Chuyên đề Xu hướng nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trưc tuyến, điều khiển từ xa và tự động hoá trang thiết bị y tế - Hệ thống nước chạy thận nhân tạo

I. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRƯC

TUYẾN, ĐIỀU KHIỂN TỪ XA VÀ TỰ ĐỘNG HOÁ TRANG THIẾT BỊ Y TẾ 1

1. Khái quát về trang thiết bị y tế. 1

2. Phân loại trang thiết bị y tế . 2

3. Ngành thiết bị y tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu. 2

4. Tổng quan về ứng dụng công nghệ trực tuyến, điều khiển từ xa và tự động hoá

trang thiết bị y tế trên thế giới . 4

II. PHÂN TÍCH XU HƯỚNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TỰ ĐỘNG

HÓA TRANG THIẾT BỊ Y TẾ TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU SÁNG CHẾ

QUỐC TẾ. 19

1. Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ

tự động hóa trang thiết bị y tế theo thời gian . 20

2. Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động

hóa trang thiết bị y tế tại các quốc gia . 22

3. Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động

hóa trang thiết bị y tế theo các hướng nghiên cứu. 24

4. Một số đơn vị dẫn đầu số lượng công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng

dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế . 25

5. Một số sáng chế tiêu biểu . 26

Kết luận . 27

III. GIỚI THIỆU HỆ THỐNG CẢNH BÁO SỚM NƯỚC CHẠY THẬN

NHÂN TẠO ĐIỀU KHIỂN TRỰC TUYẾN, TỰ ĐỘNG VÀ TỪ XA BẰNG

VI XỬ LÝ CỦA TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ TƯ VẤN KỸ THUẬT

THIẾT BỊ Y TẾ . 27

1. Nguyên lý hoạt động của hệ thống nước thận nhân tạo điều khiển tự động

bằng vi xử lý. 28

2. Giới thiệu một số kết quả ứng dụng hệ thống nước thận nhân tạo điều khiển

tự động bằng vi xử lý tại thành phố Hồ Chí Minh. 31

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 32

pdf35 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 12/02/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Xu hướng nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trưc tuyến, điều khiển từ xa và tự động hoá trang thiết bị y tế - Hệ thống nước chạy thận nhân tạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia đình đã trở nên phổ biến, việc tích hợp các công nghệ trực tuyến sẽ cho phép các bác sỹ có khả năng theo dõi các dữ liệu y tế liên quan đến bênh nhân và cho phép họ ứng dụng phân tích dữ liệu cũng như tìm kiếm phương pháp chữa trị phù hợp, góp phần tăng cường hiệu quả làm việc. Công nghệ còn giúp bệnh nhân cũng như người bình thường có khả năng tự theo dõi, quản lý sức khỏe bản thân. Đây là cơ hội cho các nhà sản xuất, nhà nghiên cứu đưa ra giải pháp tốt hơn nhằm đáp ứng nhu cầu mỗi cá nhân. Bước tiến đó có thể nhận thấy trong các thiết bị đeo hay những công nghệ Internet of Things (Iot) đã chứng minh được hiệu quả, có thể kể đến: sản phẩm theo dõi đường huyết, kiểm tra huyết áp, và phát hiện hydrat hóa. Không chỉ vậy, thiết bị đeo có thể chuyển thông tin đến các ứng dụng di động nhằm giúp phát hiện sớm các bệnh cơ bản của người sử dụng. Hình 5: Thiết bị đeo sẽ giúp cải thiện tình hình sức khỏe 9 Các chuyên gia kì vọng IoT sẽ mang đến sự thay đổi trong việc tự động hóa các quy trình khám chữa bệnh, cung cấp lịch trình chăm sóc bệnh nhân, cũng như kiểm soát lỗi phát sinh. Tại Mỹ, ước tính có 8 triệu liều thuốc chữa bệnh được theo dõi bằng thiết bị IoT trong năm 2016, tăng gấp 10 lần kể từ năm 2013. 4.2 Công nghệ điều khiển từ xa trong y tế : Năm 2016 đánh dấu sự thay đổi đối với lĩnh vực y học từ xa. Phương thức này mang đến cách thức mới trong việc tương tác giữa bác sĩ và bệnh nhân, nâng cao nhận thức về phòng và chữa bệnh. Y học từ xa sẽ tạo ra sự khác biệt, nhất là đối với những bệnh nhân mạn tính như tiểu đường và cao huyết áp, trong đó việc giám sát liên tục và cần bác sĩ thường xuyên kiểm tra là rất quan trọng. Khái niệm điều trị từ xa (telemedicine) được dùng nhằm mô tả cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho các bệnh nhân từ xa thông qua hệ thống viễn thông và công nghệ thông tin. Công nghệ này giúp cho việc giao tiếp giữa bệnh nhân và nhân viên y tế trở nên thuận tiện trong việc truyền thông tin, hình ảnh, dữ liệu y khoa qua các công cụ kết nối. Hình 6: Khám chữa bệnh từ xa Hình thức đầu của điều trị từ xa với điện thoại và đài phát thanh, hiện nay đã được bổ sung thêm kênh hình ảnh, nâng cao phương pháp chẩn đoán hỗ trợ bởi các ứng dụng client/server , và các thiết bị chuyên dụng khác. Dịch vụ chăm 10 sóc sức khỏe ở đây có thể bao gồm cả chẩn đoán và điều trị, tư vấn và các lĩnh vực mang tính thông tin khác. Các lĩnh vực khác từ đó được hình thành như chẩn đoán hình ảnh từ xa (teleradiology), tư vấn từ xa (teleconsulting), hội chẩn từ xa (telediagnostics)... Hệ thống tương tác y học từ xa đầu tiên hoạt động trên đường dây điện thoại được thiết kế để chẩn đoán từ xa và điều trị bệnh nhân cần hồi sức tim (khử rung tim) được phát triển và đưa ra bởi công ty MedPhone vào năm 1989. Thời điểm hiện tại của thế kỷ 21, các trung tâm, bệnh viện sử dụng hệ thống mạng quản lý thông tin bệnh viện (HIS - Hospital Information System) để quản lý các loại hình dịch vụ điều trị từ xa. Ngoài ra, hệ thống thông tin và lưu trữ hình ảnh (Picture Archiving and Communication System - PACS) cũng cho phép chuẩn đoán hình ảnh từ xa, khám và chăm sóc sức khỏe tại nhà. Hiện nay, Mỹ sử dụng chuẩn EDI cho y tế (EDI - Electronic Data Interchange) hay DICOM (Digital Imaging and Communication in Medicine - Hình ảnh và truyền số trong y học) dùng cho chẩn đoán hình ảnh. Chuẩn này được dùng trong mạng PACS và hệ thống mạng y tế Metropolitan Area Network với sự góp mặt của hầu hết các bệnh viện, phòng khám, công ty dược, công ty cung cấp thiết bị y tế, cơ sở nghiên cứu và đào tạo, bảo hiểm y tế. Châu Âu sử dụng chuẩn CEN (Comitee European de Nomlalisation) có khả năng tương thích với chuẩn EDI của Mỹ. Và hệ thống E-Health của Châu Âu có sự tham gia của 33 nước thành viên sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tăng chất lượng dịch vụ y tế. Gần đây, Google thông báo rằng sẽ cung cấp dịch vụ y học từ xa là Crescendo. Các công ty lớn khác trong lĩnh vực y tế điện tử từ xa như HealthTap , Senscio Systems và một số công ty cung cấp thuốc như OneMedical, IoraHealth đã có thành tựu đáng kể trong lĩnh vực này. Các giải pháp hệ thống thông tin bệnh viện và giải pháp truyền, lưu trữ và xử lý hình ảnh trong chẩn đoán y tế được ứng dụng rộng rãi và phù hợp với cơ sở phần cứng ngày càng hiện đại, giá thành ngày càng hạ (máy tính, laptop, smarphone, table PC); phần mềm quản lý phổ dụng, tính mở cao, dễ dàng cho 11 phát triển các ứng dụng (MS, iOSmã nguồn mở như android); hạ tầng viễn thông và Internet tốt, mạng băng rộng, 3G phủ kín cả nước phù hợp với điều kiện của vùng sâu, vùng xa (không yêu cầu các đường truyền dành riêng); và hơn nữa là việc phổ biến các chuẩn nén video mới cộng với việc sử dụng laptop, máy tính bảng, smartphonelàm tăng khả năng kết nối với các thiết bị y tế giá rẻ. Ngoài ra, khả năng kết nối với các hệ thống truyền hình ảnh không phân biệt model cũ mới, không cần các thiết bị chuyển đổi đắt tiền, việc bảo hành, bảo trì dễ dàng, chi phí đầu tư ban đầu nhỏ và có tính mở rất cao cũng là những yếu tố thuận lợi để đưa dịch vụ y tế đến đông đảo người dân. a. Hệ thống PACS và RIS Y tế: Trong y tế, PACS (Picture Archiving and Comunication System) là từ viết tắt cho hệ thống lưu trữ và truyền thông hình ảnh y tế. Còn RIS (Radiology Information System) là hệ thông tin chẩn đoán hình ảnh y tế. Các giải pháp chăm sóc sức khỏe PACS và RIS được phát triển để tạo điều kiện cho việc chẩn đoán hình ảnh điện tử và cung cấp một phương pháp lưu trữ, cất giữ một cách kinh tế, phục hồi nhanh chóng các hình ảnh đã chiếu chụp, truy cập vào hình ảnh đã được chụp với nhiều phương thức, có thể truy cập đồng thời từ nhiều trang web một lúc. Trong điều kiện của phòng khám, bệnh viện, PACS và RIS là tổ hợp phần mềm và phần cứng có nhiệm vụ thu nhận, lưu trữ, hiển thị, chuyển giao những hình ảnh chụp từ X-quang, MR, cộng hưởng từ, siêu âm, nội soi, điện tim, điện não đồ PACS sử dụng định dạng chuẩn để lưu trữ và chuyển giao hình ảnh được gọi là DICOM - Digital Imaging and Communications in Medicine (Kỹ thuật số Hình ảnh và Truyền thông trong Y học), đồng thời cũng có thể đóng gói dữ liệu không phải hình ảnh trong định dạng DICOM, chẳng hạn như định dạng PDF và JPG để phân phối, xem và lưu trữ của cả hai định dạng DICOM và không DICOM. Một giải pháp PACS bao gồm bốn thành phần chính:  Phương thức hình ảnh như CT, chụp MRI, và X-quang (là những dụng cụ và các loại thiết bị khác nhau tạo ra hình ảnh bằng sử dụng X-quang, siêu 12 âm, cộng hưởng từ, hoặc các phương pháp ghi chép khác như huyết học, điện tim, tiêu hóa, nhãn khoa)  Mạng máy tính bảo đảm cho việc truyền tải thông tin bệnh nhân.  Lưu trữ và cất giữ hình ảnh, thông tin của các nghiên cứu và báo cáo.  Có các máy trạm (máy tính để bàn, laptop, máy tính bảng, điện thoại di động) sử dụng để lấy, giải thích, và xem xét hình ảnh. Hình 7: Các thành phần của PACS Một giải pháp PACS có bốn công dụng chính:  Thay thế bản sao cứng của hình ảnh y tế (phim ảnh truyền thống) bằng những hình ảnh điện tử trên máy tính.  Cung cấp truy cập từ xa các báo cáo về bệnh nhân (gồm thông tin và các hình ảnh cơ thể của bệnh nhân) để xem, cho phép bác sỹ chẩn đoán hình ảnh làm việc từ các địa điểm khác nhau có thể truy cập cùng một thông tin cùng một lúc.  Tạo ra một nền tảng tích hợp các hình ảnh điện tử dùng cho chẩn đoán hình ảnh kết nối với các hệ thống y tế thông minh khác như hệ thống thông tin bệnh viện (HIS), cơ sở dữ liệu bản ghi y tế điện tử - Electronic Medical Record (EMR), và hệ thống thông tin hình ảnh (RIS) để tạo thuận lợi cho việc chẩn đoán.  Cung cấp quản lý công việc chẩn đoán, được sử dụng bởi nhân viên chụp X-quang để quản lý quy trình khám chữa bệnh nhân. b. Đội ngũ chăm sóc ảo Kết nối đã tạo ra nhiều lựa chọn mới trong ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe, bao gồm cả các đại lý ảo y tế, cổng thông tin, tham vấn từ xa, và hồ sơ sức 13 khỏe điện tử cá nhân. Các tùy chọn telemedicine sẽ tiếp tục tăng trưởng trong trong tương lai gần, và công ty bảo hiểm, dưới áp lực tiết kiệm chi phí sẽ áp dụng các phương pháp mới - chăm sóc ảo (virtual healthcare) được đưa vào để bổ sung vào các dịch vụ truyền thống. Đối với các chương trình chăm sóc ảo, để đạt được thành quả lớn trong tương lai, các nhà cung cấp dịch vụ, bảo hiểm, và các nhân viên y tế sẽ cần phải thúc đẩy các giải pháp cho bệnh nhân của họ. Dịch vụ Telehealth phải được bổ sung đầy đủ các chức năng, mang đến lợi ích to lớn cho bệnh nhân. Mọi người bệnh có thể sử dụng cổng thông tin y tế trực tuyến như WebMD để đặt câu hỏi, tra cứu thông tin y tế chi tiết, và tư vấn theo yêu cầu. Nhưng hiện tại thì ngay cả người dân Mỹ cũng đang quá chậm trong việc sử dụng các dịch vụ này. Đa số người dân chi tiền trong ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe (75%) dành cho việc điều trị các bệnh mạn tính. Chăm sóc ảo cung cấp cho bác sĩ một cách dễ dàng hơn để liên tục theo dõi, tham gia với bệnh nhân mạn tính và làm giảm chi phí, và cũng cho phép các chuyên gia chăm sóc với phương pháp điều trị nhanh gọn hơn phương thức đến phòng khám đối với một số bệnh nhẹ như cảm lạnh thông thường... Đối với bệnh nhân, tùy chọn này có nghĩa là vấn đề sức khỏe trẻ em có thể được giải quyết nhanh hơn và thường được xử lý ngay tại nhà. Trong một số trường hợp, các chương trình chăm sóc ảo có thể cung cấp cho bệnh nhân khả năng kết nối nhanh đến bác sĩ khi không có thời gian chờ ở bệnh viện. Các chương trình khác sẽ có thể kết nối bệnh nhân với các bác sĩ ngoài giờ mà không cần phải đi đến phòng khám. c. Mobile health Các công ty công nghệ đã bắt đầu nhìn thấy thị trường sức khỏe di động (m- Health) sẽ là cuộc cách mạng tuyệt vời trong kinh doanh. m-Health được coi là tổng hợp của các ứng dụng dựa trên công nghệ cho phép bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng tương tác từ các địa điểm khác nhau. Ví dụ như trao đổi thông tin y tế thông qua e-mail, nhắn tin, ứng dụng smartphone, lưu trữ và trao đổi hình ảnh, video trên web. 14 Hình 8: Mobile health Thị trường m-Health đang được tái phát triển bởi sự tăng trưởng của ngành công nghiệp điện thoại thông minh. Với hơn 1,03 tỷ smartphone được bán ra trên toàn thế giới, con số này dự kiến sẽ tăng lên hơn 27% trong vòng 5 năm tới. Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi hàng ngàn ứng dụng được người dùng sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Người dùng đang được hưởng sự tiện lợi của thiết bị cầm tay từ việc gửi tiền, tìm đường, giải trí Trên thế giới, cơ sở hạ tầng y tế vẫn chưa thể đáp ứng được hết các cuộc gặp gỡ giữa bệnh nhân và bác sĩ. Loại hình chăm sóc sức khỏe qua di động đang được kì vọng có thể cải thiện được tình huống này. Mặc dù smartphone đã có hơn 7 năm phát triển mạnh tính từ khi iPhone đầu tiên ra đời nhưng thị trường m-Health vẫn dậm chân tại chỗ. Hiện có hơn 20.000 ứng dụng về chăm sóc sức khỏe có sẵn trên thị trường. Một nghiên cứu của Pew Research Center 2012 cho thấy có 10% người sử dụng điện thoại tải về ứng dụng chăm sóc sức khỏe, và chỉ khoảng 10% dân số Mỹ (36 triệu) sử dụng công nghệ m-Health, chẳng hạn như chăm sóc từ xa. Việc bác sĩ và bệnh nhân còn phụ thuộc vào phòng khám là rào cản lớn đối với m-Health. Bác sĩ hoặc bệnh nhân sử dụng công nghệ như là một nguồn tài nguyên cá nhân phục cho nhu cầu y tế sẽ khiến họ không quá phụ thuộc vào nhau. Một bệnh nhân có thể tự theo dõi bệnh tiểu đường của mình, hoặc một bác sĩ có thể tìm kiếm đơn thuốc chuẩn hóa là không quá ngạc nhiên, nền tảng thiết bị di động và các ứng dụng y tế chưa có sự thống nhất... Mọi thứ sẽ tốt hơn cho cả bệnh 15 nhân và bác sĩ nếu có thể cùng chia sẻ dữ liệu thời gian thực với nhau, xem xét thông tin và xử lý trước khi biến chứng có thể phát sinh. 4.3 Tự động hoá trong ngành y tế: Với đòi hỏi ngày càng cao của xã hội về yêu cầu đáp ứng nhanh trong chẩn đoán và điều trị đã thúc đẩy công nghệ tự động hoá trong ngành TBYT phát triển vượt bật. Từ các thiết bị xét nghiệm , đến các thiết bị chẩn đoán hình ảnh và thiết bị điều trị đều đã áp dụng công nghệ tự động hoá. Dựa theo nguyên lý hoạt động, vận hành và mức độ tự động hóa, TBYT hiện nay được chia thành các nhóm như sau:  Thiết bị vận hành thủ công/bằng tay  Thiết bị bán tự động  Thiết bị Tự động hóa  Hệ thống thiết bị tự động hóa  Tự động hoá điều khiển từ xa Hiện nay, các trang thiết bị ứng dụng công nghệ tự động hóa được tập trung nghiên cứu và ứng dụng nhiều trong một số hoạt động y tế sau: a. Xét nghiệm: Việc chuẩn bị mẫu thủ công trong khâu xét nghiệm luôn là công đoạn gây tiêu tốn khá nhiều thời gian khiến cho người bệnh phải chờ đợi quá lâu mới nhận được kết quả xét nghiệm. Trong khi những việc trên có thể được thay thế bởi thiết bị hỗ trợ với các thao tác tự động đơn giản, rút ngắn tối đa thời gian và nhân lực. Bên cạnh đó, việc sử dụng thiết bị còn giúp tránh nhầm lẫn mẫu giữa các bệnh nhân, tránh lỗi đọc code, rút ngắn thời gian cho nhiều công đoạn, tăng lượng bệnh phẩm có thể thực hiện. 16 Hình 9: Xét nghiệm bằng phương pháp thủ công Thiết bị xét nghiệm tự động được xem như một giải pháp mà bệnh viện áp dụng trong công cuộc “tự động hóa phòng xét nghiệm”. Giúp giảm tải thời gian cho những công đoạn có thể thay thế bằng kỹ thuật công nghệ hiện đại. Với số lượng mẫu vận hành có thể lên đến 3.600 mẫu/giờ; thực hiện được gần 200 loại xét nghiệm miễn dịch và sinh hóa khác nhau - trong đó có nhiều xét nghiệm chuyên sâu giúp chẩn đoán và phát hiện sớm nhiều loại bệnh như ung thư, tim mạch, viêm gan, bệnh truyền nhiễm khác, thận, cấy ghép Hệ thống xét nghiệm tự động đã giúp giảm áp lực công việc cho nhân viên y tế, giảm thời gian chờ đợi của bệnh nhân, giảm những sai sót không đáng có, tinh gọn nhân sự, tăng hiệu quả công việc, tăng tính an toàn, tăng thời gian phục vụ chu toàn hơn cho bệnh nhân. Hình 10: Ứng dụng tự động hóa trong xét nghiệm y tế 17 Hình 11: Máy xét nghiệm bán tự động Hình 12: Máy xét nghiệm tự động hóa Hình 13: Thiết bị lấy mẫu xét nghiệm bán tự động Hình 14: Thiết bị lấy mẫu xét nghiệm tự động hóa Hình 15: Hệ thống phòng xét nghiệm tự động hóa 18 b. Chẩn đoán hình ảnh: Các thiết bị chẩn đoán hình ảnh như X Quang, CT, v.v. đều được thiết kế lập trình tự động nhiều chương trình tuỳ chọn theo phương thức điều trị khác nhau. Từ đó chỉ việc chọn chượng trình là máy có thể tự động thực hiện các kỹ thuật chụp chiếu liên quan. Hình ảnh có thể được chuyển tải tự động thông qua hệ thống PACS, (Picture Archiving and Comunication System) đến bác sỹ lâm sàng c. Robot trong y tế:  Robot hỗ trợ bệnh nhân: Robot có thể được điều khiển bằng một chiếc iPad, đi lại trong bệnh viện để bác sĩ từ xa quan sát tỉ mỉ và giao tiếp với bệnh nhân. Các robot "theo dõi sức khỏe từ xa nhằm giúp đỡ bệnh nhân trong bệnh viện khi xảy ra tình huống khẩn cấp, đặc biệt là vào ban đêm, khi số nhân viên trực thấp hơn, là cầu nối để bác sĩ điều trị từ xa tương tác với bệnh nhân. Chẳng hạn, khi có sự cố, một camera của robot có thể cung cấp góc nhìn 170 độ xung quanh căn phòng trong khi camera kia tập trung vào một điểm và phóng đại tối đa 30 lần, đủ để bác sĩ hay y tá thấy đôi mắt của bệnh nhân phản ứng với ánh sáng như thế nào. Hình 16: Robot RP-VITA trong phòng bệnh. Robot cũng có khả năng tự hành, cho phép nó di chuyển từ điểm này đến điểm khác trong khi tránh chướng ngại vật. Và có thể được bác sĩ hoặc y tá kiểm soát nhờ sử dụng máy tính bảng iPad hoặc máy tính xách tay qua kết nối Wi-Fi. 19 Robot chính một phương tiện cho các bác sĩ, y tá nhìn thấy và giao tiếp với bệnh nhân từ xa thông qua camera và màn hình HD, đồng thời cho phép truy cập vào dữ liệu lâm sàng của bệnh nhân.  Robot phẩu thuật Hiện nay Robot phẩu thuật đang là xu thế mới trong ngành phẩu thuật, với góc mổ rộng không cánh tay người nào có thể thực hiện được, phẫu thuật nội soi bằng robot có tỷ lệ thành công cao nhờ có độ phóng đại lớn, hoạt động cánh tay máy tự do trong ổ bụng, có thể thao tác ở những vị trí sâu trong cơ thể. Phẫu thuật robot phát triển với bốn cánh tay phẫu thuật, đầu camera thông minh, góc phẫu thuật rộng 540 độ, hình ảnh 3D. Hệ thống phẫu thuật vận hành từ xa dưới sự điều khiển của các bác sĩ một cách chính xác, linh hoạt, an toàn và mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất. Robot còn có khả năng bóc tách khối u và khâu nối tỉ mỉ. Khi được phẫu thuật bằng robot, bệnh nhân có thêm cơ hội được rút ngắn thời gian điều trị cũng như tiết giảm được chi phí nằm viện. Kết luận: Theo dõi trực tuyến, điều khiển từ xa và tự động hoá là chủ đề nằm trong chuỗi hệ thống các chủ đề của công nghiệp 4.0 trên thế giới trong đó có ngành y tế. Trong xu thế hội nhập việc đầu tư nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ trên tại Việt Nam, đặc biệt là trong ngành Y tế là hết sức cần thiết để góp phần trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. II. PHÂN TÍCH XU HƯỚNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TỰ ĐỘNG HÓA TRANG THIẾT BỊ Y TẾ TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU SÁNG CHẾ QUỐC TẾ Trang thiết bị y tế là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực cho người thầy thuốc trong công tác phòng và chữa bệnh. Do vậy, lĩnh vực trang thiết bị y tế cần được tăng cường đầu tư cả về số lượng và chất lượng, giúp hạn chế nhũng rủi ro trong xét nghiệm, chẩn đoán, điều trị cho người bệnh. 20 Cách mạng Công nghiệp 4.0 về tự động hóa và công nghệ số hóa đang diễn ra và lan rộng trong nhiều lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, y tế.. Việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trong y tế nói chung và trang thiết bị y tế nói riêng là một xu hướng tất yếu để phát triển bền vững và nâng cao chất lượng hiệu quả phục vụ và chăm sóc sức khỏe cho con người. 1. Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế theo thời gian Theo cơ sở dữ liệu sáng chế quốc tế DerWent Innovation, đến tháng 11/2017 có 21.441 sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng liên quan đến trang thiết bị y tế. Sáng chế đầu tiên được công bố tại Mỹ vào tháng 10/1954 và thuộc sở hữu bởi tập đoàn Ritter, đây là sáng chế đề cập đến nghiên cứu thiết bị y tế cố định được gắn trục xoay điều khiển tự động. Biểu đồ 1: Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế theo thời gian - Giai đoạn từ 1954 đến 1989, tổng số lượng sáng chế đạt 536 sáng chế. Trong đó, giai đoạn đầu (từ 1954 đến 1975): trung bình mỗi năm có khoảng 02 - 03 công bố sáng chế, và giai đoạn 1976 - 1989: trung bình mỗi năm có khoảng 19-20 sáng chế. Số lượng công bố sáng chế tập trung nhiều ở các quốc gia: Mỹ, Canada, Đức và Nhật. Việc nghiên cứu công nghệ tự động hóa trong trang thiết bị y tế trong giai đoạn này vẫn đang là hướng đi mới và được xem là giai đoạn tiền đề cho sự phát triển sau này. 21 - Giai đoạn từ 1990 đến hiện nay, tổng số lượng sáng chế đạt 20.905 sáng chế, tăng gấp 39 lần so với giai đoạn 1954 đến 1989. Trong đó:  Từ 1990 đến 1999: tổng số lượng sáng chế đạt 1.498 sáng chế, trong vòng 01 thập niên số lượng tăng gầp 03 lần so với giai đoạn từ 1954 đến 1989. Lượng sáng chế tăng từ: 69 lên 248 sáng chế (năm 1999) (tỷ lệ tăng từ 0,12% lên 0,52%), trung bình mỗi năm có khoảng 140 – 150 công bố sáng chế. Ở giai đoạn này, công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế đã bắt đầu được quan tâm nghiên cứu.  Từ 2000 đến 2010, tổng số lượng sáng chế đạt 9.302 sáng chế, tốc độ tăng trưởng nhanh: gấp 9 lần so với giai đoạn từ 1990 đến 1999, số lượng sáng chế tăng nhanh từ 305 sáng chế (năm 2000) lên đến 1543 sáng chế (năm 2010), trung bình mỗi năm có khoảng 940 sáng chế được công bố trên thế giới. Giai đoạn này, công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế đã được quan tâm nghiên cứu nhiều. Các quốc gia ở khu vực Châu Á bắt đầu tập trung nhiều vào hướng nghiên cứu này, tiêu biểu: Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ.  Từ 2011 đến hiện nay, tổng số lượng sáng chế đạt khoảng 10.105 sáng chế. Trong 07 năm gần đây số lượng sáng chế tăng mạnh và vượt hơn tổng số sáng chế của giai đoạn từ 2000 đến 2010, chiếm tỷ lệ hơn 47% trên tổng số lượng sáng chế của công nghệ tự động hóa trang thiết bị, trung bình mỗi năm có khoảng 2000 sáng chế được công bố trên thế giới. Năm 2016 số lượng đạt 2.890 sáng chế, đây là số lượng sáng chế công bố cao nhất kể từ năm 1954 cho đến hiện nay. Số lượng công bố sáng chế tập trung nhiều ở các quốc gia: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc, Canada, Đức, 22 Biểu đồ 2: Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế từ năm 1990 đến tháng11/2017. Số lượng sáng chế tăng nhanh và liên tục trong nhưng năm gần đây, chứng tỏ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế đang được quan tâm và trở thành xu hướng mới trên thế giới. 2. Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế tại các quốc gia Hiện nay, sáng chế về nghiên cứu công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế được đăng ký bảo hộ tại 50 quốc gia và 2 tổ chức WO, EP. Trong đó, các quốc gia Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Úc, Đức là các quốc gia dẫn đầu về số lượng sáng chế công bố. Các quốc gia khác sở hữu tỷ lệ công bố giao động từ 0,06 đến 2,8%. Biểu đồ 3: Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế ở 10 quốc gia dẫn đầu 23 Trong đó, Mỹ là quốc gia có sáng chế được công bố sớm nhất năm 1954 và có tổng lượng sáng chế cao nhất 8.758 sáng chế tính đến tháng 11/2017. Từ 1954 đến nay, Mỹ liên tục nhiều năm dẫn đầu thế giới về sở hữu số lượng sáng chế công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế. Giai đoạn phát triển nổi bật của quốc gia này là từ 2000 đến 2015, số lượng sáng chế công bố tăng cao và liên tục, đặc biệt năm 2014 có số lượng cao nhất 819 sáng chế. Nhật là quốc gia Châu Á đầu tiên có sáng chế công bố về công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế vào năm 1975 và thường xuyên đứng trong nhóm 02 đến 05 quốc gia có số lượng sáng chế nhiều nhất. Giai đoạn từ 1988 – 1997 và 1996 – 1999, Nhật có số lượng sáng chế vươn lên đứng đầu thế giới, đây là một trong những giai đoạn phát triển mạnh mẽ về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế tại Nhật. Số lượng sáng chế cao nhất đạt 263 sáng chế vào năm 2013. Vào những thập niên 80, Trung Quốc mới bắt đầu có sáng chế đầu tiên về nghiên cứu công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế vào năm 1986. Từ năm 2000 đến năm 2012, Trung Quốc vươn lên nhóm 05 quốc gia có số lượng công bố sáng chế nhiều nhất trên thế giới. Đặc biệt đến giai đoạn từ 2012 đến hiện nay, số lượng sáng chế tăng rất nhanh và liên tục, vươn lên dẫn đầu khu vực Châu Á và xếp thứ 2 thế giới từ năm 2012 đến 2015. Đến năm 2016, với số lượng 840 sáng chế, Trung Quốc đã vươn lên đứng đầu thế giới. Tiếp theo là Mỹ với 707 sáng chế, Nhật (250 sáng chế), Hàn Quốc (96 sáng chế), Canada (67 sáng chế). Qua các số liệu trên, chứng tỏ rằng việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế đang được quan tâm tại các quốc gia Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Úc, Đức. Và những năm gần đây, một số quốc gia thuộc khu vực Châu Á cũng đã bắt đầu quan tâm và nghiên cứu về vấn đề này như: Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, 24 3. Tình hình công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế theo các hướng nghiên cứu Biểu đồ 4: Tình hình công bố sáng chế về công nghệ tự động hóa trong trang thiết bị y tế theo hướng nghiên cứu Trên cơ sở số liệu sáng chế tiếp cận được, số lượng các sáng chế công bố về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế tập trung chủ yếu vào các hướng nghiên cứu chính sau:  Hướng nghiên cứu và ứng dụng thiết bị trong chẩn đoán và phẩu thuật: chiếm 39,95% trong tổng lượng sáng chế.  Phương pháp và sản xuất thiết bị truyền năng lượng điện, từ trường, phòng xạ, sóng siêu âm: 25,77% trong tổng lượng sáng chế.  Thiết bị, dụng cụ phụ trợ cấy ghép, chỉnh hình, lăp đặt và dẫn các chất vào trong cơ thể: 18,44% trong tổng lượng sáng chế.  Phương pháp và ứng dụng thiết bị khử trùng, xử lý mùi trong không khí cho đồ dùng, dụng cụ y tế: 8,51% trong tổng lượng sáng chế. Trong đó, hướng nghiên cứu và ứng dụng thiết bị trong chẩn đoán và phẩu thuật chiếm tỷ lệ công bố sáng chế cao nhất và tập trung nhiều tại các quốc gia: Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Úc,... và 02 tổ chức WO và EP. Điều này cho thấy hướng nghiên cứu về công nghệ tự động hóa cho thiết bị chẩn đoán và phẩu thuật đang được quan tâm và trong đó tập trung nhiều tại 04 quốc gia trên. 25 4. Một số đơn vị dẫn đầu số lượng công bố sáng chế về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hóa trang thiết bị y tế Biểu đồ 5

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchuyen_de_xu_huong_nghien_cuu_va_ung_dung_cong_nghe_truc_tuy.pdf
Tài liệu liên quan