Chuyên đề Về quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÂY DỰNG VÀ LẮP ĐẶT 2

I. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm xây dựng lắp đặt 2

1. Quá trình hình thành và phát triển 2

2. Sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 4

II. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 5

1. Người được bảo hiểm 5

1.1. Người được bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng: 6

1.2. Người được bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt: 6

2. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 7

2.1. Đối tượng bảo hiểm 7

2.2. Phạm vi bảo hiểm 9

3. Thời hạn bảo hiểm: 11

4. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 12

4.1. Giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng 12

4.2 Giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt: 13

4.3. Số tiền bảo hiểm 14

5. Phí bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm 14

5.1. Phí bảo hiểm 14

5.2. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm 18

6. Hợp đồng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 21

III. Đặc điểm quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 21

1. Đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 21

2. Đặc điểm của quy trình triển khai nghiệp vụ 22

CHƯƠNG II: THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÂY DỰNG VÀ LẮP ĐẶT Ở CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ ĐÔNG ĐÔ 24

I. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô 24

1. Lịch sử hình thành và tổ chức bộ máy của Công ty 24

1.1. Lịch sử hình thành Công ty 24

1.2. Tổ chức bộ máy của Công ty 25

II. Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại PVI Đông Đô 29

1. Thuận lợi 29

2. Khó khăn 30

III. Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt của công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô 33

1. Quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 33

2. Giám định và bồi thường tổn thất 38

3. Công tác đề phòng, hạn chế tổn thất 41

4. Kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh 42

CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOÀN THIỆN QUY TRÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÂY DỰNG VÀ LẮP ĐẶT TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ ĐÔNG ĐÔ 46

I. Phương hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới 46

1. Định hướng phát triển 46

2. Các biện pháp thực hiện cụ thể 46

II. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 47

1. Đề xuất về các khâu trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 47

1.1. Trong công tác khai thác 47

1.2. Công tác giám định và giải quyết bồi thường 48

1.3. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất 49

2. Đề xuất về hoạt động chung của công ty 50

2.1. Về vấn đề nhân sự, công tác tuyển dụng và đào tạo đại lý bảo hiểm 50

2.2. Đề xuất về các công tác khác 50

III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. 52

1. Đối với nhà nước 52

2. Đối với các cơ quan có liên quan: 52

KẾT LUẬN 54

TÀI LIỆU THAM KHẢO: 56

 

 

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2432 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Về quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giá rủi ro, tính phí bảo hiểm và sau đó cấp đơn bảo hiểm. Bản câu hỏi này có nội dung như: tên, địa điểm công trình, thông tin về chủ đầu tư (chủ giao thầu), chủ thầu chính, các rủi ro đặc biệt như cháy nổ, đất lở, bão gió lốc, ... Đối với công trình tương đối đặc biệt như cầu, đập, cảng, đường xe lửa, cống thoát nước thì ngoài bản câu hỏi nói trên còn có thêm các câu hỏi bổ sung. III. Đặc điểm quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt Đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là loại hình bảo hiểm tương đối phức tạp. Hiện nay, trên thế giới bảo hiểm xây dựng và lắp đặt không chỉ phát triển với tốc độ tăng nhanh về doanh thu, lợi nhuận mà còn hoàn thiện đa dạng hoá các đơn bảo hiểm. Tuy ra đời muộn, nhưng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đã phát triển và hoàn thiện nhanh chóng. Hiện nay, nghiệp vụ này vẫn đang từng bước được cải tiến và mở rộng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tham gia Bảo hiểm. Nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mang tính tất yếu khách quan. Nhu cầu xây dựng ngày càng tăng về số lượng cũng như quy mô. Quy mô càng lớn thì giá trị và thời gian để hoàn thành càng lớn. Điều này có nghĩa là xác suất rủi ro và tổn thất cao, giá trị thiệt hại lớn. Do vậy, tất yếu xuất phát nhu cầu về bảo hiểm xây dựng và lắp đặt . Nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt rất nhạy cảm với tình hình đầu tư và gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt thường rất lớn có khi lên đến hàng trăm triệu USD. Và hầu hết các trường hợp thì số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm. Đơn bảo hiểm lắp đặt là đơn bảo hiểm mọi rủi ro, hầu hết tất cả các rủi ro xảy ra trong quá trình lắp đặt máy móc, thiết bị (trừ các rủi ro đặc biệt được loại trừ trong đơn bảo hiểm) đều được đảm bảo bằng đơn bảo hiểm lắp đặt. Đơn bảo hiểm lắp đặt cũng có thể bao gồm cả các công việc xây dựng, nếu giá trị của phần việc xây dựng nhỏ hơn 50% giá trị của cả công trình. Trong trường hợp giá trị của phần việc xây dựng chiếm hơn 20% giá trị của cả công trình thì phí bảo hiểm cho phần xây dựng này được tính riêng theo phí bảo hiểm của Bảo hiểm xây dựng nhưng vẫn sử dụng đơn bảo hiểm lắp đặt. Đặc điểm của quy trình triển khai nghiệp vụ Đặc điểm của ngành xây dựng lắp đặt là các công trình ngoài trời, chịu ảnh hường của thời tiết, khí hậu. Giá trị công trình rất lớn, thời gian thi công kéo dài, liên quan tới nhiều bên trong quá trình thực hiện công trình. Các công trình thường được xây dựng vào mùa khô hay nói cách khác bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mang tính thời vụ. Vì vậy, nó ảnh hưởng đến việc bố trí nguồn lực khai thác, mở rộng mối quan hệ theo nhiều đối tượng, thời gian khai thác thường phải kéo dài. Thị trường bảo hiểm phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời góp phần tăng cường khai thác các rủi ro mới. Bên cạnh đó thị trường bảo hiểm hoàn thiện hơn giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao chất lượng khai thác, phương thức tiếp cận khách hàng có nhiều thay đổi. Vì vậy hoạt động khai thác bảo hiểm xây dựng và lắp đặt cũng chịu sự tác động của thị trường bảo hiểm nói chung. Nếu thị trường bảo hiểm càng phát triển thì chi phí cho hoạt động khai thác sẽ tương xứng với hiệu quả mà DNBH đạt được trong quá trình triển khai bảo hiểm. Trong quá trình triển khai nghiệp vụ này nếu nhận thức của chủ thầu, nhà đầu tư về tác dụng của bảo hiểm ngày càng được nâng cao thì việc khai thác bảo hiểm xây dựng và lắp đặt sẽ dễ dàng hơn. Và ngược lại nếu nhận thức của các nhà đầu tư, chủ thầu chưa cao thì hoạt động khai thác có thể sẽ tốn nhiều chi phí hơn nhưng lại không đạt hiệu quả cao. Khai thác viên bảo hiểm là người tiếp xúc với khách hàng, tìm hiểu khách hàng, tạo ấn tượng,hình ảnh của doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng. Vì vậy, có khai thác hay duy trì được hợp đồng bảo hiểm hay không là phụ thuộc một phần vào kĩ năng, trình độ của cán bộ khai thác. Hoạt động nhận tái của các công ty tái trên thị trường: Sự gia tăng năng lực nhận tái bảo hiểm từ thị trường thế giới và khu vực góp phần giúp các công ty bảo hiểm trong nước có thêm sự lựa chọn trong việc thu xếp chương trình tái bảo hiểm. Nhưng nếu hợp đồng nào có phí quá thấp có thể sẽ không được nhận tái. Điều này tác động đến việc lựa chọn phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, phí bảo hiểm của cán bộ khai thác. Và có thể tác động đến việc chuyển hướng khai thác của doanh nghiệp bảo hiểm. CHƯƠNG II THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÂY DỰNG VÀ LẮP ĐẶT Ở CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ ĐÔNG ĐÔ I. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô 1. Lịch sử hình thành và tổ chức bộ máy của Công ty 1.1. Lịch sử hình thành Công ty Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI) được thành lập theo quyết định số 42 GP/KDBH ngày 12/03/2007 của Bộ tài chính tiền thân là Công ty Bảo hiểm Dầu khí, từ loại hình Công ty 100% vốn nhà nước - thành viên tập đoàn Dầu khí Việt Nam trở thành Tổng Công ty cổ phần với cổ đông chính là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (tỷ lệ góp vốn chiếm 59,48% vốn điều lệ), có phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam và nước ngoài. Kể từ khi thành lập đến nay, Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam đã trưởng thành và phát triển mạnh mẽ về quy mô cũng như tiềm lực tài chính. PVI được đánh giá là Công ty dẫn đầu thị trường bảo hiểm Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm công nghiệp và trở thành Doanh nghiệp có thị phần bảo hiểm gốc lớn thứ 2 thị trường. PVI không ngừng tăng trưởng, trong năm 2009 tổng doanh thu thực hiện đạt 3.006,15 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 2008. Vốn điều lệ năm 2009 là 1035,5 tỷ đồng, kế hoạch sẽ tăng lên 2000 tỷ đồng vào năm 2010. Hệ thống kinh doanh bao gồm 25 công ty thành viên và hơn 150 phòng kinh doanh trên toàn quốc đảm bảo phục vụ và đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt PVI được Standard&Poor’s – hãng định mức tín nhiệm danh tiếng thế giới lựa chọn vào danh sách Top 5 cổ phiếu hàng đầu Việt Nam. Với những nỗ lực tự hoàn thiện không ngừng, thương hiệu PVI đã được biết đến rộng rãi ở thị trường trong nước và có chỗ đứng nhất định trên thị trường quốc tế. Năm 2002, Công ty đã được cấp chứng chỉ Quacert ISO 9001:2000 - DNV (Det Norske Veritas) - Giấy chứng nhận số: HT 409/2.08.32 ngày 22/11/2002. Đặc biệt, PVI đã vinh dự được chủ tịch nước tặng Huân chương lao động hạng ba, vào tháng 9 năm 2005 đã được trao tặng giải thưởng Sao vàng đất Việt và tháng 7/2007 được nhận Cúp vàng Thương hiệu mạnh. Năm 2006, khi thực hiện bán cổ phần lần đầu, cổ phiếu PVI đã xác lập kỷ lục là cổ phiếu có giá đấu cao nhất thị trường chứng khoán Việt Nam. Tháng 10/2007 là một trong 100 đơn vị xuất sắc được tặng giải thưởng Sao Vàng Đất Việt. Các đồng chí Lãnh đạo PVI được nhận các danh hiệu: Cúp vàng Doanh nhân Tâm tài, Cúp Doanh nhân Asean, Giải thưởng Doanh nhân tiêu biểu khối Doanh nghiệp Trung ương, Danh hiệu chiến sỹ thi đua toàn quốc. Đây là minh chứng cho niềm tin sâu sắc của nhà đầu tư vào thương hiệu mang tên PVI. Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô (PVI Đông Đô) được thành lập vào ngày 02/04/2007 theo quyết định số 66/QĐ-PVI, là đơn vị trực thuộc của Công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam. Trong suốt quá trình hoạt động và phát triển, PVI Đông Đô đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của Tổng công ty. Hiệu quả hoạt động của Công ty được thể hiện bằng sự đóng góp doanh thu phí vào tổng doanh thu của toàn Tổng công ty: doanh thu từ 15,8 tỷ đồng trong năm 2007 tăng lên đến hơn 91 tỷ đồng trong năm 2009. Cùng như toàn thể công ty, PVI Đông Đô ngày càng hoạt động hiệu quả và đến nay đã đứng vững trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Hiện nay, thị trường Bảo hiểm có xu thế ngày càng sôi động và phức tạp, do đó Công ty PVI Đông Đô phải luôn nỗ lực phấn đấu, kịp thời nắm bắt tình hình để giữ được vị thế cạnh tranh trên thị trường. 1.2. Tổ chức bộ máy của Công ty Ngay khi được cấp phép thành lập và đăng ký kinh doanh, công ty đã nhanh chóng triển khai phát triển bộ máy tổ chức, mạng lưới kinh doanh bảo hiểm tại khu vực Hà Nội và các khu vực lân cận. Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động công ty bảo hiểm PVI Đông Đô: 2. Lĩnh vực hoạt động Để phục vụ cho nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức kinh tế, các nhà đầu tư cũng như mọi thành phần kinh tế khác, công ty PVI Đông Đô đã và đang tiến hành các nghiệp vụ bảo hiểm sau: Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt Bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu và vận chuyển nội địa Bảo hiểm thân tàu (tàu biển, tàu sông, tàu đánh cá) và trách nhiệm dân sự của chủ tàu Bảo hiểm dầu khí Bảo hiểm hàng không Bảo hiểm trách nhiệm Bảo hiểm nhà tư nhân Bảo hiểm tài sản Bảo hiểm tiền Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh Bảo hiểm con người Bảo hiểm du lịch Bảo hiểm học sinh Bảo hiểm y tế tự nguyện 3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây Địa bàn Hà Nội là nơi tập trung tất cả các Công ty bảo hiểm đã được Nhà nước cấp giấy phép hoạt động, là nơi tập trung tất cả các chính sách cạnh tranh của các Công ty bảo hiểm khác. Tại thời điểm thành lập Công ty PVI Đông Đô cũng đã phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt với các Công ty bảo hiểm trong và ngoài nước, mỗi công ty đều có những chính sách, thủ thuật riêng nhằm giành giật, chiếm lĩnh thị phần. Trước điều kiện khó khăn như vậy, Công ty đã tổ chức phục vụ tốt khách hàng để tạo lập địa bàn và phát triển kinh doanh, đồng thời áp dụng linh hoạt các chính sách của Nhà nước, các quy định của Tổng công ty vào hoạt động kinh doanh. Cùng với sự chỉ đạo hướng dẫn và hỗ trợ tích cực, kịp thời của các phòng ban trên Tổng công ty, đặc biệt là sự tín nhiệm và mến mộ của khách hàng nên công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 2007-2009 Năm Doanh thu (triệu đồng) Phí BH thực thu (triệu đồng) Tỷ lệ tăng tương đối (theo doanh thu) (%) 2007 15.842 17.386 - 2008 58.673 59.025 270% 2009 91.369 92.272 56% (Nguồn: Phòng kế toán - PVI Đông Đô) Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy sự tăng trưởng vượt bậc của công ty chỉ sau 3 năm đi hoạt động kinh doanh. Do công ty chỉ bước vào hoạt động từ giữa năm 2007, nên đã gặp rất nhiều khó khăn trong công tác nhân sự, khai thác bởi vậy doanh thu khi đó chỉ đạt 15,8 tỷ đồng. Sau 2 năm hoạt động, hoạt động kinh doanh đi vào ổn định khiến doanh thu phí bảo hiểm đã tăng rất nhanh (tăng 270% năm 2008 và 56% năm 2009). Để đạt được kết quả đó, Công ty đã phải nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác bảo hiểm, gia tăng cả về số lượng và chất lượng của các chuyên viên, đại lý bảo hiểm… Bảng 4: Kết quả hoạt động doanh thu theo nghiệp vụ Nghiệp vụ bảo hiểm Đơn vị 2007 2008 2009 Bảo hiểm con người Tr.đ 457 1.694 4.411 Bảo hiểm cháy – tài sản Tr.đ 632 2.343 2.858 Bảo hiểm kỹ thuật Tr.đ 2.501 6.890 7.587 Bảo hiểm xe cơ giới Tr.đ 8.939 33.108 52.091 Bảo hiểm hàng hải Tr.đ 2.935 10.873 12.247 Bảo hiểm khác Tr.đ 378 3.765 12.182 (Nguồn: Phòng kế toán - PVI Đông Đô) Doanh thu phí bảo hiểm của tất cả các nghiệp vụ qua các năm đều tăng nhưng không tăng đều nhau. Trong suốt 3 năm phát triển, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất so với tất cả các nghiệp vụ khác. Doanh thu do nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới mang về luôn chiếm từ 56-59% tổng doanh thu. Điều đó cho thấy nghiệp vụ này đã được thực hiện rất tốt công tác tìm kiếm, khai thác khách hàng, mang lại lợi nhuận lớn cho công ty. Tuy nhiên đây vẫn là nghiệp vụ bảo hiểm có tỷ lệ bồi thường khá cao, trong 2 năm 2008, 2009 số tiền bồi thường chiếm khoảng 37% doanh thu nghiệp vụ. Đặc biệt trong năm 2009, PVI Đông Đô đã ký được rất nhiều đơn bảo hiểm hàng không thông qua các dịch vụ chuyển giao/phối hợp với Tổng công ty mà mức phí thấp nhất là 21 triệu đồng và cao nhất lên tới gần 6 tỷ đồng tiền phí bảo hiểm. Điều này làm cho doanh thu từ hoạt động kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm khác tăng đột biến (từ 3,7 tỷ đồng năm 2008 lên 12,2 tỷ đồng năm 2009). Tại PVI Đông Đô, trừ nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới ra thì các nghiệp vụ bảo hiểm còn lại đóng góp một phần khiêm tốn vào tổng doanh thu toàn công ty (chiếm khoảng từ 5-15% tổng doanh thu). Bởi vì các nghiệp vụ bảo hiểm cháy, bảo hiểm kỹ thuật, bảo hiểm hàng hải, … cần phải có một thời gian nhất định để có thể tiếp cận, xây dựng các mối quan hệ với khách hàng. Qua đó mới có thể thỏa thuận, hợp tác với khách hàng để họ tham gia bảo hiểm. Tiềm năng của các nghiệp vụ bảo hiểm này là rất lớn vì chỉ với một đơn bảo hiểm xây dựng lắp đặt có thể mang lại vài trăm đến hàng tỷ đồng tiền phí bảo hiểm cho công ty. Trong suốt 3 năm qua, Công ty PVI Đông Đô luôn cố gắng để hoàn thành mức kế hoạch mà Tổng công ty giao, những con số trên thể hiện sự nỗ lực hết mình của ban lãnh đạo cùng toàn thể nhân viên công ty trong điều kiện kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay. II. Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại PVI Đông Đô 1. Thuận lợi Sau 3 năm kể từ khi thành lập đến nay có thể thấy những thuận lợi cơ bản đã góp phần vào sự thành công của hoạt động bảo hiểm xây dựng lắp đặt như sau: Thứ nhất: Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm từng bước được cải thiện. Cho đến nay, về cơ bản các văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã được xây dựng và ban hành. Hệ thống các văn bản này sẽ tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp bảo hiểm, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người được bảo hiểm. Thứ hai: Tiềm năng to lớn của thị trường bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Việt Nam. Trong những năm gần đây, mặc dù bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng Việt Nam vẫn có những bước phát triển đáng ghi nhận. Cùng với mức tăng trưởng GDP các năm luôn đạt cao ( năm 2005 là 8,43%; 2006 đạt 8,17%, 2007 đạt 8,44%, 2008 đạt 6,18%, 2009 đạt 5,53% ), ngành bảo hiểm Việt Nam tiếp tục có những bước phát triển vững chắc. Song song với nó, bảo hiểm kỹ thuật đã đóng góp một phần tương đối lớn vào sự phát triển chung đó và hứa hẹn sự phát triển cao hơn trong tương lai. Sở dĩ bởi vậy vì thị trường bảo hiểm xây dựng và lắp đặt ở Việt Nam chứa đựng tiềm năng lớn. Thứ ba: Môi trường kinh doanh ở Việt Nam vẫn rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bởi tình hình kinh tế chính trị ổn định, có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư, và đang được cải thiện rất nhanh chóng về kiến trúc thượng tầng, cùng với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy nhu cầu xây dựng lắp đặt tăng lên không ngừng. Mặt khác, Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2007 đã làm cho vị thế của nước ta được nâng lên tầm cao mới trên trường quốc tế. Đầu tư trong nước và nước ngoài gia tăng, kéo theo sự phát triển của các cơ sở hạ tầng trong nước. Sự tăng trưởng vượt bậc của FDI vào Việt Nam trong năm 2007, 2008 và sẽ tiếp tục tăng trưởng trong những năm tiếp theo tạo điều kiện cho bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tiếp tục phát triển.Đây là những nhân tố ảnh hưởng rất tích cực tới sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Việt Nam. Ngoài những dự án đang triển khai như Đường cao tốc TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây, Sài Gòn - Trung Lương, Hà Nội - Lào Cai, Đại lộ Đông tây, Hầm Thủ Thiêm, Cầu Cần Thơ… thì những dự án sẽ triển khai với tổng vốn đầu tư lên tới 150 tỷ USD như các tuyến Metro Hà Nội, TP. HCM; dự án Đường cao tốc Hà Nội - TP. HCM; các dự án phát triển năng lượng hạt nhân tại Bình Thuận… góp phần giúp mảnh đất bảo hiểm thêm màu mỡ để các doanh nghiệp khai thác. Thứ tư: Nhận thức của các nhà đầu tư, chủ thầu, … ngày càng được nâng cao thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, công tác tuyên truyền của các công ty bảo hiểm. Bên cạnh đó, tập quán mua bảo hiểm của các nhà đầu tư nước ngoài cũng ảnh hưởng một phần tới nhận thức của họ, khiến họ dần tiếp cận và quyết định tham gia bảo hiểm. Điều này cũng đã góp phần làm cho hoạt động khai thác bảo hiểm trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Thứ năm: Đến nay công ty đã đào tạo được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm trong khai thác, đánh giá và quản lý rủi ro, đồng thời có một quy trình làm việc rất khoa học, nghiêm túc. Không những thế công ty còn luôn chú trọng tới việc thu hút, đào tạo nguồn nhân lực trẻ. Trong tương lai gần, đội ngũ này có thể làm chủ các quy trình nghiệp vụ góp phần đưa công ty phát triển hơn nữa. 2. Khó khăn Mặc dù có rất nhiều thuận lợi song hoạt động khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt của Công ty PVI Đông Đô vẫn còn phải đối mặt với những khó khăn nhất định: Hệ thống pháp lý về kinh doanh bảo hiểm còn thiếu và chưa đồng bộ. Do chưa có luật về phòng chống cạnh tranh không lành mạnh, thiếu văn bản pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, nên dẫn tới hiện tượng các doanh nghiệp vi phạm các quy định về hợp tác và cạnh tranh, không thực hiện triệt để các quy định của pháp luật về báo cáo thống kê, một số doanh nghiệp thành lập chi nhánh, bổ nhiệm người điều hành không xin phép chấp thuận trước của cơ quan có thẩm quyền... Quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm chưa theo kịp sự phát triển của thị trường. Phương thức kiểm tra, giám sát còn nặng về hành chính, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống các chỉ tiêu giám sát, đánh giá rủi ro về vốn, về hoạt động tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn thiếu. Công nghệ quản lý còn lạc hậu, chưa có hệ thống phần mềm quản lý và nối mạng với các doanh nghiệp để phục vụ cho quản lý được kịp thời. Chính những khó khăn, bất cập này làm cho thị trường bảo hiểm Việt Nam bị hạn chế phát triển. Luật Xây dựng và Luật Kinh doanh bảo hiểm đều quy định về mua bảo hiểm trong hoạt động xây dựng. Tuy nhiên, mỗi luật lại quy định một kiểu. Cụ thể, trong luật xây dựng quy định các nhà thầu khảo sát, thiết kế, giám sát thi công có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Nhà thầu thi công công trình có nghĩa vụ mua bảo hiểm. Trong khi đó, Luật Kinh doanh bảo hiểm (có hiệu lực từ 1/4/2001) lại quy định bảo hiểm trong hoạt động xây dựng không phải là bảo hiểm bắt buộc. Việc mua bán bảo hiểm trong hoạt động xây dựng được thực hiện như đối với các loại hình bảo hiểm tự nguyện phi nhân thọ khác. Các doanh nghiệp có quyền chủ động xây dựng quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm của từng loại hình bảo hiểm tương tự các loại hình bảo hiểm tự nguyện khác. Trong khi mức mua và mức chi trả bảo hiểm tương ứng không được quy định mức sàn, nên các doanh nghiệp thường là mua giá trị thấp, chiếu lệ. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đang tiềm ẩn những rủi ro lớn do tình trạng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đang cạnh tranh bằng cách giảm chi phí kỹ thuật, tăng mức giữ lại quá quy định, thậm chí mở rộng phạm vi bảo hiểm, sửa đổi điều khoản bổ sung, giảm mức miễn thường, tăng chi phí khai thác hoa hồng và môi giới… Theo quy định, để thực hiện một hợp đồng dịch vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt cho các công trình có vốn đầu tư trên 50 triệu USD, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước buộc phải thu xếp việc tái bảo hiểm với các doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài có mức độ tín nhiệm nhất định nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho dự án. Thực tế có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đã chào phí thấp hơn cả mức phí của công ty tái bảo hiểm. Tình trạng này dẫn đến nguy cơ nếu có các sự cố dẫn đến phải bồi thường, các nhà tái bảo hiểm có thể sẽ từ chối thanh toán do hợp đồng của nhà bảo hiểm gốc với khách hàng không đúng tiêu chuẩn. Trong khi đó, các công ty bảo hiểm mới thành lập lại thường chưa có tích lũy nhiều từ các khoản dự phòng nghiệp vụ. Điều này có thể làm doanh nghiệp dẫn tới bờ vực phá sản. Hiện trên thế giới, các doanh nghiệp bảo hiểm đều áp dụng điều khoản chuẩn về bảo hiểm trong lĩnh vực xây dựng và lắp đặt, nhưng vì Việt Nam chưa có nên các điều kiện, điều khoản bảo hiểm trong lĩnh vực này của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam không đồng bộ với nhau. Bên canh đó các tư vấn cho những công trình riêng lẻ của dân cư trong đô thị hầu như không mua bảo hiểm. Kết quả là khi xảy ra sự cố, do sơ suất nghề nghiệp, đơn vị tư vấn không đủ khả năng tài chính để khắc phục, gây thiệt hại cho xã hội và phức tạp cho việc quản lý các hoạt động xây dựng.Bản thân các chủ đầu tư, nhất là đầu tư xây dựng nhà mặt phố, công trình nhỏ không quan tâm bảo vệ các đơn vị tư vấn mua bảo hiểm; không ép nhà thầu mua bảo hiểm; không thuê giám sát... nên rủi ro do sự cố càng cao. Thực tế hiện nay, việc mua bảo hiểm công trình xây dựng, trang thiết bị và máy móc phục vụ xây dựng thường chỉ tiến hành với những dự án lớn, đặc biệt các dự án liên quan đầu tư nước ngoài. Với những gì đang diễn ra thì việc mua bảo hiểm ở nhiều công trình chỉ mang tính hình thức. Một vấn đề khác mà công ty đang phải đối mặt, đó là sự chi phối của các công ty môi giới. Thị trường Nhật Bản có 33 hãng môi giới bảo hiểm, nhưng doanh thu phí bảo hiểm được thu xếp qua môi giới chỉ chiếm 0,47% tổng doanh thu toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ năm 2009. Ở Việt Nam, thị trường đang bị chi phối khá mạnh bởi các công ty môi giới, họ thường thao túng các dự án lớn, đặc biệt là đối với những dự án có vốn ODA cũng như những dự án có vốn ngân sách cấp. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp không coi trọng việc mua bảo hiểm vì để có được công trình thi công, nhà thầu cũng như chủ đầu tư đã phải chi phí qua nhiều khâu. Do vậy, để cạnh tranh trúng thầu, phương án đầu tiên là cắt giảm chi phí và khoản cắt giảm phí bảo hiểm luôn được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, đó chỉ là những nhận thức của chủ thầu thiếu kinh nghiệm. Với các công trình lớn, đặc biệt các công trình có sự tham gia của các đối tác nước ngoài thì hầu hết chủ đầu tư và chủ thầu đều mua bảo hiểm. Hiện nay số lượng doanh nghiệp bảo hiểm tham gia tăng nhanh, nhưng chất lượng dịch vụ còn thấp, bởi cán bộ chuyên trách yếu, nhiều nhân viên tư vấn bán hàng chưa được qua đào tạo, đội ngũ giám định bồi thường thiếu kinh nghiệm, công ty giám định và tính toán tổn thất thiếu chuyên nghiệp… Nhiều nhân viên bảo hiểm còn chưa hiểu hết được hoặc chưa đúng nội dung các điều kiện bảo hiểm làm cho khách hàng hiểu sai, dẫn tới tranh chấp giữa khách hàng với doanh nghiệp bảo hiểm đặc biệt đối với tổn thất của những công trình lớn trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. Một số công ty sử dụng những cán bộ nhân viên không có nghiệp vụ bảo hiểm hay thực hiện chế độ khoán doanh thu phí bảo hiểm cho các chi nhánh, phòng bảo hiểm khu vực hay đại lý. Để đạt chỉ tiêu được giao khoán, các bộ phận này buộc phải chạy theo doanh số, không đánh giá, khảo sát rủi ro, bán sản phẩm bảo hiểm bằng mọi giá. Những khó khăn xuất phát từ bản thân công ty: Nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt cần phải có một thời gian nhất định để tiếp cận, xây dựng các mối quan hệ với khách hàng. Trong khi đó, PVI Đông Đô mới thành lập từ năm 2007 nên còn gặp khá nhiều khó khăn trong công tác khai thác, cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Mặt khác, một số cán bộ trên các phòng nghiệp vụ còn thiếu kinh nghiệm thực tế trong khai thác, quản lý khách hàng. Ngoài ra, nguy cơ trục lợi bảo hiểm luôn tồn tại, nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt lại rất phức tạp, nên việc phát hiện ra trục lợi cũng khó khăn, phức tạp. III. Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt của công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô 1. Quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt Công tác khai thác là công tác có vai trò quyết định trong việc tồn tại và phát triển một loại hình bảo hiểm. Do đó, đối với nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt PVI Đông Đô đã đưa ra quy trình khai thác khoa học và hiệu quả như sau: Bước 1: Tiếp thị, nhận thông tin, yêu cầu bảo hiểm từ khách hàng Cán bộ khai thác có nhiệm vụ thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, gửi hoặc trao đổi các thông tin về các sản phẩm của công ty nhằm giới thiệu các nghiệp vụ bảo hiểm và đáp ứng các nhu cầu của khác hàng. Kịp thời nắm bắt những thay đổi và biến động trong hoạt động kinh doanh của khách hàng để tư vấn, giới thiệu sản phẩm bảo hiểm hoặc có thay đổi phù hợp. Cán bộ khai thác chủ động khai thác nguồn tin từ khách hàng hoặc qua các cơ quan quản lý, đại lý, cộng tác viên, môi giới, cơ quan thông tin đại chúng… để tìm hiểu thông tin về các tài sản/con người/trách nhiệm chưa tham gia bảo hiểm có nhu cầu bảo hiểm. Cán bộ khai thác cung cấp Giấy yêu cầu bảo hiểm, Bản câu hỏi đánh giá rủi ro và các tài liệu khác cho khách hàng theo yêu cầu. Hướng dẫn khách hàng cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin theo yêu cầu Tìm hiểu thêm các thông tin khác từ đó có cơ sở đưa ra các điều kiện, điều khoản và phí bảo hiểm hợp lý. Thông qua các số liệu thống kê và thực tiễn hoạt động của khách hàng, Cán bộ khai thác tham mưu cho Lãnh đạo về chính sách khách hàng, về công tác quản lý rủi ro và khả năng triển khai dịch vụ, đề xuất ý kiến điều chỉnh tỷ lệ phí và các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho thích hợp. Căn cứ vào các thông tin được cung cấp, cán bộ khai thác tự đánh giá rủi ro hoặc tư vấn kịp thời về quản lý rủi ro cho khách hàng. Điền vào bản câu hỏi đánh giá rủi ro theo m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112431.doc
Tài liệu liên quan