Chuyên đề Vận dụng Marketing trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VIỆC VẬN DỤNG MARKETING 3

1.1. Marketing dưới góc độ thu hút FDI 3

1.1.1. Lý thuyết Marketing hiện đại 3

1.1.2. Vận dụng Marketing trong thu hút FDI 5

1.2. Năm biến số Marketing trong thu hút FDI 6

1.2.1. Sản phẩm 7

1.2.2 Định vị 7

1.2.3 Phân loại và xây dựng khách hàng mục tiêu 9

1.2.4 Phạm vi phân phối 9

1.2.5 Truyền thông Marketing 10

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ 11

2.1. Đánh giá chung 11

2.2. Thực trạng của việc thu hút FDI ở Việt Nam 13

2.2.1. Sản phẩm 14

2.1.1.1. Hệ thống pháp luật, chính sách đang dần được cải thiện 14

2.2.1.2. Thủ tục hành chính còn nhiều bất cập. 16

2.2.1.3. Nguồn lao động dồi dào nhưng vẫn còn thiếu các lao động tay nghề cao. 16

2.2.1.4. Cơ sở hạ tầng đã cải thiện rất nhiều nhưng nhìn chung vẫn không đáp ứng được yêu cầu. 17

2.2.1.5 Ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam còn kém phát triển. 17

2.2.2. Định vị. 17

2.2.3. Phân loại khách hàng mục tiêu. 18

2.2.4. Phạm vi phân phối 22

2.2.5. Truyền thông marketing 24

2.2.5.1. Thành công trong chiến lược quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng. 25

2.2.5.2. Chúng ta đã chủ động tổ chức và tham gia các cuộc triển lãm, hội thảo đầu tư. 26

2.2.5.3. Việt Nam đã cử các đoàn xúc tiến đầu tư sang nước ngoài cũng như chuẩn bị đón tiếp các đoàn tham quan đầu tư vào nước ta khó hiệu quả. 26

2.2.5.4. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện truyền thông Marketing. 27

THÀNH ĐIỂM ĐẦU TƯ HẤP DẪN 30

3.1 Hoàn thiện sản phẩm 30

3.2. Năm bước Marketing trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 34

3.2.1 Bước 1: Phân tích tình huống 36

3.2.2 Bước 2: Phân tích cơ may và rủi ro 38

3.2.3 Bước 3: Marketing-mix ( Marketing hỗn hợp) 40

3.2.3.1 Định vị 40

3.2.3.2 Phân loại và xây dựng khách hàng mục tiêu 41

3.2.3.3 Phạm vi phân phối 42

3.2.3.4 Truyền thông Marketing 43

3.2.4 Bước bốn : Các chương trình hành động về xúc tiến đầu tư 45

3.2.5 Bước cuối cùng : Đánh giá và điều chỉnh chính sách 48

 

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vận dụng Marketing trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vào các nhà đầu tư mục tiêu, các nhà đầu tư mang tính chiến lược cũng như điều tiết các nhà đầu tư mục tiêu này vào từng địa phương sao cho lợi ích của nhà đầu tư và từng địa phương là đạt tối đa. Vì vậy các nhà đầu tư sẽ có rất nhiều cơ hội lựa chọn từng ngành nghề mà mình đầu tư để thu được lợi nhuận tối đa. Để tập trung vào các nhà đầu tư mục tiêu, Việt Nam đã phân loại các nhà đầu tư nước ngoài theo nhiều tiêu thức khác nhau, việc phân loại đó giúp chúng ta đã có những chính sách khác nhau đối với mỗi nhà đầu tư. Chúng ta có thể xem một thực trạng của một số những tiêu chí mà Việt Nam đó dựng để phân loại các nhà đầu tư. Quốc tịch của các nhà đầu tư. Trong số các quốc gia đầu tư vào Việt Nam, đến năm 2005 luồng vốn đầu tư chủ yếu vẫn đến từ các nước và vùng lãn thổ Châu Á như Đài Loan (15,7%), Singapore (15,04%), Nhật Bản (12,26%), Hàn Quốc (10,45%). Đài Loan nổi lên là một nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam trong số 71 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư. Tính đến thời điểm cuối 8/2005, Đài Loan có 1.363 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký là 7,642 tỷ USD; Tiếp theo là Singapore có 366 dự án, tổng vống đầu tư đăng ký là 7,443 tỷ USD; Nhật Bản có 549 dự án, tổng vốn đầu tư là 5,938 tỷ USD. Nếu tính trên vốn đầu tư thực hiện, Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu với số vốn đã thực hiện là 3,419 tỷ USD. Trong khi đó, đầu tư của Hoa Kỳ và EU của các năm vẫn đang ở mức thấp chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Do đó, bên cạnh những quốc gia “truyền thống” trong đầu tư vào việt nam, thì hiện nay chúng ta đang có nhu cầu thu hút mạnh vốn FDI từ các nước có nền kinh tế mạnh như: Hoa kỳ, EU và Nhật Bản. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nước (1988 – 2005) Tính tới ngày 20/12/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực STT Nước, vùng lãnh thổ Số dự án TVĐT Vốn pháp định Đầu tư thực hiện 1 Đài Loan 23.79% 15.70% 15.20% 10.90% 2 Singapore 6.67% 15.04% 12.56% 13.42% 3 Nhật Bản 9.97% 12.26% 12.51% 16.74% 4 Hàn Quốc 17.39% 10.45% 10.17% 9.14% 5 Hồng Kông 5.98% 7.32% 6.95% 7.39% 6 British 4.17% 5.25% 4.47% 4.62% 7 Pháp 2.75% 4.30% 6.00% 4.38% 8 Hà Lan 1.03% 3.85% 5.26% 6.62% 9 Malaysia 3.02% 2.97% 3.07% 3.10% 10 Hoa Kỳ 4.39% 2.88% 3.38% 2.70% Nhìn chung, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu tập trung đầu tư vào ngành công nghiệp, dịch vụ và nông lâm nghiệp, tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Cụ thể, từ năm 1998 đến năm 2005, ngành công nghiệp có 3.983 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 30,7 tỷ USD; ngành dịch vụ có 1.163 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 16,2 tỷ USD; Ngành nông, lâm nghiệp có 772 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 3,7 tỷ USD. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành nghề (1988 – 2005) Tính đến ngày 20/12/2005 - chỉ tính những dự án còn hiệu lực. Chuyên ngành Số dự án (%) TVĐT (%) Vốn pháp định (%) Đầu tư thực hiện (%) Công nghiệp 67.30% 60.69% 58.75% 68.44% Nông, lâm nghiệp 13.04% 7.38% 7.18% 6.73% Dịch vụ 19.65% 21.93% 34.07% 24.82% Tổng số 100.00% 100.00% 100.00% 100.00% Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - bộ kế hoạch và đầu tư. Mỗi địa phương đã đưa ra được cho mình những ngành nghề mũi nhọn, hứa hẹn lợi nhuận cao đối với các nhà đầu tư kèm theo đó là nhiều những ưu đãi hấp dẫn được đưa ra. Hà nội là một trong những thành phố đi đầu trong cả nước về thu hút FDI, Thủ đô luôn hoan nghênh các nhà đầu tư nhưng tập trung vào các nhà đầu tư trong lĩnh vực tài chính và dịch vụ. Tương tự, Tỉnh Vĩnh Phúc tuy khẳng định là mọi nhà đầu tư đều là nhà đầu tư mục tiêu, nhưng thực tế tỉnh khuyến khích hơn, tập trung hơn vào các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ, dịch vụ; không tập trung thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu về tỉnh không có lợi thế so sánh bằng các địa phương khác. Theo đánh giá của UNCTAD trong báo cáo Đầu tư Thế giới 2004 (Worl Investment Report 2004), thì xu hướng đầu tư toàn cầu trong những năm gần đây là hướng vào lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, Việt Nam với tư cách là nước tiếp nhận vốn đầu tư, vẫn đang trong tình trạng khó khăn trong việc khai thác đầu tư tiềm năng vào lĩnh vực dịch vụ. Theo số liệu gần đây, thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam vẫn ở mức thấp trong cơ cấu vốn đầu tư thu hút mới chỉ đạt 16,3%. Rào cản lớn nhất của đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ hiện nay chính là hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực dịch vụ chưa đồng bộ, thiếu rõ ràng thông thoáng, thậm chí mới dừng ở mức thí điểm. Bên cạnh đó, sự tham gia của khu vực tư nhân trong đầu tư và cung ứng dịch vụ hạ tầng còn nhiều hạn chế. Dạng công ty (đa quốc gia hay không đa quốc gia). Điểm đáng chú ý trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn còn thiếu vắng khá nhiều các cập đoàn xuyên quốc gia (TNCs). Đặc biệt các tập đoàn xuyên quốc gia được đánh giá vẫn còn e dè khi đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. Những tập đoàn xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam thì chủ yếu dưới hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Theo nhận xét của các chuyên gia FDI, các công ty xuyên quốc gia thường được chia là hai loại: tập đoàn xuyên quốc gia có công nghệ cao và tập đoàn xuyên quốc gia thương mại. Đối với loại thứ nhất, các nước nhận đầu tư phải nắm chính xác định hướng đầu tư của các tập đoàn, khu vực nào định xây dựng nhà máy, đầu tư R&D (nghiên cứu và triển khai) vào đâu… Các tập đoàn này thường phân công sản xuất mang tính khu vực, do đó nước nhận đầu tư có thể mời đón được việc đầu tư một số sản phẩm chủ lực, nhưng đổi lại phải mở cửa cho nhập khẩu một số sản phẩm khác. Trong khi đó, các tập đoàn xuyên quốc gia thương mai lại là thường đầu tư 10 -20% vốn vào các tập đoàn công nghệ cao, và đi cùng tập đoàn này để phân phối sản phẩm. Việc thu hút các tập đoàn xuyên quốc gia, về một khía cạnh nào đó rõ ràng đòi hỏi việc mở cửa thị trường thương mai và dịch vụ. Việt Nam sẽ sớm mở cửa các lĩnh vực dịch vụ ngân hàng và viễn thông để thu hút được các nguồn vốn từ Hoa Kỳ và Châu Âu nơi có những công nghệ và kỹ thuật cao có thể chuyển giao công nghệ mà Việt Nam đang rất cần cho phát triển. Gần đây, chính sách của Việt Nam bắt đầu quan tâm tới việc xúc tiến đầu tư trực tiếp đến các tập đoàn lớn. Đây là hướng đi đúng. Công tác xúc tiến đầu tư sẽ chủ yếu nhằm vào các tập đoàn xuyên quốc gia. Để làm được điều đó, cấp lãnh đạo cao nhất của Chính phủ đó dành nhiều thời gian hơn cho công tác xúc tiến. Những dự án được thành lập từ việc tiếp thị của lãnh đạo cao nhất được quan tâm theo dõi việc triển khai hoạt động để nếu cần có biện pháp giúp đỡ cho các dự án ấy thành công, Chính phủ cũng đã xây dựng những chính sách ưu tiên đối với tập đoàn đa quốc gia, trước mắt là trong lĩnh vực công nghệ chế tạo, công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, hoá chất và dịch vụ 2.2.4. Phạm vi phân phối Trong thuật ngữ Marketing, phạm vi phân phối là quy trình và địa điểm mà khách hàng có thể mua sản phẩm. Theo quan điểm về việc thu hút vốn FDI thì phạm vi phân phối là địa điểm mà nhà đầu tư có thể đăng ký và triển khai các dự án đầu tư tại Việt Nam. Để xem xét thực trạng phạm vi phân phối trong thu hút FDI ở Việt Nam hiện nay, chúng ta nên phân chia ra làm hai giai đoạn cụ thể: Giai đoạn 1: Việt Nam đưa ra địa điểm mà các nhà đầu tư đến để đăng ký đầu tư. Thực hiện chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới, việc phân cấp thực hiện đầu tư đã được tiến hành mạnh mẽ. Trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc phân cấp này được giao trách nhiệm cho các địa phương, các quản ban quản lý công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Chẳng hạn, trước đây các nhà đầu tư có vốn đến 5 triệu USDđược giao cho các địa phương cấp phép. TP Hồ Chí Minh hay Hà Nội nay đã được quyết định đầu tư các dự án lớn hơn. Ban quản lý các khu công nghiệp được quyết định các dự án có vốn đầu tư đến 40 triệu USD. Nhờ vậy, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Trong dự thảo luật đầu tư mới sẽ được Quốc hội xem xét, phần lớn chỉ còn có đăng ký đầu tư với quy trình đơn giảm và thời gian ngắn, quy mô đầu tư phải xem xét được nâng lên mức cao. Chỉ với dự án lớn, có vốn lên đến khoảng 20 triệu USD, chiếm chứng 2% doanh nghiệp mới cần phải thẩm định. Sẽ tăng cường khuyến khích đầu tư bằng biện pháp hậu kiểm và các thủ tục thẩm định cũng được làm đơn giản hơn. Các vấn đề tranh chấp cũng được xử lý theo thông lệ quốc tế. Hiện nay, các nhà đầu tư có thể đăng ký đầu tư tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân thành phố, các khu công nghiệp tuỳ thuộc vào khối lượng đầu tư và ngành đầu tư. Chính phủ đã tập trung hoàn thiện cơ chế một cửa ở các cơ quan cấp phép và quản lý đầu tư và đã cải thiện đáng kể quy trình cấp giấy phép đầu tư. Các địa phương cũng đã có những cải thiện đáng kể trong quy trình cấp giấy phép đầu tư: Nếu các nhà đầu tư muốn đầu tư vào Hà Nội, thì tuỳ từng tính chất và mức độ ưu tiên khác nhau của từng dự án đầu tư mà việc cấp phép đầu tư là nhanh hay chậm, đối với dự án thuộc diện đặc biệt khuyến khích thì các nhà đầu tư chỉ phải đợi 7 ngày là có giấy phép đầu tư, 15 ngày để có được giấy phép đầu tư nếu dự án thuộc diện khuyến khích, cuối cùng con số 21 ngày là con số dài nhất mà nhà đầu tư phải chờ khi dự án củamình không thuộc hai diện trên. (Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, 2004). Một số địa phương khác việc rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư có thể được xem như một nét ưu thế riêng của mình, điều này được nhắc tới như tại khu công nghiệp Việt Nam - Singapore ở Bình Dương các nhà đầu tư chỉ phải mất 7 ngày để có giấy phép đầu tư với bất kể dự án đó thuộc ngành nào. Thậm chí đã có địa phương thí điểm cấp phép qua mạng, khiến việc cấp phép đầu tư được nhanh chóng hơn. Mặc dù Việt Nam đã cải thiện đáng kể về công tác tuyên truyền đầu tư cũng như đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư. Tuy nhiên, các nhà đầu tư khi có mặt tại Việt Nam vẫn phàn nàn rằng chính sách của Chính phủ vẫn thiếu ổn định và không rõ ràng. Thủ tục cấp giấy phép đầu tư “một cửa”. Chính phủ đó hoàn thiện, song các nhà đầu tư cho rằng Việt Nam đang thực hiện chính sách “một cửa” nhưng trên cửa đó có nhiều “ổ khoá”, đây là bất cập vẫn đang tồn tại tại Việt Nam. Giai đoạn 2: Hỗ trợ đầu tư Quá trình đầu tư không chỉ dừng lại ở việc nhận giấy phép đầu tư, hay nói một cách khác đi việc nhận giấy phép đầu tư chỉ là bước đàu tiên trong việc triển khai một dự án đầu tư. Sau khi có được giấy phép kinh doanh rồi các nhà đầu tư muốn thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình và thu được lợi nhuận, trong quá trình này các nhà đầu tư cần được tiếp tục nhận được sự hỗ trợ giúp đỡ của Chính phủ cũng như địa phương về cơ chế chính sách các thủ tục hành chính được gọi là các dịch vụ sau đầu tư. Dịch vụ sau đầu tư của chúng ta sẽ hỗ trợ cho các nhà dự án đầu tư trong việc giải toả mặt bằng, thuế, thủ tục báo cáo, thủ tục hải quan… Tất nhiên, đây là sự trợ giúp chứ không phải gây khó khăn, phiền hà cho các nhà đầu tư. Vậy Việt Nam đã đáp ứng được dịch vụ sau đầu tư này đến đâu? Do nắm bắt được tâm lý này của các nhà đầu tư, chúng ta đã từng bước hoàn thiện cơ chế, thủ tục pháp lý hỗ trợ tích cực các nhà đầu tư từ khâu giải toả mặt bằng cho tới khi dự án đó đưa vào hoạt động và đem lại hiệu quả cho cả hai phía. Một bước tiến quan trọng của chúng ta, đó là việc xây dựng một khung chính sách rõ ràng, mạch lạc bao gồm: một quy hoạch công nghiệp tổng thể, các quy hoạch ngành và kế hoạch thực hiện các chính sách hỗ trợ. Chính phủ phân định rõ thẩm quyền từ cấp Trung ương và địa phương, phân công rõ trách nhiệm giữa các Bộ, ngành trong việc quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài, mở rộng chế độ đăng ký, chế độ cấp phép đầu tư phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết, các điều ước quốc tế. Hỗ trợ những khó khăn, vướng mắc của các dự án của các doanh nghiệp FDI nói riêng trong quá trình hoạt động. Đồng thời, tăng cường các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp FDI đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, do dịch vụ này là khá mới mẻ đối với nước ta, cho nên việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn chưa đựng nhiều hạn chế, nhiều yếu kém tồn tại không chỉ trong một bộ ban ngành mà còn ở nhiều cơ quan Nhà nước khác. Chẳng hạn, theo các nhà quản lý cao cấp ở một công ty tiếp vận quốc tế cho rằng: thủ tục hải quan ở Việt Nam còn nhiều phức tạp. Hơn nữa, giờ làm việc chỉ đến 4.30 chiều, trên thế giới dịch vụ hải quan là dịch vụ 24 giờ/ngày. Chắc chắn trong giai đoạn hoàn thiện tiếp theo, Chính phủ sẽ có nhiều biện pháp cải cách hệ thống hải quan ở Việt Nam, nhằm đáp ứng cho hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng. 2.2.5. Truyền thông marketing Theo quan điểm của Marketing thì phạm vi truyền thông là cách thức và địa điểm mà thông điệp định vị được gửi tới các khách hàng mục tiêu. Việc phân loại các nhà đầu tư theo nhiều nhóm khác nhau, giúp chúng ta sàng lọc ra được những khách hàng mục tiêu, việc cần thiết bây giờ là Việt Nam đưa ra các chương trình truyền thông mang thông điệp về môi trường đầu tư truyền tải tới các nhà đầu tư mục tiêu. Một số quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Singapore đã xây dựng được hình ảnh rõ ràng về địa điểm đầu tư. Các quốc gia này giờ không còn tập trung vào việc tạo dụng hình ảnh nữa mà thay vào đó là tập trung tạo nguồn đầu tư như Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng Đầu tư Thái Lan (BOI) và Hội đồng Phát triển kinh tế Singapore. Đối với Việt Nam, hình ảnh đầu tư chưa rõ ràng và gây nhiều tranh cãi cho nên Việt Nam vẫn đang nỗ lực tạo dựng hình ảnh về môi trường đầu tư. Bên cạnh việc hoàn thiện hình ảnh về môi trường đầu tư, Chính phủ đang tăng cường công tác vận động xúc tiến đầu tư nhằm vào các địa bàn trọng điểm, các đối tác trọng điểm, các dự án công nghệ cao thuộc các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, Chính phủ đồng thời cũng triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham dự Diễn đàn hợp tác Đầu tư và Triển lãm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đó là: “Mọi thứ đã tốt hơn rất nhiều và sẽ còn tốt hơn nữa, hãy đến đây để đầu tư và làm ăn” (Câu nói của Phó chủ tướng Vũ Khoan trong cuộc trao đổi về những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Chính phủ Việt Nam). Để hiểu kỹ hơn về thực trạng của công tác truyền thông của Việt Nam chúng ta sẽ cùng đi sâu tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực truyền thông Marketing. 2.2.5.1. Thành công trong chiến lược quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chúng ta đã tận dụng được hệ thống thông tin toàn cầu để quảng bá hình ảnh của đất nước và các dự án mà mỗi ngành, mỗi địa phương khuyến khích đầu tư. Có thể nói Việt Nam đã sử dụng khá hiệu quả thế mạnh của các phương tiện truyền thông trong nước cùng với báo, đài nước ngoài tuyên truyền, quảng bá cho quá trình xúc tiến đầu tư của Việt Nam. Hiện tượng tuyên truyền thông tin được đánh giá là có thể gây ra hiệu ứng Domino trong các nhà đầu tư nước ngoài. Tức là, khi môt nhà đầu tư đến sản xuất kinh doanh ở nước sở tại và thu được lợi nhuận cao, ngay lập tức họ sẽ tuyên truyền về môi trường đầu tư của nước đó cho các doanh nghiệp khác đang có nhu cầu mong muốn đầu tư hay thông tin về một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm ăn hiệu quả được chúng ta truyền lên các phương tiện thông tin đại chúng, tất cả những việc làm trên sẽ giúp cho Việt Nam có thêm những khách hàng mới - những nhà đầu tư mới. Mà theo như cách tiếp cận về Marketing thì chi phí để duy trì khách hàng thường xuyên. Do đó, việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá cho việc xúc tiến đầu tư trong nước là một việc làm hết sức cần thiết, đạt hiệu quả cao. Hiện nay, ở Việt nam chúng ta đã kết hợp rất chặt chẽ giữa các kênh truyền thông như: đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, băng đĩa, Internet… với sự tham gia trả lời phỏng vấn trực tiếp, gián tiếp của các tổ chức có thẩm quyền, các cơ quan của Chính phủ và các cá nhân liên quan. Điều này, đã cung cấp thông tin một cách đầy đủ về lợi ích đem lại cho các nhà đầu tư từ chính môi trường đầu tư của Việt Nam. 2.2.5.2. Chúng ta đã chủ động tổ chức và tham gia các cuộc triển lãm, hội thảo đầu tư. Thứ nhất: Chính phủ đã xây dựng được danh mục các dự án kêu gọi đầu tư vào Việt Nam. Đây là điều đầu tiên mà Chính phủ Việt Nam cần đưa ra trước khi tham gia bất cứ một hội thảo đầu tư nào. Điều này sẽ chỉ ra cho các nhà đầu tư biết họ được phép đầu tư vào các ngành các lĩnh vực nào? Cùng với tính cấp thiết của mỗi dự án mà họ đang có ý định đầu tư đó, họ sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi đầu tư được xem là một trong những công việc tốn nhiều công sức và thời gian của bộ phận vận động đầu tư. Bản danh mục này được phía công tác xúc tiến đầu tư của chúng ta dịch ra làm nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Nhật… Nó được trình bày một cách khá công phu, đựp mắt, nhằm gây chú ý mạnh đến các nhà đầu tư mục tiêu. Thứ hai: Tiến hành các Hội nghị xúc tiến đầu tư ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh và ở một số địa phương khác: Trong năm 2004, việc tổ chức thành công hội nghị cấp cao Á – Âu lần thứ 5 tại Hà Nội đã gây nên tiếng vang lớn đối với bạn bè quốc tế đặc biệt việc tổ chức thành công Diễn đàn hợp tác, Đầu tư và Triển lãm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Việt nam Forinvest 2005) đã thu hút mối quan tâm của hàng trăm các nhà đầu tư, công ty lớn của nước ngoài, góp phần quảng bá hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bên cạnh đó, việc tăng cường đối thoại với các nhà đầu tư của Chính phủ được cộng đồng các nhà đầu tư đánh giá tích cực. Nhiều hội nghị về đầu tư nước ngoài cũng được tổ chức ở các địa phương với sự tham gia của các bộ, ngành. Các diễn đàn quan trọng đó đã tạo điều kiện để các nhà đầu tư trực tiếp đối thoại với các cơ quan của Chính phủ. Qua đó đã kịp thời phát hiện và khắc phục những khó khăn vướng mắc từ phía các nhà đầu tư. 2.2.5.3. Việt Nam đã cử các đoàn xúc tiến đầu tư sang nước ngoài cũng như chuẩn bị đón tiếp các đoàn tham quan đầu tư vào nước ta khó hiệu quả. Đây là công việc đặc biệt quan trọng của các nước dang tìm kiếm các nhà đầu tư cũng như các nhà đầu tư tham dò môi trường đầu tư của một quốc gia mà họ dự định đến đầu tư. Tuy nhiên, việc gửi các đoàn ra nước ngoài của Việt Nam không có những địa chỉ cụ thể để vận động đầu tư. Sau đây, để nhìn nhận một cách cụ thể thực trạng của các đoàn khảo sát Việt Nam ra nước ngoài chúng tôi sẽ điểm qua một vài chuyến thăm của phái đoàn xúc tiến đầu tư Việt Nam tới các nước bạn và ngược lại: Chuyến sang thăm Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ Việt Nạm Phan Văn Khải vào hồi tháng 4/2003 có thể nói là cái mốc quan trọng cho thấy Việt nam chú trọng thu hút FDI của Nhật Bản trong giai đoạn tiếp theo. Đầu năm 2004, ông Lee Kwan trưởng phòng phát triển kinh doanh của tập đoàn CIID Crop (Tập đoàn phát triển công nghiệp quốc tế Trung Quốc) của Đài Loan, đến thăm hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Đài Loan đang đầu tư tại Việt nam để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Tập đoàn này đã có kinh nghiệm nhiều thập kỷ trong kinh doanh ở Đài Loan, Trung Quốc và Thái Lan, ở đó tập đoàn xây dựng những khu công nghiệp với hạ tầng cơ sở hiện đại, sau đó thu hút các nhà đầu tư đến để thuê đất sản xuất kinh doanh. Ông cho biết hiện nay tập đoàn đã đầu tư vào Trung Quốc tới con số khổng lồ, tuy nhiên để tránh rủi ro trong kinh doanh thì cần đa dạng hoá đầu tư vào các quốc gia khác có lợi thế trong khu vực, Việt Nam được nhắc đến như là một sự lựa chọn tối ưu. Theo hội đồng quản trị của công ty, đồng bằng Bắc bộ có vẻ như là một địa bàn hấp dẫn để tranh rủi ro. Chính vì thế, ông quyết định đi tìm hiểu môi trường đầu tư của các tỉnh trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ, cuối cùng điểm dừng chân của tập đoàn này được nhắm vào tỉnh Bắc Ninh. Vừa qua một đoàn doanh nhân Nhật Bản gồm chủ tịch, giám đốc của 16 công ty đang hoạt động trong nhiều lĩnh vực đã đến thành phố Đà Nẵng để khảo sát cơ hội đầu tư, mở rộng hoạt động trao đổi thương mại và công nghệ thông tin. Ông Ken Takagi, chủ tịch công ty tư vấn kỹ thuật Nippon (Nippon Engineering Consultants Co.Ltd), trưởng đoàn, cho biết chính sự phục hội của nền kinh tế Nhật và sự cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam là lý do đưa đoàn doanh nhân Nhật đến với Đà Nẵng. Theo ông, miền Trung Việt Nam rất có lợi thế về vị trí địa lý nên được các doanh nghiệp Nhật rất quan tâm sau khi họ thành công tại miền Bắc. Cùng quan điểm như vậy, ông Jun Yotsu, đại diện Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật (JBIC), công bố một kết quả thăm dò Việt Nam địa chỉ kinh doanh hấp dẫn thứ 4 sau Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia. Có 30% số doanh nghiệp được hỏi cho biết họ đã có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam trong 3 năm tới, còn 70% còn lại đã có dự định đầu tư nhưng còn tính kế hoạch cụ thể. 2.2.5.4. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện truyền thông Marketing. Điều này xuất phát từ sự yếu kém trong kỹ năng làm việc, yếu kém trong khả năng tổ chức hội thảo, từ sự hạn chế trong trình độ của các thành viên đoàn khảo sát, từ sự thiếu đồng bộ trong việc lập kế hoạch xúc tiến đầu tư, từ những thông đẹp không đồng bộ do các tỉnh tự đưa ra nhằm cạnh tranh với nhau… Do đó, đã dẫn đến việc các nhà đầu tư tiềm năng phải nghe những thông điệp không thống nhất từ các phái đoàn vận động đầu tư của Bộ kế hoạch và Đầu tư cũng như của các địa phương. Việc thiết kế các tài liệu xúc tiến đầu tư, chưa thoả mãn được lợi ích, nhu cầu của nhà đầu tư. Thành phần các đoàn khảo sát đầu tư đang tồn tại nhiều vấn đề, chẳng hạn như một phái đoàn xúc tiến đầu tư ở địa phương sang làm việc ở nước ngoài bao gồm: Chủ tịch hay Phó chủ tịch tỉnh và đại diện từ các Văn phòng Uỷ ban, Sở kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính… trong số các thành viên tham gia khảo sát này thì một số thành viên không hiểu rõ vai trò của mình trong công tác xúc tiến đầu tư. Khi hội nghị, hội thảo kết thúc một trong những công việc cần thiết phải thực hiện là các hoạt động sau hội thảo nhằm tiếp tục tìm hiều và kích thích nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư tiềm năng. Thay vì phài cử người trực tiếp chủ động liên lạc lại, trợ giúp các nhà đầu tư thì thực tế chúng ta chỉ thường cung cấp danh thiếp và địa chỉ liên lạc sau mỗi kỳ gặp mặt. Tài liệu truyền thông không đầy đủ. Do thiếu thông tin về các nhà đầu tư, các phái đoàn Việt Nam thường có xu hướng trình bày nhiều về các thông tin không hữu ích và cung cấp ít các thông tin thực sự có ích cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn, một bài trình bày kêu gọi đầu tư điển hình thường bao gồm các số liệu về kinh tế, các thống kê về FDI, ODA, thương mại và du lịch. Thông tin về quan hệ song phương giữa Việt Nam với các quốc gia đang ghé thăm cũng được trình bày như hình thức đầu tư, số lượng các dự án đầu tư, số lượng việc làm được tạo ra từ các dự án đầu tư,… Các thông tin này cũng cần thiết cho các nhà đầu tư theo cách này hay cách khác song các nhà đầu tư cần thông tin đặc thu hơn, như: Họ có thể bắt đầu kinh doanh như thế nào? Những sự hỗ trợ, giúp đỡ cụ thể nào mà họ nhận được? Chính phủ sẽ giải quyết những khó khăn như thế nào khi nó phát sinh… Các thông tin cụ thể này lại không được đề cập đầy đủ trong các tài liệu vận động đầu tư. Bên cạnh đó, chúng ta chưa đưa ra được lợi thế so sánh của Việt Nam với các quốc gia trong khu vực, điển hình là Trung Quốc, Thái Lan và Singapore đến với các nhà đầu tư. Điều chúng ta cần là chỉ ra cho các nhà đầu tư thấy rằng việc lựa chọn Việt Nam là điểm đến trong đầu tư là việc làm cân thiết, đúng đắn và tối ưu khi mà Việt Nam có những lợi thế mà không phải quốc gia nào cũng trong khu vực cũng có được đây là một trong những thông tin mà nhà đầu tư thực sự muốn tìm hiểu, chính vì thế chúng ta đã bỏ phí đi một cơ hội để chính minh cho các nhà đầu tư thấy những lợi thế ưu việt của Việt Nam. Trong khi đó các cơ quan xúc tiến đầu tư lại quá chú trọng vào việc tình bày về đất nước, về chính sách và tiềm năng của mình, điều này vừa quá thừa và cũng lại vừa quá ít. Trong những năm qua Việt Nam đó thu được nhiều thành tựu đáng kể trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Qua đó chúng ta đã tạo được nhiều việc làm hơn tăng thu nhập cho người lao động và giúp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện - đại hoá đất nước. Tuy nhiên một vấn đề đặt ra đó là lượng vốn đầu tư mà chúng ta thu hút được chưa xứng với tiềm năng của đất nước. Trong chương này chúng ta đã tìm hiểu những nguyên nhân chính cho hiện trạng đó. Vậy Việt Nam sẽ làm gỡ để khắc phục những hạn chế trên? Những chương trình hành động nào được Chính phủ cũng như các địa phương quan tâm thực hiện? Giải pháp tổng thể nào cho một chiến lược xúc tiến đầu tư hiệu quả? Những câu hỏi trên sẽ lần lượt được trình bày một cách cụ thể trong chương sau. Đó là chương mà các lý thuyết căn bản của Marketing sẽ được vận dụng một cách cụ thể và khoa học nhằm đưa ra những giải pháp để thu hút hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP ĐƯA VIỆT NAM THÀNH ĐIỂM ĐẦU TƯ HẤP DẪN Để có một chiến lược Marketing hiệu quả trước hết phải có một sản phẩm hoàn thiện.Marketing là cách đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng, giúp cho khách hàng thấy được những lợi ích mà họ có thể có khi tiêu dùng sản phẩm đó. T

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32669.doc
Tài liệu liên quan