Chuyên đề Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình vốn đầu tư thực hiện của tỉnh Thái Bình trong giai đoạn 2000-2007

Mục lục

Lời mở đầu 1

Chương 1: Một số vấn đề chung về thống kê đầu tư 3

1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đầu tư 3

1.1.1 Khái niệm đầu tư 3

1.1.2 Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển 4

1.1.3 Nội dung của hoạt động đầu tư phát triển và vốn đầu tư cho loại đầu tư này 5

1.1.4 Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế 7

a, Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế 7

b, Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ 16

c, Đối với các cơ sở vô vị lợi 16

1.2 Khái niệm, nội dung, phân loại vốn đầu tư 16

1.2.1 Khái niệm và nội dung vốn đầu tư 16

1.2.2 Phân loại vốn đầu tư 18

1.3 Các nguồn hình thành vốn đầu tư 18

1.3.1 Nguồn vốn trong nước 18

a, Nguồn vốn nhà nước 18

b, Nguồn vốn từ khu vực tư nhân 21

c, Thị trường vốn 22

1.3.2 Nguồn vốn nước ngoài 23

a, Nguồn vốn ODA 23

b, Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế. 25

c, Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 26

d, Thị trường vốn quốc tế 27

1.4 Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng 29

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng 29

1.4.2 Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu thống kê đầu tư và xây dựng 30

1.5 Tình hình chung về vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam 31

1.5.1 Mục tiêu 31

1.5.2 Thực trạng 32

1.6 Hệ thống chỉ tiêu thống kê vốn đầu tư 33

1.6.1 Quy mô (khối lượng) vốn đầu tư 33

1.6.2 Cơ cấu vốn đầu tư 33

a, Cơ cấu vốn đầu tư theo nội dung của vốn 33

b, Cơ cấu vốn đầu tư theo phân cấp quản lý 35

c, Cơ cấu vốn đầu tư theo đối tượng đầu tư 35

d, Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn 36

e, Cơ cấu vốn đầu tư theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư. 36

Chương 2: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình vốn đầu tư tỉnh Thái Bình giai đoạn 2000-2007 37

2.1 Khái quát về tỉnh Thái Bình 37

2.1.1 Vị trí địa lý 37

2.1.2 Tiềm năng 37

2.2 Thực trạng vốn đầu tư phát triển và sử dụng vốn của tỉnh 38

2.3 Vận dụng một số phương pháp phân tích 40

2.3.1 Phân tích tổng vốn đầu tư của tỉnh giai đoạn 2000-2007 40

a, Mức độ trung bình qua thời gian của quy mô tổng vốn đầu tư 40

b, Phân tích tổng vốn đầu tư dựa vào lượng tăng (giảm) tuyệt đối 40

c, Phân tích tổng vốn đầu tư dựa vào tốc độ phát triển 42

d, Phân tích tổng vốn đầu tư dựa vào tốc độ tăng (hoặc giảm) 43

e, Giá trị tuyệt đối 1% của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn. 44

f, Phân tích quy mô tổng vốn bằng phương pháp hồi quy 47

2.3.2 Phân tích cơ cấu vốn đầu tư 48

a, Phân tích cơ cấu vốn đầu tư chia theo nguồn vốn 48

b, Phân tích vốn đầu tư chia theo khoản mục đầu tư 53

c, Phân tích cơ cấu vốn đầu tư chia theo thành phần kinh tế 55

d, Phân tích mối quan hệ giữa vốn đầu tư và GDP của tỉnh giai đoạn 2000-2007 60

2.4 Một số kết luận và kiến nghị 62

2.4.1 Kết luận 62

2.4.2 Kiến nghị 64

Kết luận 66

 

 

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình vốn đầu tư thực hiện của tỉnh Thái Bình trong giai đoạn 2000-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng việc phát hành các loại chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái….Xét về mặt kinh tế, hình thức huy động vốn này của nhà nước là rất tích cực. Nó góp phần vào việc kiềm chế lạm phát do chính phủ không phải phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu quả, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Trên thị trường vốn, bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do vậy người sử dụng vốn phải quan tâm đến việc sinh lợi của mỗi đồng vốn. Thị trường vốn nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng không chỉ được coi là một kênh huy động vốn của nền kinh tế mà nó còn góp phần tích cực trong việc khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và sự lãng phí trong quá trình sử dụng vốn của toàn xã hội. Nguồn vốn nước ngoài Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows).Thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính thức như sau: - Tài trợ phát triển chính thức (ODF – official development finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA – official development assistance) và các hình thức tài trợ phát triển khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF. - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Thị trường vốn quốc tế. Nguồn vốn ODA Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%. Yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác định dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời hạn ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Công thức tính tỷ lệ yếu tố không hoàn lại (GE) như sau: Trong đó: r - Tỷ lệ lãi suất hàng năm a - Số lần trả nợ trong năm d - Tỷ suất chiết khấu G - Thời gian ân hạn M - Thời hạn cho vay. Thời gian qua, việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Kể từ 1993 tới hết năm 2006, Việt Nam đã tổ chức được 14 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ với tổng số vốn cam kết là hơn 36 tỷ USD. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay ở Việt Nam có trên 45 đối tác hợp tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đang hoạt động. Trong số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm cả viên trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15-20% và phần chủ yếu còn lại là vay ưu đãi. Số vốn ODA cam kết này được sử dụng trong nhiều năm, tuỳ thuộc vào thời hạn của các chương trình và dự án cụ thể. Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ 2006-2010, Chính phủ Việt Nam tiếp tục chủ trương huy động mọi nguồn vốn, trong đó, nguồn vốn ODA thực hiện dự kiến khoảng 11-12 tỷ USD. Trong 5 năm 2006-2010 chiếm khoảng 80% tổng ODA cam kết. Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viên trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này còn hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế. Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), trong năm 1999 toàn bộ các nước đang phát triển chỉ thu hút được 165 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì chỉ riêng Hoa Kỳ (nước thu hút vốn nước ngoài lớn nhất thế giới) đã thu hút được mức 132,8 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư. Đối với Việt Nam, sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã từng bước đóng góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông…. Tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, trên phạm vi cả nước đã có hàng nghìn dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là hơn 75 tỷ triệu USD. Trong giai đoạn 2001- 2006 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm trung bình khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư dưới các hình thức khác nhau. Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Hàng năm, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt doanh thu khoảng hàng chục tỷ USD (chưa kể dầu thô), trong đó giá trị xuất khẩu chiếm khoảng 35% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đặc biệt nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông… Bước đầu hình thành được các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá các khu vực phát triển, hình thành các khu dân cư mới, tạo việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương. Cho đến nay, khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài cũng đã thu hút khoảng 87 vạn lao động góp phần đáng kể cho việc tạo thêm công ăn việc làm cho nền kinh tế. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, với môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện theo thông lệ quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tiếp tục là một nguồn vốn quan trọng và có tỷ trọng đáng kể trong tổng các nguồn vốn đầu tư của Việt Nam. Thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm qua tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng nguồn vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các nguồn vốn khác. Tính từ đầu những năm 1970 đến cuối những năm 1990 của thế kỷ 20, vốn đầu tư trực tiếp của các nước nhóm G7 chỉ tăng 30 lần, trong khi đầu tư chứng khoán tăng khoảng 200 lần. Riêng trong thập kỷ 1990, giá trị cổ phiếu mà các nước công nghiệp phát triển đã phát hành trên thị trường vốn quốc tế đã tăng 6 lần đạt khoảng 4 ngàn tỷ USD. Trong những năm gần đây, dòng vốn này đã và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào châu Á đã tăng gấp ba lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD. Năm 2005, dòng vốn đầu tư cổ phần gián tiếp đạt 42,3 tỷ USD vượt qua con số kỷ lục được lập trong năm 2004 là 35,3 tỷ USD. Riêng khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã thu hút được gần 30 tỷ USD. Được đánh giá là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới Châu Á hiện vẫn là nơi thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp đáng kể và có xu hướng ngày càng gia tăng. Đối với Việt Nam, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng được chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ta nước ngoài cũng đã và đang được triển khai. Năm 2005, chính phủ Việt Nam đã phát hành đợt trái phiếu đầu tiên trên thị trường trái phiếu Hoa Kỳ với kết quả được đánh giá là khá thành công. Để phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế Việt Nam phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng. Lựa chọn cẩn thận loại hình trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn, thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hơn nữa, cũng cần cân nhắc thận trọng giữa việc huy động vốn khác như đầu tư trực tiếp và vay nợ qua hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng đề án cho việc phát hành trái phiếu, Việt Nam cũng cần phải xây dựng một kế hoạch chi tiết cho việc sử dụng vốn huy động có hiệu quả. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng Đối tượng nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng Thống kê đầu tư và xây dựng là một bộ phận của thống kê học, có đối tượng nghiên cứu là các quy luật số lượng của các hiện tượng kinh tế - xã hội số lớn diễn ra trong lĩnh vực hoạt động đầu tư và xây dựng cơ bản trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Đối tượng nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng là các quy luật số lượng có nghĩa là: + Thống kê đầu tư và xây dựng nghiên cứu mặt lượng trong sự liên hệ mật thiết với mặt chất của hiện tượng. + Thống kê đầu tư và xây dựng dùng con số, số lượng để biểu hiện bản chất và tính quy luật của các hiện tượng. + Con số trong thống kê đầu tư và xây dựng luôn là con số có nội dung kinh tế cụ thể, gắn với các nội dung kinh tế cụ thể. Do đó, để tạo ra các con số thống kê chính xác thì cần hiểu đúng nội dung kinh tế của các con số đó, và để sử dụng đúng các con số thống kê thì cần đọc, hiểu đúng các nội dung của các con số thống kê mà họ sẽ sử dụng. Đối tượng nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng là các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực hoạt động đầu tư và xây dựng. Thống kê đầu tư và xây dựng không nghiên cứu các hiện tượng xảy ra trong các lĩnh vực khác, chỉ xem xét ảnh hưởng tương hỗ giữa các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực đầu tư – xây dựng với các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực khác mà thôi. Hoạt động đầu tư và xây dựng có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế. Nó liên quan đến việc tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân, liên quan đến tái sản xuất mở rộng nền kinh tế quốc dân. Nội dung hoạt động đầu tư – xây dựng: Đầu tư là việc bỏ vốn nhằm duy trì và tạo ra những năng lực sản xuất mới để thu được một kết quả nào đó về các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội…. Xây dựng là hoạt động nhằm tái sản xuất (giản đơn và mở rộng) tài sản cố định bao gồm các hoạt động: thăm dò, thiết kế, dự toán, xây lắp. Ngành xây dựng là một ngành kinh tế quốc dân có chức năng thực hiện tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Cùng với sự phát triển quy mô đầu tư – xây dựng ngày càng gia tăng. Các hình thức tổ chức kinh doanh xây dựng: tái sản xuất tài sản cố định có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác: giao thầu, tự làm. Đặc điểm của hoạt động và sản phẩm xây dựng: ngoài các đặc trưng chung của tài sản cố định, sản phẩm xây dựng có đặc điểm cơ bản là cố định trước, trong và sau quá trình sản xuất, giá trị lớn, chu kỳ sản xuất dài. Sản xuất xây dựng có các đặc điểm cơ bản là di dộng, chu kỳ sản xuất dài, mang tính thời vụ. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu thống kê đầu tư và xây dựng Nhiệm vụ: thống kê đầu tư và xây dựng Việt nam có nhiệm vụ chung là phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng và phát triển đất nước. Nhiệm vụ cơ bản của công tác thống kê đầu tư và xây dựng là đảm bảo cung cấp các số liệu thống kê khoa học, chính xác, kịp thời cho Đảng và Nhà nước để quyết định những đường lối chính sách, lập và kiểm tra hoàn thành kế hoạch ngăn ngừa và có biện pháp khắc phục các hiện tượng mất cân đối. Đồng thời, khai thác được những năng lực tiềm tàng, đẩy mạnh sự phát triển sản xuất với hiệu quả kinh tế cao. Phương pháp nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng. Trong điều tra Các hình thức tổ chức điều tra: có hai hình thức tổ chức điều tra: Báo cáo thống kê định kỳ và điều tra chuyên môn. Đơn vị báo cáo được xác định phụ thuộc vào phương thức sản xuất xây dựng - Trong phương thức giao - nhận thầu (tách người đầu tư (A) và người xây dựng (B). - Trong phương thức tự làm (không tách người đầu tư (A) và người xây dựng (B)) một đơn vị thực hiện cả hai chức năng trên. Trong tổng hợp và phân tích Thống kê đầu tư và xây dựng vận dụng các phương pháp của thống kê học như phân tổ, chỉ số, hồi quy- tương quan, dãy số thời gian… Thống kê đầu tư và xây dựng cũng khuyến khích sử dụng các phương tiện tính toán hiện đại như máy vi tính….. Tình hình chung về vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam Mục tiêu Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng này nên trong chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm Đảng và Nhà nước đều đưa mục tiêu tăng lượng vốn đầu tư và coi là một trong mười mục tiêu tổng quát nhất. Mục tiêu của nước ta là phát triển kinh tế tiến tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, cụ thể là: Công nghiệp đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn để phát triển. Định hướng là đầu tư cho công nghiệp cơ bản, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ để giảm tính gia công của sản xuất từng bước phát triển để sản phẩm xuất khẩu của nước ta ít bị lệ thuộc vào giá cả và thị trường nguyên liệu thế giới, nâng cao giá trị ngành công nghiệp. Dịch vụ được chú trọng đầu tư để nâng cao tỷ trọng trong GDP. Đây là một ngành công nghiệp không khói ngày càng chiếm một tỷ trọng cao trong GDP của các nước công nghiệp phát triển. Nó đóng góp rất lớn vào GDP nên phải được đầu tư tương xứng đặc biệt trong điều kiện nước ta rất có tiềm năng nên phải có biện pháp khai thác tốt. Nông – lâm - thuỷ hải sản: chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm tỷ trọng của ngành này trong GDP nhưng phải nâng cao giá trị sản phẩm của ngành. Cần phải đầu tư cải tiến kỹ thuật, chuyển đổi mô hình nuôi và trồng sao cho đạt hiệu quả để nâng cao chất lượng sản phẩm của ngành thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm. Thực trạng B1: Bảng số liệu vốn đầu tư của Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2007 (tỷ đồng) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Vốn đầu tư 129460 147993 166814 189319 213931 243306 306100 (số liệu từ niên giám thống kê Việt Nam năm 2007) Vốn đầu tư phát triển của cả nước ngày một gia tăng cả về lượng tuyệt đối cũng như tỷ lệ lượng vốn đó so với GDP, điều này phù hợp với thực tế nước ta. Nước ta vừa mới gia nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội mới để thu hút vốn đầu tư phát triển, đặc biệt là lượng vốn FDI. Cụ thể là năm 2006 thu hút được 12 tỷ USD, năm 2007 là 21,3 tỷ USD, năm 2008 là 64 tỷ USD đã giải ngân được 11 tỷ USD. Tuy nhiên trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay, các nhà đầu tư đánh giá lại chiến lược kinh doanh, nhiều dự án đã được cấp phép sẽ bị dãn tiến độ, thu hẹp quy mô và có thể không thực hiện được nên dự kiến lượng vốn này trong vài năm tới sẽ giảm ảnh hưởng đến tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước sẽ giảm theo. Tuy nhiên,theo một số tính toán của các nhà kinh tế thì số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57% cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%; năm 2005 đạt 40,9%; năm 2006 đạt 41%; năm 2007 đạt 40,4% và kế hoạch năm 2008 còn cao hơn nữa lên đến 42%). Đây là một tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới. Hệ thống chỉ tiêu thống kê vốn đầu tư Quy mô (khối lượng) vốn đầu tư Khái niệm: Khối lượng vốn đầu tư là chỉ tiêu tổng hợp tính bằng tiền theo giá trị dự toán, phản ánh chi phí để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất - kỹ thuật thông qua việc xây dựng nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, lắp đặt các thiết bị máy móc trên nền bệ, thiết bị tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác cần thiết để các cơ sở vật chất - kỹ thuật có thể hoạt động được. Như vậy, khối lượng vốn đầu tư là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ, tính theo đơn vị giá trị. Chỉ tiêu khối lượng vốn đầu tư phản ánh tổng hợp toàn bộ kết quả hoạt động đầu tư, tình hình tái sản xuất các cơ sở vật chất - kỹ thuật tiềm năng kinh tế của đất nước, phương hướng, tốc độ, quy mô phát triển và phân bố các cơ sở vật chất - kỹ thuật của tất cả các ngành kinh tế của đất nước. Chỉ tiêu khối lượng vốn đầu tư được tính cho toàn bộ nền kinh tế, từng ngành, từng đơn vị có tiến hành hoạt động đầu tư. Cơ cấu vốn đầu tư Cơ cấu vốn đầu tư theo nội dung của vốn - Chi phí xây lắp: chi phí xây dựng công trình mới, di chuyển máy móc thi công, chi phí phá dỡ các công trình xây dựng cũ, chi phí san lấp mặt bằng, chi phí xây dựng công trình tạm, chi phí lắp đặt thiết bị. - Chi phí thiết bị: gồm chi phí cho mua sắm máy móc thiết bị, chi phí vận chuyển trang thiết bị, chi phí thuế, bảo hiểm cho thiết bị chiếm khoảng 60% vốn đầu tư. - Chi phí khác: + Chi phí khác trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư ./ Chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi ./ Chi phí tuyên truyền, quảng cáo ./ Chi phí nghiên cứu khoa học, công nghệ có liên quan đến dự án ./ Chi phí và lệ phí thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư + Chi phí khác ở giai đoạn thực hiện đầu tư. ./ Chi phí khởi công công trình ./ Chi phí đền bù và tổ chức thực hiện di dời ./ Chi phí thuê đất, hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất ./ Chi phí khảo sát xây dựng, thiết kế công trình, chi phí mô hình thí nghiệm, chi phí lập hồ sơ mời thầu, chi phí cho việc phân tích, đánh giá kết quả đấu thầu, mua sắm vật tư, thiết bị, chi phí giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị, chi phí tư vấn khác,… ./ Chi phí ban quản lý dự án ./ Chi phí bảo vệ an toàn, bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng công trình ./ Chi phí kiểm định vật liệu đưa vào công trình ./ Chi phí lập, thẩm tra đơn giá dự toán, chi phí quản lý, chi phí xây dựng công trình. + Chi phí khác ở giai đoạn kết thúc xây dựng đưa công trình vào sử dụng gồm: chi phí thực hiện việc quy đổi vốn, chi phí tháo dỡ công trình tạm, chi phí thuê chuyên gia vận hành chạy thử, chi phí thường xuyên đối với cơ sở hành chính…. Cơ cấu vốn đầu tư theo phân cấp quản lý Đầu tư phát triển được chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A,B,C Tuỳ theo tính chất và quy mô đầu tư của dự án mà phân thành dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A,B và C, trong đó, dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định. Ngày 29/6/2006 Quốc hội đã thông qua tiêu chí về dự án quan trọng quốc gia bao gồm: + Qui mô vốn đầu tư từ 20 nghìn tỷ đồng trở lên đối với dự án có sử dụng từ 30% vốn nhà nước trở lên. + Dự án có ảnh hưởng lớn đến môi trường và tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường như nhà máy điện hạt nhân, dự án sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ đầu nguồn từ 200 ha trở lên….. + Dự án phải di dân tái định cư từ 20000 người trở lên ở miền núi, từ 50000 người trở lên ở các vùng khác. + Dự án đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng, an ninh hoặc có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt quan trọng về lịch sử văn hoá. + Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế chính sách đặc biệt, cần được Quốc hội quyết định. Cơ cấu vốn đầu tư theo đối tượng đầu tư Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc, thiết bị…) và đầu tư cho các đối tượng phi vất chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế…). Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư cho đối tượng vất chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn Phân thành đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài. + Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước: các hoạt động đầu tư được tài trợ từ nguồn vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư. + Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài: hoạt động đầu tư được thực hiện bằng các nguồn vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài. Cách phân loại này có tác dụng chỉ ra vai trò từng nguồn vốn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước. Trong đó, phải thống nhất quan điểm: vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Cơ cấu vốn đầu tư theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư. Phân thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp: - Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đầu tư phát triển. - Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư, trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Loại đầu tư này tạo nên những năng lực sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tăng thêm việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. Chương 2: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình vốn đầu tư tỉnh Thái Bình giai đoạn 2000-2007 Khái quát về tỉnh Thái Bình Vị trí địa lý Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ với chiều dài bờ biển gần 50 km, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Hà Nam và Nam Định bởi sông Hồng dài 67 km, phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng bởi sông Luộc và sông Hoá dài 88 km. Thái Bình có địa hình tương đối bằng phẳng, không có núi đồi, với độ dốc dưới 1%, độ cao trung bình từ 1- 2 m so với mặt nước biển và thấp dần từ Bắc xuống Nam. Diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh tại thời điểm cuối năm 2005 là 1543,5 km2; chiếm 10,42% diện tích tự nhiên của 11 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và là tỉnh lớn thứ 4 trong vùng (sau các tỉnh Hà Tây, Hải Dương, Nam Định). Đất đai Thái Bình màu mỡ, được bồi tụ bởi sông Hồng và sông Thái Bình. Khí hậu nhiệt đới, nhiệt độ trung bình hằng năm từ 23- 240 C. Đặc điểm tự nhiên đó giúp cho Thái Bình có điều kiện để phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện. Thái Bình có nguồn nước ngọt dồi dào, 50 km bờ biển với 3 cửa sông lớn đổ ra, cộng với hàng chục ngàn km2 vùng lãnh hải là tiềm năng lớn để khai thác nguồn lợi biển. Tiềm năng Tiềm năng khoáng sản: Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải đã được khai thác từ năm 1986 với sản lượng khai thác bình quân mỗi năm hàng chục triệu m3 khí thiên nhiên phục vụ cho sản xuất đồ sứ, thuỷ tinh, gạch ốp lát, xi măng trắng thuộc KCN Tiền Hải…. Tiềm năng du lịch: Thái Bình có cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31686.doc
Tài liệu liên quan