Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở Việt Nam hiện nay

Báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp cho biết, hiệu quả hoạt

động, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước được nâng lên; cơ bản đáp ứng được

nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng, an ninh; là một trong những công cụ quan trọng để Nhà

nước điều tiết vĩ mô. Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã xây dựng được đội ngũ lao

động kỹ thuật với trình độ tay nghề cao; góp phần quan trọng xây dựng các kết cấu hạ tầng

kinh tế-xã hội, các dự án trọng điểm của Nhà nước phục vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã

hội dài hạn của đất nước, những dự án lớn hoặc có ý nghĩa chính trị và hiệu quả xã hội lớn

mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không làm hoặc không đủ khả năng

làm. Năng lực, trình độ của nhiều cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ,

công nhân kỹ thuật được nâng lên, chuyên nghiệp hơn. Mô hình tổ chức và phương thức lãnh

đạo của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước được đổi mới phù hợp hơn với điều kiện

doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường; tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước

đóng góp thiết thực vào hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bảo

đảm quyền lợi hợp pháp, nâng cao thu nhập cho người lao động.

Việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên đã hoàn thành, các DNNN

đã chuyển sang công ty TNHH một thành viên hoặc chuyển sang một hình thức khác, về cơ

bản chúng ta đã thực hiện theo đúng lộ trình đưa ra. Từ đây, các doanh nghiệp không phân

biệt công hay tư đều vận hành theo một khuôn khổ pháp lý chung, bình đẳng, không có sự

phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp, từ đó tạo cơ sở cho DNNN hoạt động có hiệu quả

hơn, xứng đáng với vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân

pdf10 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyên đổi cũng như việc thực hiện chức năng, vai trò của doanh nghiệp đối với nền kinh tế, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm đem lại hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên và phương hướng tiếp theo sau chuyển đổi. 3- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập chung nghiên cứu các quy định của pháp luật trong quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên để từ đó đưa ra một số kiến nghị cho hoạt động của DNNN sau khi chuyển đổi nhằm đem lại hiệu quả hơn cho hoạt động của các công ty. 4- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đó là: Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các văn bản pháp luật trước đây cũng như hiện hành nhằm thấy được những ưu điểm cũng như hạn chế trong các văn bản pháp luật Phương pháp phân tích tổng hợp: phân tích các quy định được dẫn giải trong các văn bản pháp luật, tổng hợp các quy định của pháp luật quy định liên quan đến hoạt động chuyển đổi và sau chuyển đổi để có được cái nhìn khái quát nhất. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp duy vật lịch sử để xem xét quá trình chuyển đổi và bản chất của chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên 5- Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận thì luận văn được kết cấu làm 3 chương lớn: Chương 1- Khái quát chung về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. Chương 2- Thực trạng pháp luật về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. Chương 3- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động của các DNNN sau khi chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên. Chương 1- Khái quát chung về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên: 1.1- Quan niệm về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên . Chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên là một quá trình thay đổi về mặt nội dung cũng như hình thức trong các DNNN. Trong đó thay đổi cơ bản nhất là thay đổi về khung pháp lý, theo đó DNNN trở thành những doanh nghiệp có địa vị pháp lý như những doanh nghiệp dân doanh khác, hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 và không còn được nhận những ưu tiên từ phía Nhà nước trong quá trình hoạt động đầu tư và kinh doanh. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn đầu tư, doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình mà cơ quan nhà nước không chịu trách nhiệm thay cho doanh nghiệp. Có thể nói đây là một quá trình “công ty hóa” các DNNN, về bản chất pháp lý thì khi đó DNNN mới thực sự là công ty. 1.2-Sự cần thiết của việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên Về mặt pháp lý thì theo quy định tại điều 166, Luật doanh nghiệp 2005 thì chậm nhất là trong thời hạn bốn năm kể từ ngày Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực (tức là ngày 01/7/2006) các công ty Nhà nước thành lập theo Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 phải chuyển đổi thành công ty TNNN hoặc công ty cổ phần theo quy định của luật doanh nghiệp năm 2005. Như vậy, thời hạn 01/7/2010 là thời hạn mà Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 hết hiệu lực pháp luật, việc chuyển đổi tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các DNNN Về mặt kinh tế thì với việc chuyển đổi những DNNN mà nhà nước cần nắm giữ 100% vốn sang công ty TNHH một thành viên nhằm mục đích đổi mới tổ chức quản lý, cơ chế hoạt động, tạo ra sự bình đẳng trong đầu tư kinh doanh với các loại hình doanh nghiệp khác. DNNN trở thành một thực thể kinh tế độc lập, có quyền tự chủ trong kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy, DNNN sẽ hoạt động có hiệu quả hơn mà không phải phụ thuộc vào các mệnh lệnh hành chính. DNNN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân khi mà nắm giữ một lượng tài sản khổng lồ của đất nước, nguồn nhân lực có trình độ cao, việc hoạt động có hiệu quả hay không của DNNN có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Hơn nữa, bước vào xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc gia nhập WTO thì Việt Nam phải tạo nên một “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp đó là một yêu cầu chung, như vậy việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên là một việc làm cần thiết. 1.3- Quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên Việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên là là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng nhưng đồng thời nó cũng là nhiệm vụ rất khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của nước ta, bằng chứng là nó đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hàng loạt các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này đã được ban hành tạo ra cơ sở pháp lý cho quá trình chuyển đổi. Tiêu biểu phải kể đến một số Nghị định cụ thể: Ngày 14/09/2001 Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2001/NĐ-CP về chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội thành Công ty TNHH một thành. Sau một thời gian thực hiện thì nghị định số 95/2006/NĐ-CP (08/9/2006) của Chính phủ về chuyển đổi Công ty Nhà nước thành Công ty TNHH một thành ra đời thay thế Nghị định 63/2001/NĐ-CP. Và để hoàn thành công việc chuyển đổi thì nghị định số 25/2010/NĐ-CP (19/3/2010) về chuyển đổi công ty Nhà nước thành Công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu được ban hành thay thế các nghị định truớc đó về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. Sự ra đời của Nghị định 25/2010/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra những quy định mới, tạo sự thuận tiện, dễ dàng hơn cho các DNNN trong quá trình chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên, nhằm thực hiện đúng với lộ trình chuyển đổi mà Luật doanh nghiệp đã quy định và phù hợp với cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của nước ta. Chương 2- Thực trạng pháp luật về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên 2.1- Trình tự, thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên: Chuyển đổi DNNN sang Công ty TNHH một thành viên là một việc làm cần thiết trong nền kinh tế thị trường cũng như trong việc hội nhập kinh tế quốc tế, chính vì vậy như phần trên đã nói, có rất nhiều văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho quá trình chuyển đổi. Vì vậy, việc chuyển đổi phải tuân theo trình tự thủ tục theo luật định. 2.1.1- Đối tượng chuyển đổi 2.1.2- Chủ sở hữu 2.1.3- Điều kiện chuyển đổi 2.1.4- Thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên 2.2 Tổ chức quản lý DNNN sang công ty TNHH một thành viên sau chuyển đổi: 2.2.1- Tổ chức quản lý công ty theo mô hình Hội đồng thành viên: Chủ sở hữu công ty quyết định áp dụng cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình Hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên nhân danh chủ sở hữu công ty tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty; có quyền nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty; chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu công ty về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao theo quy định của Luật doanh nghiệp và pháp luật có liên quan. 2.2.2 Tổ chức quản lý công ty theo mô hình Chủ tịch công ty: Chủ tịch công ty do chủ sở hữu công ty bổ nhiệm với nhiệm kỳ không quá 05 năm; có thể được bổ nhiệm lại hoặc thay thế. Chủ tịch công ty có thể kiêm Tổng giám đốc công ty. Điều lệ công ty quy định Chủ tịch công ty hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. 2.3 Quyền lợi của người lao động khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên Khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên thì có rất nhiều đối tượng chịu ảnh hưởng trong đó chịu ảnh hưởng trực tiếp là người lao động. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi của người lao động Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho người lao động khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. 2.4 Thực tiễn chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên 2.4.1 Những kết quả đạt được trong quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên: Có thể nói việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên là một bước trong quá trình đổi mới DNNN, một giải pháp trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế quốc gia. Trong thời gian qua, hệ thống pháp lý tạo điều kiện cho việc đổi mới DNNN đã đạt được những kết quả nhất định đó là: Thiết lập một hệ thống khung pháp lý tương đối đồng bộ theo hướng tạo môi trường bình đẳng, không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giảm thiểu các thủ tục khi gia nhập thị trường; hoàn thiện tổ chức quản lý, quản trị doanh nghiệp. Đã xây dựng và phê duyệt các đề án tổng thế sắp xếp, đổi mới DNNN phù hợp với vai trò của khu vực nhà nước trong cơ chế thị trường làm cơ sở cho các Bộ ngành, địa phương thực hiện được tốt hơn. Báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp cho biết, hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước được nâng lên; cơ bản đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho quốc phòng, an ninh; là một trong những công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô. Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã xây dựng được đội ngũ lao động kỹ thuật với trình độ tay nghề cao; góp phần quan trọng xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, các dự án trọng điểm của Nhà nước phục vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội dài hạn của đất nước, những dự án lớn hoặc có ý nghĩa chính trị và hiệu quả xã hội lớn mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không làm hoặc không đủ khả năng làm. Năng lực, trình độ của nhiều cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật được nâng lên, chuyên nghiệp hơn. Mô hình tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước được đổi mới phù hợp hơn với điều kiện doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường; tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước đóng góp thiết thực vào hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm quyền lợi hợp pháp, nâng cao thu nhập cho người lao động. Việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên đã hoàn thành, các DNNN đã chuyển sang công ty TNHH một thành viên hoặc chuyển sang một hình thức khác, về cơ bản chúng ta đã thực hiện theo đúng lộ trình đưa ra. Từ đây, các doanh nghiệp không phân biệt công hay tư đều vận hành theo một khuôn khổ pháp lý chung, bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp, từ đó tạo cơ sở cho DNNN hoạt động có hiệu quả hơn, xứng đáng với vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. 2.4.2 Những mặt hạn chế của DNNN sau khi chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên Thứ nhất, sự ra đời của Nghị định 25/2010/NĐ-CP đã cụ thể hóa những quy định về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên. Đây là một sự kiện được rất nhiểu người quan tâm, với nhiều ý kiến khác nhau, liệu DNNN có chuyển đổi đúng hạn và sau chuyển đổi hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp sẽ như thế nào? liệu có phải tình trạng “bình mới rượu cũ ” hay “chỉ là thay áo khoác bề ngoài” mà thôi?và còn nhiều câu hỏi tương tự như vậy. Tuy nhiên, cho đến nay trong Báo cáo của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp thì việc chuyển đổi đã hoàn thành, các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đã chuyển sang công ty TNHH một thành viên. Và sau một thời gian rầm rộ, thì câu chuyện chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên đã được lắng xuống. Mặc dù vậy, không phải chúng ta đã hoàn toàn thành công, đã làm được những điều tưởng chừng như không thể, bởi đây chỉ là một điểm “dừng chân” của con tàu DNNN trên con đường hội nhập vào sân chơi chung cùng các loại hình doanh nghiệp khác mà thôi. Sau khi chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên, về cơ bản doanh nghiệp chưa có sự thay đổi đáng kể nào về quản trị doanh nghiệp, điểu này có thể lý giải bởi vì thời gian chuyển đổi là gấp gáp khi mà thời hạn chuyển đổi đã đến thì các doanh nghiệp mới tiến hành chuyển đổi, mà thực tế là từ sau khi Nghị định 25/2010/NĐ-CP ra đời thì công cuộc chuyển đổi mới thực sự có sự chuyển biến, chính vì vậy việc chuyển đổi mới chỉ là “thay tên, đổi họ”, là hình thức bên ngoài mà thôi. Thứ hai, chưa có sự rõ ràng về chủ sở hữu công ty, tại Điều 3 Nghị định 25/2010/NĐ- CP quy định "Nhà nước là chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do mình nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ. Chính phủ thống nhất tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ". Tuy nhiên, Nhà nước lại là một danh từ chung, một phạm trù rộng lớn, trừu tượng và nó không chỉ đích danh là ai. Vì vậy, trong trường hợp này, chủ sở hữu vẫn không được xác định cụ thể. Nghị định 25/2010/NĐ-CP cũng quy định: "Mỗi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được chuyển đổi từ công ty nhà nước hoặc thành lập mới chỉ do một tổ chức được phân công, phân cấp dưới đây thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu (sau đây gọi tắt là chủ sở hữu)". Và các tổ chức đó là: Thủ tướng Chính phủ hoặc một tổ chức chuyên trách được Chính phủ phân công; Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); Công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ – công ty con, công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước trong một số trường hợp. Như vậy, so với trước thì việc xác định chủ sở hữu vẫn chưa rõ ràng, các cơ quan quản lý quản lý hành chính vẫn là chủ sở hữu của các doanh nghiệp kinh doanh, liệu rằng hoạt động kinh doanh của công ty có vận hành được tốt hay không, trong khi việc kinh doanh hằng ngày của công ty liên quan đến nhiều vấn đề từ kinh tế, lao động kỹ thuật, đất đai, tập quán quốc tếmặt khác, kinh doanh phải tính đến yếu tố năng động, nhanh chóng nắm bắt được cơ hội kinh doanh mà cứ chờ xin ý kiến của chủ sở hữu doanh nghiệp cũng đồng thời đang kiêm nhiệm chức danh quản lý hành chính Nhà nước theo quy định thì thời cơ có lẽ sẽ vụt mất trong khi nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước đang ngày càng năng động phát triển. Còn trong trường hợp chủ sở hữu không phải là cơ quan quản lý hành chính Nhà nước mà là công ty mẹ hoặc là Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước thì liệu rằng họ có dám “cho ý kiến” hay không khi mà nguồn vốn của Nhà nước lại thuộc sự quản lý của các cơ quan Nhà nước mà chính họ cũng chịu sự quản lý, nếu giả sử ý kiến họ đưa ra là kịp thời, nhanh chóng nhưng việc kinh doanh lại gặp rủi ro, thua lỗ thì họ lại phải chịu trách nhiệm về “cố ý làm trái, gây hậu quả nghiêm trọng”, còn để tránh bị chịu trách nhiệm họ lại phải đi “xin ý kiến” cấp trên, vậy vẫn phải lòng vòng trong cơ chế xin cho, mà điều này lại không phù hợp với nền kinh tế thị trường. Thứ ba, một vấn đề nữa đó là sau khi chuyển đổi nhiều doanh nghiệp sẽ có tâm lý yên tâm và “dậm chân tại chỗ” hay chây ỳ mà không thực hiện các công việc cho việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp, bởi việc chuyển đổi sang công ty TNHH Nhà nước một thành viên chỉ là tạm thời chứ không phải là trạm dừng chân vô thời hạn của các doanh nghiệp. Chính vì vậy Nhà nước phải có những chế tài cứng rắn để các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa theo đúng lộ trình Nhà nước đã đưa ra. Như vậy, có thể thấy về cơ bản chúng ta đã chuyển đổi các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sang công ty TNHH một thành viên, đã tạo nên một khung khổ pháp lý chung cho các loại hình doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu tăng hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp có vốn sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên, không phải chuyển đổi xong là chúng ta đã hoàn thành mọi công việc mà sau chuyển đổi cũng còn có rất nhiều vấn đề cần phải quan tâm. Trong đó chúng ta cần phải xậy dựng được một khuôn khổ pháp luật hoàn thiện để cho hoạt động các doanh nghiệp được thuận lợi hơn. Chương 3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động của các DNNN sau khi chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên: 3.1 Một số nhận xét về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên Đến thời điểm này việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên đã hoàn thành, DNNN tuy đã giảm về số lượng nhưng trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng thì mạnh lên, quy mô vốn tăng, hiệu quả hoạt động tốt hơn. Về cơ bản DNNN thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt, có vị trí then chốt, làm công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong hoạt động của mình DNNN vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều DNNN đầu tư dàn trải, việc phát triển một số ngành nghề mới không liên quan đến ngành nghề chính của doanh nghiệp dẫn đến phân tán nguồn vốn đã ít và chứa đựng thêm nhiều rủi trong kinh doanh, trình độ công nghệ, năng suất lao động của nhiều doanh nghiệp còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và tương xứng với đầu tư của Nhà nước. Sau khi chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên thì tất nhiên hàng loạt các văn bản pháp luật sẽ hết hiệu lực, chính vì vậy cần phải có một hệ thống pháp luật mới đảm bảo sự đồng thuận thống nhất trong các quy định, ví dụ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã ban hành thông tư số 12/2011/TT-BLĐTBXH ngày 26 tháng 04 năm 2011 hướng dẫn thực hiện mức lương tối thiểu chung đối với công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, Thông tư ra đời đảm bảo sự thống nhất trong việc quản lý lao động, tiền lương, thưởng sau chuyển đổi, bởi vì trước đó có sự khác biệt nhất định về vấn đề này tại các công ty TNHH một thành viên là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước và các công ty TNHH một thành viên khác. Để việc đổi mới DNNN thật sự có ý nghĩa và nâng cao hoạt động kinh doanh của DNNN thì cần tới sự thay đổi, đồng thuận từ nhiều phía khác nhau, một trong những thay đổi quan trọng đó là các quy định của pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới. 3.2 Một số kiến nghị cụ thể về hoạt động của DNNN sau chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên 3.2.1 Về các quy định của pháp luật về hoạt động của DNNN sau khi chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên: Cần đảm bảo sự đồng bộ giữa các văn bản pháp luật khác so với Nghị định 25/2010/NĐ-CP và vị thế của công ty TNHH một thành viên sau chuyển đổi. Thực tế khi chuyển đổi các công ty đa số đều lựa chọn mô hình Chủ tịch công ty và hầu hết Chủ tịch công ty và Tổng giám đốc là kiêm nhiệm với lý do thói quen trong quản lý, điều hành hoặc viện lý do tránh chồng chéo dễ gây mâu thuẫn, mất đoàn kết. Vì vậy, cần có những quy định pháp luật rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty với Tổng giám đốc nhằm hạn chế việc tập chung quyền lực về một người mà không chú trọng giám sát dẫn đến những vi phạm nguyên tắc quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường và khi rủi ro tới lại mới xử lý trong khi thiếu cơ chế giám sát, phòng ngừa. Về kiểm soát viên: Kiểm soát viên là những người có vai trò quan trọng gắn với chủ sở hữu, giúp chủ sở hữu kiểm soát được tình hình tổ chức, thực hiện quyền chủ sở hữu trong quản lý, điều hành công ty. Việc bổ nhiệm, lựa chọn, thực thi nhiệm vụ, tăng cường năng lực của các kiểm soát viên, tách riêng nguồn trả lương, thưởng; cơ chế động lực, trách nhiệm của kiểm soát viên là những vấn đề quan trọng đối với công ty TNHH một thành viên, nó ảnh hưởng đến tính đổi mới, sự khác biệt, sức sống của mô hình công ty TNHH một thành viên so với DNNN trước đây. Chính vì vậy cần có những quy định pháp luật hết sức chặt chẽ về việc lựa chọn, bổ nhiệm cũng như trách nhiệm của kiểm soát viên đối với công ty TNHH một thành viên phải ban hành quy chế hoạt động của kiểm soát viên. Quy định về chủ sở hữu của doanh nghiệp thì pháp luật cần có quy định cụ thể chủ sở hữu của công ty. Ban hành các quy chế đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty TNHH một thành viên có vốn Nhà nước, quy chế kiểm soát, giám sát và nhất là cơ chế tuyển chọn người quản lý công ty cũng như nguồn lao động có trình độ cao. Cần có quy định rõ ràng, cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng loại doanh Đối với những doanh nghiệp độc quyền thì cần có những quy định để ràng buộc, quản lý các doanh nghiệp này không dùng vị trí độc quyền để chi phối thị trường, hoặc lợi dụng vị trí độc quyền để gây tổn hại cho người tiêu dùng bằng cách tạo nên sự khan hiếm hàng hóa, tăng giá, tăng phíNhà nước điều tiết thị trường là phải quản lý được giá và phí của những loại doanh nghiệp này và phải đảm bảo cung cấp một cách công bằng cho mọi đối tượng xã hội. Một vấn đề nữa là cần phải thống nhất các quy định về cơ chế hoạt động tài chính, lao động, tiền lương của công ty TNHH một thành viên, không nên có những quy định riêng cho công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; thống nhất áp dụng chế độ hợp đồng lao động đối với Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng và các chức danh quản lý điều hành của công ty TNHH một thành viên bởi lẽ mục đích chuyển đổi là tạo nên sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp nên cần phải hoạt động trên một mặt bằng pháp lý chung cùng với các doanh nghiệp khác. Cần có những quy định xử lý đối với những công ty do quản lý, điều hành yếu kém dẫn đến kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ kéo dàiphải cho giải thể, phá sản hoặc chuyển sang một hình thức sở hữu khác mà Nhà nước không còn nắm giữ 100% vốn điều lệ, để giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Trong thời gian này để thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp, Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 07 năm 2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần, vì vậy cần phải hướng dẫn thực hiện Nghị định này để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuận lợi trong việc chuyển đổi. 3.2.2 Về quá trình tổ chức thực hiện hoạt động của DNNN sau chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên: Một là, cần đưa việc giám sát thực hiện cổ phần hóa các công ty TNHH một thành viên vào chương trình giám sát của Quốc hội Hai là, cần phải có những quy định về chế tài xử lý đối với các vi phạm trong việc giám sát, đánh giá hiệu quả doanh nghiệp. Ba là, phải thực hiện công khai, minh bạch trong bổ nhiệm các vị trí quan trọng của doanh nghiệp, Bốn là, cần mạnh dạn giao cho tư nhân những lĩnh vực nhà nước làm ăn không hiệu quả. Năm là, phải đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước để làm tốt chức năng đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp. Sáu là, cần nghiên cứu và chỉ định một cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và giám sát vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp. Trên đây là một số kiến nghị cụ thể về quy định của pháp luật cũng như về tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN sau chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên, để việc chuyển đổi thật sự có ý nghĩa đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. KẾT LUẬN Việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên được xem là một bước đệm tạo ra một cú bứt phá cho tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sau nhiều năm bị đình trệ. Trong khi Đảng và Nhà nước vẫn xác định kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là thành phần kinh tế chủ đạo thì việc đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước là một việc vô cùng quan trọng nó quyết định tới sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, bên cạnh đó việc đổi mới DNNN tạo nên một khung khổ pháp lý bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, thực hiện đúng cam kết WTO của chúng ta, chính vì vậy tất cả sẽ cùng hoạt động trong một luật chung đó là Luật doanh nghiệp. Việc đảm bảo cho các DNNN sau chuyển đổi hoạt động theo đúng nguyên tắc của Luật doanh nghiệp chính là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp sau chuyển đổi hoạt động có hiệu quả hơn so với trước. Bên cạnh những kết quả đạt được của quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên thì sau chuyển đổi chúng ta còn cần phải thực hiện rất nhiều vấn đề để hoạt động doanh nghiệp đạt hiệu quả hơn từ các quy định của pháp luật cho đến việc tổ chức thực hiện các quy định đó. Chuyển đổi xong các DNNN sang công ty TNHH một thành viên, chúng ta lại tiếp tục chặng đường tiếp theo cũng vô cùng quan trọng đó là cổ phần hóa, hoặc chuyển sang hình thức quản lý khác như công ty TNHH hai thành viên trở lên đối với những công ty mà Nhà nước không cần thiết phải nắm giữ 100% vốn điều lệ, hoặc những công ty hoạt động chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trọng tâm của việc đổi mới được thực hiện trong giai đoạn 2012-2015, và việc này cần sự nổ lực của nhiều phía để đảo bảo thực hiện theo đúng kế hoạch. References 1. Hiến pháp năm 1992; 2. Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995; 3. Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003; 4. Luật Doanh nghiệp 1999; 5. Luật Doanh nghiệp 2005; 6. Nghị định số 63/2001/NĐ-CP ngày 14/09/2001 của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf000500001643_5813_2010180.pdf
Tài liệu liên quan