72

3.2.2.2. Tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp 72

3.2.2.3. Xây dựng và bảo vệ các thương hiệu sản phẩm công nghiệp điện tử 75

3.2.3. Phát triển NCN phụ trợ và các ngành có liên quan 77

3.2.3.1. Phát triển các ngành phụ trợ sản xuất linh kiện cho NCNĐT 77

3.2.3.2. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất linh phụ kiện điện tử 78

3.2.4. Giải pháp từ phía nhà nước 80

3.2.4.1. Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển NCNĐT 80

3.2.4.2. Hoàn thiện hệ thống phát luật và các CS 81

3.2.4.3. Phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả cho ngành công nghiệp điện tử 82

3.2.4.4. Các giải pháp khác 83

KẾT LUẬN 85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88

PHỤ LỤC 90

 

 

docx112 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2142 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã được VTB thiết lập phủ khắp 64/64 tỉnh thành trong việc phân phối bán lẻ các sản phẩm VTB đến tay người tiêu dùng. Bên cạnh đó VTB cũng đã phát triển công tác Dịch vụ hậu mãi tại 64/64 tỉnh thành, thực hiện CS bảo hành uy tín và hiệu quả, gíup người sử dụng yên tâm và cảm thấy thật sự hài lòng với chất lượng sản phẩm VTB. Công ty Điện tử Biên Hoà Công ty Điện tử Biên Hoà được thành lập vào năm 1978 và chính thức chuyển đổi thành Công ty cổ phần Điện tử Biên Hoà (Belco) theoQuyết định số 229/2003/QĐ-BCN ngày 24/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp. Sau khi hoàn tất chuyển đổi thành công ty cổ phần, Belco có vốn điều lệ 60 tỷ đồng (cổ đông nhà nước giữ cổ phần chi phối với 51%) với số nhân viên là 400 người. Giá trị của Công ty Điện tử Biên Hoà tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2002 để cổ phần hoá là 107.489.428.206 đồng. Trong đó, giá trị phần vốn Nhà nước tại Công ty là 75.437.308.978 đồng. Hiện nay BELCO đang quản lý 28.202 m2 diện tích nhà xưởng đất đai, trong đó diện tích đất đai được sử dụng để kinh doanh là 1.124 m2. Các nghành nghề Công ty kinh doanh: Sản xuất, bảo hành, kinh doanh các sản phẩm điện, điện tử và tin học. Xuất nhập khẩu thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, vật tư, sản phẩm điện, điện tử, tin học. Dịch vụ cho thuê nhà, văn phòng, cửa hàng, cửa hiệu, nhà hàng, siêu thị, kho tàng, bến bãi cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. Dịch vụ du lịch, lữ hành, trò chơi giải trí, trang trí. Kinh doanh các ngành nghề khác phù hợp với quy định của pháp luật. 2.4. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế trong việc nâng cao sức cạnh tranh NCN điện tử Việt Nam 2.4.1. Hạn chế Có thể nói, mở cửa hội nhập đã tạo điều kiện để NCNĐT Việt Nam tiếp cận, ứng dụng nhanh chóng khoa học kỹ thuật công nghệ cao để đẩy mạnh phát triển, khẳng định khả năng cạnh tranh với các nước trên thế giới. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng trung bình của NCNĐT Việt Nam đạt khoảng 20%/năm. Điều đó rất đáng mừng vì NCNĐT Việt Nam đang phát triển một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì sản lượng còn thấp, giá cả của các sản phẩm điện tử Việt Nam vẫn cao và chưa có tính cạnh tranh. Do đang ở giai đoạn phát triển ban đầu nên thị trường hàng điện tử Việt Nam mang đầy đủ những đặc điểm thụ động của một nền sản xuất nhận chuyển giao công nghệ, một thị trường tiêu thụ tiềm năng nhưng chưa thực sự phát triển cũng như những bất cập về CS kinh tế vĩ mô trong quá trình phát triển. Cụ thể là: Nguồn cung ứng của hầu hết các mặt hàng điện tử đều phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Phần lớn nguyên liệu phục vụ cho lắp ráp trong nước là từ NK. Giá trị gia tăng của các sản phẩm điện tử Việt Nam chỉ khoảng 5-10%. Công nghệ sản xuất còn ở trình độ đơn giản, loại hình lắp ráp chiếm ưu thế. Phần lớn hoạt động chế tác được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua bản quyền của đối tác nước ngoài. Hoạt động chính của CNĐT Việt Nam chỉ là lắp ráp sản phẩm tiêu dùng, mặc dù đây là phần thu lợi nhuận thấp nhất trong các công đoạn sản xuất. Giá trị gia tăng của ngành điện tử không lớn và hoạt động không đồng đều. Kết quả khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam tiến hành hồi tháng 2/2006 tại 108 DN trên toàn quốc cho thấy, cơ cấu sản phẩm mất cân đối nghiêm trọng, sản phẩm điện tử tiêu dùng lên tới 80%, các sản phẩm chuyên dùng chỉ chiếm 20%. Phần lớn sản phẩm điện tử của ta chủ yếu là lắp ráp cho các hãng đã nổi tiếng nước ngoài có đại diện tại Việt Nam (chiếm tới 78%). Tuy một số DN đã đầu tư dây chuyền lắp ráp hiện đại, tự động hoá cao nhưng vẫn còn không ít DN đang vận hành dây chuyền bán tự động và sử dụng nhiều lao động thủ công. Điều này ảnh hưởng lớn đến tính đồng bộ và chất lượng của sản phẩm. Việc lắp ráp cũng không phải là thế mạnh hoàn toàn của các DN Việt Nam bởi vốn đầu tư hạn chế, dây chuyền lạc hậu so với khu vực và thế giới khoảng 10-20 năm, rất ít DN trong nước có được dây chuyền lắp ráp mặt phẳng (SMT). Ngành điện tử Việt Nam chỉ gần như khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận hầu như không còn, nên giá trị gia tăng của sản phẩm Việt Nam chỉ đạt từ 5 đến 10%. Trong những năm qua, nhiều DN đã có những đổi mới, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển giao từ các nước CN phát triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện vẫn còn tồn tại đan xen trong nhiều DN các loại thiết bị công nghệ từ lạc hậu, trung bình đến tiên tiến, do vậy đã làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra. Các DN liên doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của thị trường hàng điện tử cả về sản xuất và XK với hơn 90% tổng giá trị đầu tư toàn ngành và 100% kim ngạch XK. Các DN trong nước đang ở trong tình trạng không chủ động được về công nghệ và nguyên liệu và chưa điều tiết được thị trường. Sản lượng Tivi lắp ráp của các DN trong nước năm 1999 chỉ chiếm 22,9% trong tổng sản lượng của cả nước. NCN ĐT trong nước chịu sự phụ thuộc, ảnh hưởng lớn vào một số nhà đầu tư nước ngoài lớn và sự biến động của thị trường thế giới. Hiện tại, vai trò đầu tàu của ngành thuộc về các DN FDI định hướng XK như Fujitsu, Canon, Orion-Hanel. Đây là những đơn vị có được đầu tư bài bản từ vốn nước ngoài, trang thiết bị tương đối hiện đại, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành hàng cũng như XK. Chỉ riêng nhà máy Fujitsu Việt Nam đã XK gần 50% tổng kim ngạch của toàn NCNĐT Việt Nam. Theo các số liệu thống kê chưa đầy đủ, cả nước hiện có gần 300 DN điện tử với  tổng vốn đầu tư chưa tới 2 tỉ USD, trong đó các DN liên doanh và DN 100% vốn nước ngoài chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư, 70% thị phần điện tử dân dụng và 90% kim ngạch XK của ngành CNpĐT Việt Nam. Các DN đầu tư vào sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng chiếm 67%, sản xuất linh phụ kiện chiếm 21,5%, sản phẩm điện tử chuyên dụng, tin học chỉ chiếm 11,5%. Các DN trong nước chiếm 2/3 tổng số DN và hơn 60% lao động nhưng vốn đầu tư chỉ chiếm gần 10%. Sức mua của thị trường trong nước còn hạn chế do thu nhập trung bình của dân cư chưa cao. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu dùng hàng điện tử tăng lên hàng năm với những chủng loại sản phẩm ngày càng phong phú đa dạng. Hơn 40% hộ gia đình Việt Nam chưa có Tivi. Giá cả các sản phẩm điện tử còn cao so với thu nhập của dân cư. Do vậy, sự phát triển của thị trường hàng điện tử phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển chung của nền kinh tế và khả năng nâng cao mức sống của người dân. Địa bàn nông thôn sẽ là thị trường tiềm năng cho các sản phẩm điện tử, đặc biệt là các sản phẩm điện tử thông dụng. Tình hình sản xuất và cung ứng hàng điện tử phụ thuộc rất nhiều vào CS bảo hộ và CS thuế của Chính phủ. Hiện nay, do CS thuế còn chưa đủ linh hoạt để theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của các sản phẩm điện tử nên đôi khi không tạo ra nhưng khuyến khích phù hợp. Mặt khác, CS bảo hộ đối với mặt hàng này cũng lại đang mâu thuẫn với chủ trương khuyến khích phát triển của các mặt hàng khác trong ngành điện tử. Thí dụ, việc giảm thuế NK linh kiện để khuyến khích các cơ sở lắp ráp thành phẩm nhưng lại không khuyến khích các nhà đầu tư sản xuất linh kiện là ngành sản xuất quan trọng đối với một NCN điện tử tiên tiến. NCN phụ trợ sản xuất phụ tùng linh kiện cũng phát triển chậm, không đáp ứng được nhu cầu lắp ráp trong nước. Cuộc khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam còn cho thấy NCN phụ trợ sản xuất phụ tùng linh kiện cũng phát triển chậm, không đáp ứng được nhu cầu lắp ráp trong nước. Với công việc lắp ráp đơn giản, hàm lượng lao động Việt Nam trong các sản phẩm điện tử bình quân chỉ khoảng 5-10% giá trị sản phẩm. Đồng nghĩa với điều này là tiền thu được từ việc bán những sản phẩm này cũng ít. Hiện chi phí sản xuất sản phẩm điện tử trong nước chỉ chiếm từ 5-15% giá thành, còn lại 85-90% giá thành là giá trị các vật tư, nguyên liệu NK. Bởi vậy, chính giá vật tư, thiết bị và thuế đánh trên nó mới quyết định đến tính cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Ngoài quy mô sản xuất nhỏ, các công ty lắp ráp đồ điện gia dụng ở Việt Nam còn gặp một khó khăn lớn là CN phụ trợ chưa phát triển, phải NK phần lớn linh kiện, bộ phận mà thuế NK là các sản phẩm trung gian, phụ trợ lại khá cao. Từ năm 2006, theo chương trình cắt giảm thuế trong khuôn khổ AFTA, thuế NK đánh trên các loại linh kiện, bộ phận nhập từ các nước ASEAN sẽ giảm xuống còn 5%, nhưng các công ty lắp ráp tại Việt Nam đang và sẽ phải tiếp tục NK nhiều loại linh kiện, bộ phận từ Nhật và các nước khác ngoài ASEAN vì ASEAN chưa thể cung cấp toàn bộ các loại linh kiện, bộ phận với phẩm chất và giá thành tương đương với Nhật hoặc các nước khác. Như vậy các công ty lắp ráp điện tử gia dụng một mặt phải tiếp tục NK linh kiện, bộ phận với phí tổn cao vì thuế quan cao nhưng mặt khác phải cạnh tranh với sản phẩm nguyên chiếc giá rẻ (vì thuế quan giảm xuống dưới 5%) NK từ ASEAN mà chủ yếu là từ Thái Lan. Hiện nay, sự yếu kém của NCN phụ trợ trong nước chính là một trong những nguyên nhân chính khiến các MNCs không mặn mà lắm với việc mua các sản phẩm của các công ty trong nước. Chất lượng sản phẩm thấp, khoảng cách về tiêu chuẩn chất lượng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là quá lớn. Công nghệ và trang thiết bị chủ yếu phục vụ lắp ráp. CN trong nước chưa chế tạo được thiết bị sản xuất, đo kiểm. Trong khi đó, công nghệ của DN điện tử có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất phụ tùng linh kiện XK cũng chỉ ở mức trung bình trong khu vực. Cơ cấu sản phẩm mất cân đối nghiêm trọng: sản phẩm điện tử dân dụng chiếm trên 80% trong khi sản phẩm chuyên dụng chỉ chiếm chưa đến 20%. Sản phẩm XK của Việt Nam không phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thế giới. Sản phẩm chủ yếu của ngành CNĐT Việt Nam là thiết bị điện tử dân dụng (nghe nhìn) chiếm hơn 80%. Trong khi ở các nước có ngành CNĐT phát triển tỉ lệ này chỉ là 12-15%. Sự bất hợp lý trong cơ cấu NCNĐT cũng là một trong những nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh yếu kém. Mặc dù lĩnh vực CNĐT chuyên dụng mới mang lại giá trị gia tăng cao nhưng vẫn chiếm tỉ lệ thấp ở Việt Nam, trong khi đó tỉ lệ công nghiệp điện tử dân dụng chiếm tới hơn 80%, cơ cấu (trên thế giới tỉ lệ công nghiệp này chỉ 12-15%). Đặc biệt, ngành điện tử Việt Nam còn phụ thuộc rất nhiều vào các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Theo thống kê của Hiệp hội DN Việt Nam, cả nước có 65 DN sản phụ tùng linh kiện thì chỉ có 5 DN của Việt Nam, 60 DN có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 90% vốn đầu tư và hơn 90% kim ngạch xuất khẩu của ngành điện tử. Gía cả không cạnh tranh, cao so với các sản phẩm tương đồng khác. Trước đây, cạnh tranh về giá là một trong những điểm mạnh của hàng điện tử Việt Nam, nhưng trong một vài năm trở lại đây, đặc biệt là sau khi Việt Nam thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan đối với hàng điện tử và sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO thì hầu hết hàng điện tử tiêu thụ ở thị trường Việt Nam đều có giá rất thấp, bên cạnh đó các hãng điện tử lớn tại Việt Nam liên tục cắt giẩm giá làm cho thế mạnh cạnh tranh duy nhất của hàng điện tử Việt Nam dần mất đi, thị trường càng bị thu hẹp. Một điều đáng kể đến là giá bán các sản phẩm điện tử của  DN Việt Nam đến nay đã  bằng với giá của các DN có vốn đầu tư nước ngoài như LG, Sam Sung, TCL... Theo thống kê từ phòng thị trường Tổng Công ty Điện tử và Tin học Việt Nam thì Công ty  Sam Sung Việt Nam bình quân mỗi năm giảm giá 10%. Một chiếc ti vi Sam Sung 21 inch năm 1999 có giá bán  là 3,6 triệu đồng nay còn 2,6 triệu đồng, trong khi cũng sản phẩm tương tự năm 1999 các DN điện tử Việt Nam bán 2,8 triệu đồng nay còn 2,5 triệu đồng. Sức giảm giá của các DN Việt Nam rất yếu và chênh lệch đến nay không còn là bao. Các thương hiệu  Sam Sung, LG, TCL...lại nổi tiếng hơn rất nhiều so với những Hanel, Vitek-VTB... nên thừa sức để "xóa" sự chênh lệch nhỏ nhoi về giá trong lòng người tiêu dùng. Khối DN tư nhân có tăng trưởng mạnh nhưng do tỷ trọng quá bé nên không thành động lực. Các DN chủ chốt trong ngành CNĐT vẫn là các DN có quy mô vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh chưa mạnh. 2.4.2. Nguyên nhân 2.4.2.1. Nguyên nhân từ phía DN sản xuất và xuất khẩu hàng điện tử Nguyên nhân nào khiến các DN Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường XK? Đầu tiên phải kể đến: DN điện tử Việt Nam tuy đã phát triển về số lượng (khoảng 200 DN), nhưng phần lớn là các DN nhỏ, DN đầu tư cho NCNĐT đã nhỏ và manh mún, ít vốn, công nghệ sản xuất chưa cao.Trong khi đó, các công ty đa quốc gia đã thống trị toàn cầu từ chuyên môn, công nghệ, đến thiết lập mạng lưới sản xuất và phân phối, khống chế thị trường toàn cầu. Chính vì yếu năng lực nên các DN Việt Nam phải đi tìm những “thị trường khe”, “thị trường ngách”, là các thị trường và các sản phẩm mà các công ty đa quốc gia ít quan tâm hoặc họ bỏ không làm. Đơn cử, Công ty Điện tử Bình Hoà, một DN đã thành công trong lĩnh vực XK nhưng cũng chỉ gia công, sản xuất các loại biến thế, cuộn cảm, bộ nguồn mini, cụm linh kiện... là các loại sản phẩm các tập đoàn lớn không quan tâm vì số lượng ít, lợi nhuận thấp. Một số DN khác như Công ty Điện tử Hanel, Nhà máy Thiết bị Bưu điện cũng đã XK một số sản phẩm như máy tính, thiết bị phụ trợ, phụ tùng linh kiện sang thị trường Mỹ la tinh, Lào, Campuchia theo cách thức tương tự. Nguyên nhân chính là do chi phí sản xuất cao, mặt khác tỷ lệ nguyên vật liệu trong giá thành cao (chiếm tới 78%) và chủ yếu là các linh kiện ngoại nhập.So với các nước trong khu vực và trên thế giới, giá cả của các sản phẩm điện tử Việt Nam vẫn cao và chưa có tính cạnh tranh. Vì vậy, các DN điện tử Việt Nam đang đứng trước khó khăn nan giải là chưa tìm ra được giải pháp tối ưu để giảm giá thành sản phẩm. Tuy xác định “mèo nhỏ bắt chuột bé” nhưng việc tìm kiếm những thị trường “khe, ngách” cũng vô cùng khó khăn và mất nhiều công sức. Vì các DN Việt Nam đang thiếu thông tin về thị trường ngoài nước, nhất là các thị trường xa xôi như châu Phi hay một số nước kém phát triển hơn Việt Nam. Một số DN Việt Nam tìm được đối tác để gia công hàng XK nhưng lại không đủ vốn và công nghệ để sản xuất nên đành phải chuyển giao sang cho DN có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều DN làm ăn thua lỗ do công nghệ quá lạc hậu dẫn đến sản phẩm không đủ sức cạnh tranh. Nguyên nhân quan trọng là các DN không chịu đầu tư cho sản xuất linh kiện, đổi mới công nghệ để chủ động trong sản xuất. Chính vì vậy mà chất lượng, mẫu mã sản phẩm không thể đổi mới nhanh, hàng sản xuất ra bán chậm, sản lượng thấp không có điều kiện để giảm giá thành và lợi nhuận thấp, dẫn đến năng lực tài chính hạn hẹp... Toàn Tổng Công ty Điện tử và Tin học Việt Nam năm 2003 chỉ đầu tư trên 18 tỷ đồng, trong đó riêng xây dựng nhà xưởng văn phòng đã ngốn  trên 14 tỷ. Từ nhiều năm nay Tổng công ty  này có mức đầu tư rất thấp: tổng vốn đầu tư  1996 - 2000 là 67,386 tỷ đồng (bằng 5,7% doanh thu). Ước đầu tư 3 năm 2001- 2003 là 49,889 tỷ đồng (bằng 1,21% doanh thu). Nhiều DN gần như không có đầu tư mới trong suốt thời gian qua. NCNĐT Việt Nam chấp nhận lắp ráp vì không có khả năng xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện. Chính vì vậy, cần phải có sự đầu tư hợp lý vào khâu thiết kế và lựa chọn chiến lược sản phẩm đúng đắn. Trên thực tế, đã có một vài DN chú trọng đến thiết kế nhưng vẫn chưa nhiều. Các công ty máy tính, hay Công ty Điện tử Hanel có bộ phận thiết kế riêng, thiết kế các sản phẩm và sử dụng linh kiện nước ngoài để lắp ráp, được khách hàng đánh giá cao. Một ví dụ khác:"Máy tính Thánh Gióng" là một trong những thiết kế của các công ty sản xuất máy tính thương hiệu Việt Nam để giảm giá thành, đáp ứng nhu cầu sử dụng của nhiều người. Điện tử - CNTT là ngành hàng kỹ thuật cao, đòi hỏi đầu tư rất lớn, tốc độ đổi mới công nghệ rất nhanh. Sản phẩm của ngành hàng là sản phẩm công nghệ cao, rất đa dạng, nhiều chủng loại, giá trị phần mềm và dịch vụ lớn, có nhiều ứng dụng khác nhau trong nhiều ngành kinh tế nhưng đời sống sản phẩm lại ngắn, đầu tư có mức độ rủi ro lớn và rất khó tìm đối tác chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao. Do đặc thù công nghệ cao của ngành hàng, việc chuyên môn hóa và toàn cầu hóa đã và đang diễn ra rất quyết liệt, các công ty đa quốc gia của các nước phát triển thống trị từng lĩnh vực chuyên môn, thiết lập mạng lưới sản xuất phân phối và khống chế thị trường trên toàn cầu nên để tìm được thị trường XK, tạo ra sản phẩm là khó khăn rất lớn đối với các DN VN. Chính vì vậy, các DN điện tử - CNTT đã đi tìm những "thị trường khe", "thị trường ngách" là những thị trường và các sản phẩm mà các công ty đa quốc gia ít quan tâm hoặc bỏ không làm. Ngành hàng điện tử - CNTT nước ta lại còn rất non trẻ, cả nước mới chỉ có gần 200 nhà sản xuất, còn phần lớn các DN khác hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ. Phần lớn các DN của ta đều là các DN nhỏ và vừa, vốn ít, công nghệ không cao, chỉ có số ít DN lớn là các DN có vốn đầu tư nước ngoài (Fujitsu, Canon...). Khoảng cách về tiêu chuẩn chất lượng giữa các DN trong nước và nước ngoài là quá lớn. Bên cạnh đó, sự chênh lệch giữa chất lượng công bố với chât lượng thực tế khiến sản phẩm điện tử Việt > sẽ rất khó cạnh tranh với sản phẩm nội khối khi hàng rào thuế quan không còn tác dụng bảo hộ. Tổng mức đầu tư cho toàn NCNĐT Việt Nam từ trước đến nay chưa đầy hai tỷ USD. Tính đến hết năm 2003, mức đầu tư là 1,6 tỷ USD, trong đó 85% là đầu tư nước ngoài (FDI). Con số này còn thấp hơn mức đầu tư cho một dây chuyền sản xuất chip của Intel (vòng đời của con chíp khoảng sáu tháng). Thậm chí, còn thấp hơn các mức đầu tư cho ngành... mía đường trong nước. Chính vì vậy đã dẫn đến hàng điện tử chất lượng thấp. Vấn đề thương hiệu chưa được coi trọng một cách đúng mức. Trong khi, thương hiệu là một tài sản quý giá của DN có thể làm tăng khả năng cạnh tranh của DN. Cũng theo kết quả điều tra trên, chỉ khoảng 40% các DN điện tử dành hơn 1% doanh thu cho việc phát triển thương hiệu sản phẩm, số còn lại thường chỉ dành từ 0,5 - 1%, thậm chí ít hơn 0,5% doanh thu cho phát triển thương hiệu. Đó là một trong những nguyên nhân khiến rất ít thương hiệu điện tử Việt Nam được khách hàng thừa nhận, đánh giá cao và hiện nay đang phải cạnh tranh rất gay gắt với các thương hiệu nổi tiếng nước ngoài. Nguyên nhân là do các DN nặng về lắp ráp lên không chú ý đến thương hiệu và xây dựng thương hiệu. Để nâng cao khả năng cạnh tranh bắt buộc các DN phải chú ý đến thương hiệu. Với các thương hiệu nổi tiếng việc mở rộng thị trường, thực hiện quảng cáo, phân phối sản phẩm sẽ dễ dàng hơn và qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của DN. Việc có được thương hiệu nổi tiếng cần có nhiều vốn cũng như thời gian để xúc tiến thương mại, quảng cáo thương hiệu. Nhưng do phần lớn các DN trong nước (không kể các DN FDI) còn đang thiếu vốn sản xuất nên không đủ khả năng xây dựng thương hiệu nổi tiếng trong thời gian ngắn. Mặt khác, sự hỗ trợ của Hiệp hội Điện Tử Việt Nam, VCCI trong việc quảng bá thương hiệu còn hạn chế làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm điện tử Việt Nam. Sự có mặt ngày càng nhiều các thương hiệu nước ngoài trong lĩnh vực hàng tiêu dùng đang tạo ra một sức cạnh tranh ghê gớm đối với các DN trong nước. Mạnh về tài chính, giàu về kinh nghiệm, trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh... các tập đoàn, công ty nước ngoài đang tăng mạnh sức ép lên các thương hiệu trong nước. Các DN điện tử thì đang chờ đợi "bàn tay thép" của WTO để giải quyết vấn nạn vi phạm sở hữu trí tuệ đang hoành hành tại thị trường nội địa. Ông Nguyễn Dương Thanh Hoàng, Giám đốc điều hành Công ty Sơn Ca cho rằng, gia nhập WTO sẽ đem lại cơ hội XK những sản phẩm điện tử "Made in Vietnam". Vấn đề sở hữu trí tuệ trong sản phẩm điện tử dân dụng ở VN hiện nay rất đáng lo ngại. Đơn cử một chiếc đầu DVD Trung Quốc mang thương hiệu Việt bán tại VN chỉ khoảng 25-30 USD trong khi nếu tính đủ các chi phí bản quyền như DVD, CSS, MEPG4, Dolby... thì mỗi chiếc đầu DVD phải trả cho người sở hữu bản quyền đến 14 USD. Vì vậy, những DN thực hiện đúng các quy định về sở hữu trí tuệ sẽ không thể cạnh tranh được. WTO sẽ khiến các DN vi phạm không thể tồn tại. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) trong WTO quy định một loạt các nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đa số các nguyên tắc này cũng đã được công nhận và tuyên trưyền ở Việt Nam. Vậy nhưng việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam cho đến nay còn nhiều bất cập, do đó DN Việt Nam vẫn chưa chú ý nhiều đến việc tự bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ của mình. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc hàng hoá Việt Nam sẽ tiếp cận những thị trường có quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ nghiêm ngặt. Nếu không nhanh chóng nhận thực các quyền và thực hiện các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của mình ở các nước thì rủi ro sẽ ập đến và kéo theo đó là thiệt hại đối với DN liên quan là rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề năng lực cạnh tranh của DN, Việt Nam còn thiếu hụt quá nhiều những nhân lực có trình độ quốc tế và đặc biệt là vấn đề bản quyền phần mềm. Mặc dù cũng đã phần nào có những tiến bộ, nếu như năm 2003, tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm của Việt Nam ở mức 96%, năm 2004 là 92% và năm 2005 xuống mức 90% thì Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới. Tiếp theo là dịch vụ sau bán hàng. Thực tế thời gian qua các DN điện tử Việt Nam đã làm rất tốt công việc này. Những công ty như điện tử Tân Bình, Biên Hòa... đã có xây dựng được một hệ thống trung tâm bảo hành rộng khắp mọi tỉnh trên toàn quốc. Công ty Điện tử Biên Hòa còn mở dịch vụ bảo hành tại nhà... nhưng chuyện khuyến mãi và quảng cáo thì rất yếu ớt. Khi mua hàng của Sam Sung, LG.... còn có các quyền lợi khác như bốc thăm trúng thưởng, mua nhiều được tặng quà, thậm chí là đổi hàng cũ lấy hàng mới. Trong khi đó, người tiêu dùng lại ít khi được thụ hưởng những CS khuyến mãi tương tự khi mua các sản phẩm điện tử của DN trong nước. Những công ty như Sam Sung, LG dám bảo hành cả màn hình ti vi chứ các DN Việt Nam không làm được như vậy. Ngay chuyện tài trợ cho Seageme 22 vừa qua cũng thế, nếu LG bỏ ra tổng chi phí từ 5-7 triệu USD, thì Công ty Điện tử Tân Bình mới chỉ chi gần 1 triệu USD. Tức là năng lực tài chính yếu hơn rõ rệt. Năng lực tài chính mạnh còn giúp các công ty này mạnh tay trong việc chi hoa hồng và bán trả chậm cho các đại lý. Nếu các DN này có thể cho đại lý mua chịu vài tỷ tiền hàng trong thời gian dài thì các DN điện tử Việt Nam chỉ có thể cho chịu tới vài trăm triệu. Bên cạnh đó đại lý cũng được hưởng hoa hồng cao hơn khi bán những sản phẩm Sam Sung hay LG, bán nhiều còn được thưởng, nên đã có sức hấp dẫn rất lớn. Một đại lý bán hàng điện tử tại phố Hai Bà Trưng Hà Nội cho biết một tháng họ bán tới 100 chiếc ti vi Sam Sung, nhưng chỉ bán chưa nổi 10 chiếc tivi của các DN trong nước. Thực tế khách hàng luôn nhận được lời khuyên từ chủ cửa hàng nên lựa chọn những sản phẩm Sam Sung hay LG... vì giá thì tương đương với hàng Việt Nam, thương hiệu nổi tiếng hơn và chất lượng cũng tốt hơn. Nhận thức về tầm quan trọng của kênh phân phối của nhiều DN còn hạn chế. Phần lớn các DN không xây dựng được mạng lưới phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Văn hóa DN, văn minh thương mại, hệ thống dịch vụ của các DN Việt Nam còn thiếu và yếu. Ngoài ra: Các DN có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu (xét về tổng thể thì 90% các DN Việt Nam có quy mô nhỏ). Hơn nữa, có quá nhiều DN cùng hoạt động kinh doanh một mặt hàng trên cùng một thị trường đã dẫn đến tình trạng năng lực cạnh tranh của các DN giảm sút. Tình trạng các DN trong nước cạnh tranh với nhau, làm giảm giá một cách không cần thiết, đặc biệt là với các mặt hàng XK đã làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của các DN. Tiềm lực về tài chính (đặc biệt là các DN tư nhân) hầu như rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các DN không có điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ kinh doanh. Khả năng liên doanh liên kết giữa các DN chưa chặt chẽ, điều đó phần nào làm giảm bớt sức mạnh của cả cộng đồng DN. Hiện nay tính liên kết của các DN viễn thông với nhau còn rất kém. Để có thể cạnh tranh được với các đối thủ nước ngoài, nhất thiết phải có một sợi dây kết nối liên kết các DN tốt hơn nữa. Xác lập sự liên kết giữa DN lớn và DN nhỏ trong việc tổ chức thị trường, tạo sức mạnh để hợp tác và cạnh tranh có hiệu quả với các tập đoàn nước ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trường. Chi phí kinh doanh còn cao, năng lực và bộ máy quản lý điều hành chưa tốt, cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý của hệ thống DNNN còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, công nghệ kinh doanh và khả năng tiếp cận đổi mới công nghệ kinh doanh còn lạc hậu,... 2.4.2.2. Từ phía nhà nước NCN điện tử Việt Nam chưa có một chiến lược phát triển cụ thể. Đầu tư cho ngành CN điện tử đã nhỏ và manh mún, lại cộng thêm với việc chưa có định hướng chiến lược nào được thông qua, khiến các DN điện tử càng gặp nhiều khó khăn. Không có chiến lược, các DN điện tử buộc phải phát triển tự phát. Nhiều DN làm ăn thua lỗ do công nghệ quá lạc hậu, sản phẩm không đủ sức cạnh tranh đã phải chuyển hướng sang sản xuất,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThực trạng và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sau khi gia nhập WTO.docx
Tài liệu liên quan