Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU

PHẦN NỘI DUNG

I. Sự cần thiết CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

1. Thực chất của cổ phần hoá

2. Thực chất doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

3. Sự cần thiết phải cổ phần hoá

II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua

1.1. Giai đoạn 1

1.2. Giai đoạn 2

1.3. Giai đoạn 3

III. Quan điểm và các giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới

1. Quan điểm

2. Các giải pháp

Giải pháp cho các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý

Giải pháp cho vấn đề dôi dư lao động trong doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hoá

Giải pháp cho những tồn tại về mặt tư tưởng

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu của giai đoạn này là thử nghiệm CPH ở một số DNNN để rút ra kinh nghiệm và mở rộng diện CPH sau này . Đối tượng CPH là các DNNN kinh doanh trong các nghành thông dụng: nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ. Phương thức tiến hành: chuyển một phần sở hữu Nhà nước dưới dạng bán cổ phần DNNN sang sở hữu tư nhân.Sau đó, doanh nghiệp hoạt động theo luật công ty. b/ Những nhận định chung: Dường như chính sách CPH còn thận trọng nên mới CPH được các DNNN có quy mô nhỏ. Các DNNN đã CPH tính đến 31/12/1995 TT Tên doanh nghiệp Ngày CPH Tổng vốn (triệu đồng) Cơ cấu vốn(%) NN CNVC Cổ đông ngoài 1 Đại lý Liên hiệp vận chuyển 01/07/93 6200 18 33.1 48.9 2 Cơ điện lạnh Tp Hồ Chí Minh 1/10/ /93 16000 30 50 20 3 Giầy Hiệp An 1/10/93 6769 30 50 20 4 Chế biến hàng XK Long An 1/7/95 3540 30.2 48.6 21.2 5 Công ty chế biến thức ăn gia súc 1/7/95 7912 30 50 20 Nguồn: Ban chỉ đạo Trung ương đổi mới doanh nghiệp Qua bảng số liệu trên ta thấy giai đoạn thí điểm ở Việt Nam chưa có sự tham gia của thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.Sau khi CPH, các doanh nghiệp vẫn giữ được ổn định và có chiều hướng phát triển tốt.Sự phát triển đó được biểu hiện ở việc tăng lao động, tăng doanh thu điển hình là: @ Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển sau 3 năm thực hiện CPH : ó Tổng số lao động năm 1993 từ 90 người đến tháng 6/1996 tăng lên 285 người. ó Doanh thu năm 1995 tăng hơn 4 lần so với năm 1993 ó Lãi cổ tức tăng 30%/năm. @ Công ty cổ phần Cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh: Tổng số lao động tăng từ 3345 người (1993) lên 494 người (1995). Doanh thu tăng gần 3 lần. Lãi cổ tức tăng 24%/ năm. @ Công ty cổ phần Giầy Hiệp An: J Số lao động tăng từ 403 lên 430 người. Doanh thu tăng 3 lần. Lãi cổ tức đạt : 47.6%/năm. Tuy nhiên, CPH tiến hành quá chậm.Trong suốt 4 năm (1992-1996) ở nước ta chỉ có 18 doanh nghiệp với số vốn hạn hẹp (doanh nghiệp lớn nhất chỉ đạt 20 tỉ đồng, doanh nghiệp nhỏ nhất là 0.4 tỉ đồng) được CPH.Qua nghiên cứu và thăm dò ý kiến một số nhà khoa học, các nhà quản lý, các doanh nghiệp, ta thấy nguyên nhân của tình trạng này có nhiều song tập trung chủ yếu vào 5 nguyên nhân cơ bản sau: Chủ trương và các văn bản luật chưa cụ thể và bảo đảm tính sát thựcđể các DNNN có thể triển khai nhanh chóng. - Do quyết tâm của các DNNN chưa cao. Điều này thể hiện ngay trong lãnh đạo từng doanh nghiệp còn lo sợ mất quyền lực, chức tước và lợi ích.Từ đó dẫn đến việc chỉ đạo, phối hợp của các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể không đồng bộ và thống nhất.Mặt khác, phía công nhân lo sợ mất việc làm, giảm thu nhập. - Thiếu kinh nghiệm trong CPH, các vấn đề kỹ thuật phức tạp.Do các hướng dẫn của cấp trên còn thiếu tính thực tế nên khi gặp các vướng mắc thì lúng túng không biết xử lý thế nào cho đúng.Thêm vào đó, chế độ kiểm toán không đầy đủ, việc định giá tài sản, giá đất, giải quyết các khó khăn còn hạn chế. Tuy vậy, giai đoạn này đã để lại nhiều bài học quý cho việc xây dựng các chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện công tác CPH cho các giai đoạn sau. 1. 2. Giai đoạn 2: mở rộng CPH (5/1996-5/1998): a/ Cơ sở pháp lý: Nghị định 28/CP được Thủ tướng Chính Phủ ký vào ngày 7/5/1996. Đây là văn bản chính thức đầu tiên về CPH có phạm vi áp dụng rộng rãi trong cả nước . Ưu diểm của nghị định này là xác định này là xác định rõ mục tiêu của CPH, nguyên tắc tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp , điều kiện và hình thức tiến hành CPH, đặc biệt chương III được dành nguyên để qui định những ưu đãi đối với doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp CPH. Quyết định 01/CPH của Bộ trưởng,Trưởng Ban chỉ đạo Trung Ương CPH về việc ban hành qui trình chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần . Thông tư 50/ TC - TCDN (30/8/1996) của Bộ Tài chính hướng dẫn những vấn đề về tài chính, bán cổ phần và phát hành cổ phần Ngoài ra còn có quyết định 548/TTg ngày 13/8/1996 của thủ Tướng chính phủ về việc thành lập các ban chỉ đạo CPH thông tư 17/LĐTBXH, thông tư ngày 07/90/1996 của bộ lao động Thương Binh và xã hội hướng dẫn chính sách đối với người lao động .Đến ngày 20/4/1998 có chỉ thị 20/1998/C T-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ về đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới DNNN. Đối tượng CPH là các doanh nghiệp thuộc nhóm các DNNN cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu. Chính Phủ yêu cầu từng Bộ, địa phương và Tổng công ty 91 trong kế hoạch CPH phải lựa chọn ít nhất 20% số DNNN không cần duy trì 100% vốn Nhà nước để thực hiện CPH. Mở rộng CPH không chỉ có các DNNN vừa và nhỏ mà còn có cả DNNN lớn và vốn trên 10 tỷ đồng trong đó Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Thời kỳ này đã mở rộng ra 3 hình thức thức tiến hành: - Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, chỉ phát hành thêm cổ phiếu. - Bán một phần DNNN. - Tách một bộ phận DNNN để tiến hành CPH. b/ Kết quả thu được: Trong vòng 2 năm đã CPH được 25 doanh nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh là Đơn vị dẫn đầu cả nước về CPH; Hà Nội trong năm 1997 chỉ CPH được 1 doanh nghiệp, chậm nhất trong cả nước. Danh mục một số DNNN tiêu biểu đã CPH ở giai đoạn này: TT Tên doanh nghiệp Ngày CPH Tổng vốn (triệu đồng) Cơ cấu vốn NN CNVC Cổ đông ngoài 1 Công ty xe khách Hải Phòng 1/9/96 2915 30 70 0 2 Công ty đầu tư sản xuất 1/7/96 356 0 100 0 3 Xí nghiệp ong mật Tp Hồ Chí Minh 1/7/96 2500 30 18.5 51.5 4 Khách sạn Sài Gòn 1/7/96 1800 40 40 20 5 CTCP DL Bảo Lộc 1/1/98 4300 23 12 65 6 Công ty bông Bạch Tuyết 5/11/97 11370 30 57 13 7 CTCP Thanh Tâm Thành phố Huế 10/4/98 1800 22.7 28.2 49.1 8 Tập thể SX hoá mĩ phẩm Sài Gòn 1/1/97 6400 35 50 15 Nguồn: Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp Cổ phần hoá đã thay đổi được phương thức quản lý, từ phương thức quản lý kiểu quan liêu, bao cấp,nay đội ngũ lãnh đạo được bầu chọn có trách nhiêm cao hơn, quyền lợi và nghĩa vụ gắn với nhau hơn. Doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của cổ đông nên họ kiểm soát được thu chi chặt chẽ hơn thông qua Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát của công ty. Do đó, tình trạng lãng phí của công (theo kiểu của “chùa”), lãng phí tài sản của doanh nghiệp giảm một cách tối thiểu. Theo tổng kết 18 doanh nghiệp cổ phần đến giữa năm 1997, ban CPH DNNN đã đánh giá một số chỉ tiêu tiến bộ: ỷ Vốn bình quân tăng : 45%/năm. Doanh thu tăng bình quân : 56.9%/năm. Lợi nhuận tăng bình quân : 70.2%/năm. Việc làm tăng bình quân : 98%/năm. Thu nhập người lao động tăng bình quân tăng: 20%/năm. Nộp ngân sách Nhà nước bình quân tăng : 98%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu : 191%/năm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn : 74.6%/năm. ( Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 241- tháng 6/1998 ). Nói chung trong giai đoạn này, việc CPH không còn xa lạ nữa, cán bộ lãnh đạo cũng như công nhân viên chức đã hiểu được mục tiêu, lợi ích của CPH nhiều hơn, tốt hơn so với trước kia. Do đó, tư tưởng CPH được thống nhất hơn, người lao động phấn khởi, tinh thần được củng cố.Tuy nhiên, quá trình CPH nhìn một cách tổng thể vẫn còn một số mặt yếu cơ bản sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp chưa có kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh lâu dài và hiệu quả. Nhiều công ty cổ phần thuiưà vốn không biết dùng vào việc gì và phải đem vốn cho vay. Thứ hai, tiến trình CPH diễn ra vẫn chậm, số lượng doanh nghiệp được CPH còn quá ít, nghị định 28/CP chưa hoàn thiện để đẩy nhanh CPH. CPH chậm chap nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là các văn bản điều chỉnh quá trình CPH thiếu cụ thể, thiếu đồng bộ và không bắt kịp tình hình thực tế. Sau một thời gian thực hiện, Nghị định 28/CP đã bộc lộ rất nhiều yếu kém như không giải quyết được hoặc giải quyết quá cứng nhắc các vấn đề phát sinh, chẳng hạn: vấn đề giải quyết lao động dư thừa, vấn đề xác định giá trị doanh ngiệp, ưu đãi cho người lao động, chưa rõ tiêu chí nào xác định trường hợp nào doanh nghiệp thuộc diện di dời, mắc nợ ; tiêu chí nào xác định lao động mghèo trong doanh nghiệp ,…Các nghị định của Chính phủ và các Bộ nghành về việc sửa đổi, bổ sung ban hành còn chậm, thiếu đồng bộ gây tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp trước khi tiến hành CPH. Đó là tâm lý muốn “lội nước theo sau”, nghĩa là muốn CPH sau để rút kinh nhiệm và được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Quy trình CPH lại rườm rà, quá nhiều thủ tục phiền phức, tốn kém. Đặc biệt tất cả các chi phí cho CPH lại do doanh nghiệp chịu nên không khuyến khích doanh nghiệp CPH. Mặt khác, do Nhà nước chưa có biện pháp mạnh mẽ, chưa kiên quyết coi CPH là nhiệm vụ bắt buộc mà lại chờ sự tự nguyện của các doanh nghiệp của các địa phương. Hơn nữa, bộ máy cồng kềnh trong quản lý làm giảm tính linh động trong việc ra quyết định CPH ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình CPH. Chẳng hạn các cán bộ trong ban chỉ đạo CPH do kiêm quá nhiều chức nên không tháo gỡ kịp thời những vướng mác cho doanh nghiệp, còn Ban chỉ đạo trung ương về CPH lại không có thẩm quyền quyết định trực tiếp các kế hoạch CPH. Một nguyên nhân rất quan trọng mang tính quyết định đó là từ phía doanh nghiệp và người lao động: lãnh đạo sợ mất chức, công nhân sợ mất việc, mất nguồn ưu đãi và bao cấp, một số cán bộ năng lự yếu kém thì sợ bị sa thải… Thứ ba là tổ chức đứng ra thực hiện chưa rõ ràng. Ban CPH gồm nhiều tổ chức như : Bộ Tài chính, Tổng Liên Đoàn Lao Động, Bộ Công nghiệp, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ Lao Động Thương Binh và xã hội… nên việc thống nhất ý kiến rất khó khăn. Thêm vào đó, một số văn bản chỉ đạo chưa cụ thể, chưa khẳng định trách nhiệm rõ ràng của từng bộ, từng địa phương. Thứ tư, việc tuyên truyền vận động CPH với công nhân viên chức chưa tốt, tập thể ban lãnh đạo nhiều doanh nghiệp chưa thực sự ủng hộ CPH đã gây ra không ít khó khăn cho tiến trình thực hiện các chủ chương, Nghị quyết của Đảng và Chính Phủ. Qua giai đoạn này, chúng ta đã thu được nhiều bài học quý giá để CPH diễn ra tốt hơn trong các giai đoạn sau. 1. 3. Giai đoạn 3: đẩy mạnh CPH (từ tháng 7/1998 đến nay) a/ Cơ sở pháp lý: Ngày 29/6/1998 Chính Phủ ban hành nghị định số 44/CP với mục tiêu mở rộng chế độ cho CPH. Nghị định 44/CP đã ban hành một phụ lục kèm theo danh sách các DNNN đã được sắp xếp và phê duyệt của Thủ Tướng, chỉ rõ DNNN nào cần giữ lại 100% vốn Nhà nước, doanh nghiệp nào sẽ CPH, cần CPH ngay… Điều này vừa cải tiến được thủ tục hành chính, vừa khắc phục được tình trạng thiếu rõ ràng của văn bản luật. Cùng ngày, Chính Phủ ra Quyết định 111/CP thành lập Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp T.W trên cơ sở hợp nhất hai ban chỉ đạo T.W về sắp xếp DNNN và Ban chỉ đạo T.W CPH với đại diện các bộ liên quan. Ngày 18/07/1998, Bộ Tài Chính ra thông tư số 104/1998/TT- BTC về vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 19/8/1998 Bộ Tài Chính có công văn số 3138TC/TCDN hướng dẫn sửa đổi một số điểm trên thông tư trên. Ngoài 3 phương thức tiến hành CPH như đã nêu trong ND28/CP còn thêm hình thức bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Cùng với mở rộng phương thức tiến hành, đối tượng cũng tăng lên gồm tất cả các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư, không phân biệt quy mô vốn và lao động. b/ Kết quả bước đầu: Năm 1998 được mệnh danh là “năm của CPH”. Tuy chưa đạt tới chỉ tiêu CPH 150 doanh nghiệp nhưng số doanh nghiệp cổ phần đã tăng nhanh. Tính đến ngày 31/12/1998, cả nước đã có 116 doanh nghiệp được CPH. Năm 1999, chỉ tiêu đặt ra là phải CPH được 400 DNNN. Một số doanh nghiệp lớn đã tham gia vào CPH như Tổng công ty xăng dầu, Hãng hàng không Việt Nam. Do cải thiện hệ thống chính sách về CPH nên các cổ đông nước ngoài cũng đã tham gia như: Công ty cổ phần cơ điện lạnh, công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An, Công ty cổ phần đồ hộp Hạ Long, công ty may Bình Minh. Tính đến tháng 5/1999 số doanh nghiệp được CPH đã lên đến 130 doanh nghiệp. Mặc dù tốc độ CPH đã được đẩy nhanh hơn so với các năm trước song so với chỉ tiêu đặt ra thì còn rất chậm. Cuối năm 1999 CPH được 250 DNNN. Tính đến ngày 15/8/2000, các nước đã CPH được 369 bộ phận doanh nghiệp với tổng số vốn là 1920 tỷ đồng (Tăng 12% so với trước khi cổ phần), bằng 1,6% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Nhìn chung, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng công nhân viên của các doanh nghiệp đều tăng so với trước. Một nét mới bđó là cùng với quá trình CPH Đảng và Chính Phủ chủ trương đổi mới một số DNNN đầu tư một phần vốn lập công ty cổ phần mới. Đén ngày 15/8/2000, DNNN đầu tư vốn thành lập 297 công ty cổ phần mới với tổng số vốn Nhà nước là 868.8 tỷ đồng, chiếm 46% vốn điều lệ. (Theo : Nghiên cứu kinh tế số 18 tháng 9 năm 2001). Có thể nói, CPH cho đến nay đã và đang thực hiện vai trò huy động nguồn vốn trong và ngoài doanh nghiệp để đầu tư phát triển, ổn định việc làm, đời sống người lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy đã thực hiện được 10 năm và đã đạt được những kết quả bước đầu khả quan nhưng cũng không ít hạn chế, không ít các vấn đề còn tồn tại cần được quan tâm, giải quyết. III - quan điểm và các giải pháp đẩy mạnh CPH DNNN trong thời gian tới. 1/Quan điểm: Nói đến quan điểm về CPH, trước hết ta phải khẳng định CPH không phải là tư nhân hoá. Hầu hết các học giả nước ngoài khi xem xét quá trình cổ phần hoá DNNN đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn, đó là quá trình tư nhân hoá. Hầu hết người lao đông quan niệm CPH với tư nhân hoá. Đây là hai quá trình khác nhau. CPH là một nội dung đa dạng hoá sở hữu, là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của một chủ thể thành sở hữu của nhiều chủ thể, trong đó Nhà nươc là một chủ sở hữu. Còn tư nhân hoá là chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu tư nhân, Nhà nước không tham gia là chủ sở hữu một phần vốn và tài sản nào. Qua phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các của các doanh nghiệp nhà nước sản xuất kém hiệu quả, ta thấy CPH là con đường tối ưu để các doanh nghiệp này tồn tại và phát triển. Việc đẩy mạnh CPH nói chung cũng được Đảng và Nhà nước ta khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) là: "Triển khai vững chắc và tích cực CPH DNNN để huy động thêm vốn tạo động lực thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, vốn huy động được dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh "(trang 246). CPH là công cụ huy động vốn đạt hiệu quả cao. Thực chất của vấn đề CPH là tối ưu hoá việc huy động vốn từ các nguốn vốn nhàn rỗi thay thế cho các nguồn vốn huy động khó khăn hoặc đang giảm sút như : huy động vốn qua ngân hàng, đầu tư nước ngoài…. Quan điểm này cần được phổ biến sâu rộng đến các chủ thể có khả năng mua cổ phiếu. Đứng trên góc độ người lao động thì CPH chính là một cơ hội để vươn lên làm chủ sản xuất. Động lực này thúc đẩy người lao động làm việc hăng say hơn, năng suất và chất lượng cao hơn. Do đó, CPH phải tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp, có như vậy thì mới phát triển được sản xuất. Tiến trình CPH trong thời gian qua rất chậm so với mục tiêu đề ra trong mỗi giai đoạn. Hiện nay ở nước ta có khoảng 5700 DNNN trong đó chỉ có 30% là hoạt động hiệu quả. Vì thế, bên cạnh việc sát nhập, giải thể, chúng ta sẽ tiến hành CPH hết chỉ để lại khoảng 1000 - 1200 (20% - 25%) doanh nghiệp chủ chốt có tầm quan trọng chiến lược. Mục tiêu chung về CPH đặt ra là từ năm 2001 - 2003 sẽ CPH được 1300 - 1500 doanh nghiệp, từ năm 2004 - 2005 sẽ CPH được 1200 - 1300 doanh nghiệp . Để đạt được mục tiêu đó, một loạt các giải pháp được đưa ra bàn luận rất sôi nổi trên báo chí, truyền hình,…trong thời gian qua. Đó là giải pháp về : a/ Thể chế: Muốn tiến trình CPH diễn ra tốt, trước hết Quốc hội phải xem xét ban hành luật hoặc pháp lệnh CPH DNNN. Các pháp lệnh này cần thực tế và cụ thể hơn nữa để các doanh nghiệp dễ dàng tham gia CPH mà không còn vướng mắc. Trong thời gian qua, các cơ quan, Bộ nghành đã ban hành quá nhiều văn bản về CPH theo trình tự : văn bản mới, văn bản hướng dẫn, văn bản sửa đổi, bổ sung,…gây tâm lý lo sợ không bắt kịp chủ trương của Chính Phủ. Hơn nữa, các văn bản về sửa đổi, bổ sung lại ban hành quá chậm, chưa sát thực gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp CPH. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Chính Phủ nên xem xét từng trường hợp để xây dựng một bộ luật về CPH làm cơ sở vững chắc cho việc triển khai CPH, nên cho thêm một số ưu đãi và cụ thể hoá một số vấn đề như : - Xác định rõ người lao động nghèo và cho luôn một số cổ phần (khoảng 5% giá trị doanh nghiệp) sau đó tiến hành bán rộng rãi ra công chúng. - CPH là hình thức để huy động vốn nên không bán chịu cổ phiếu gây ứ đọng vốn. Hàng năm nên trích khoảng 20% tổng quỹ tiền lương để đưa vào tài khoản của công nhân dùng để mua cổ phần của công ty, dành một số cổ phần thưởng cho những cá nhân , đơn vị xuất sắc đối với hoạt động của công ty. Bộ luật mới ra đời phải đảm bảo tạo ra một môi trường pháp lý thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế vì hiện nay DNNN vẫn còn được nhiều ưu đãi hơn và một số cán bộ quản lý ở các nghành vẫn coi doanh nghiệp đã CPH là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên còn phân biệt đối xử. Những nghiên cứu, sửa đổi các quy định về CPH phải phù hợp với tình hình mới, với Luật doanh nghiệp . Cách thức xác định đối tượng thực hiện CPH cần linh hoạt và mềm dẻo hơn để tránh sự ép buộc (CPH không tự nguyện) . Muốn vậy, trước khi CPH cần có sự trao đổi, giải quyết vướng mắc tư tưởng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp . Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp nêu trong nghị định 44/CP đã đảm bảo không gây nên những thất thoát tài sản và vốn của Nhà nước và tạo tiền đề tài chính thuận lợi cho doanh nghiệp sau CPH. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện cần chú ý một số vấn đề như : xác định hợp lý những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần có thể kế thừa từ DNNN, thật sự tôn trọng ý kiến của các chuyên gia trong việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản; có hướng dẫn cu thể việc xác định chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, hướng dẫn cụ thể về việc xử lý nợ khó đòi, lập dự phòng nợ khó đòi. DNNN đã CPH cũng cần được quan tâm hơn nữa. Sau khi CPH các DNNN sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn vì vậy các cấp lãnh đạo phải có trách nhiệm giúp doanh nghiệp vượt qua những khó khăn ban đầu này. Hoạt động của DNNN sau CPH có nhiều đổi mới vì vậy Chính Phủ cần ban hành quy chế hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng, các tổ chức đoàn thể trong công ty. b/ Tổ chức chỉ đạo: Ban hành và sửa đổi các pháo lệnh một cách hoàn chỉnh đã khó, đưa những pháp lệnh đó vào thực tế còn khó hơn. Chính Phủ là cơ quan có nhiệm vụ tổ chức, triển khai cụ thể Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, IX. Trên cơ sở các pháp lệnh đã ban hành, Chính Phủ tổ chức giao cho các Bộ, nghành có thẩm quyền, chỉ đạo việc triển khai CPH. Song song với việc ban hành chính sách đối với các doanh nghiệp đã CPH, Chính Phủ cần tăng cường công tác quản lý với các doanh nghiệp này, tập trung chỉ đạo trên các mặt : định hướng, chiến lược, quy hoạch phát triển theo nghành kinh tế, kỹ thuật và trên địa bàn lãnh thổ, quản lý phần vốn Nhà nước trong công ty, thuế và các khoản ưu đãi. Củng cố hệ thống tổ chức chỉ đạo thực hiện bằng cách kiện toàn các ban đổi mới quản lý doanh nghiệp từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tổng công ty 91. Các ban này phải là cơ quan giúp Chính Phủ, Bộ, các nghành, Tổng công ty 91 triển khai thực hiện tốt quá trình đổi mới và phát triển DNNN, quá trình CPH. Đưa ra một số giải pháp cụ thể cho từng loại doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính và quản lý, doanh nghiệp thừa lao động sau CPH. Những giải pháp ở tầm vĩ mô này rất quan trọng vì nó trực tiếp giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. 2. Các giải pháp: & Giải pháp cho các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý: DNNN được phân thành 4 nhóm : Nhóm doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về tài chính. Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao. Nhóm doanh nghiệp thua lỗ kéo dài (3 năm trở lên). Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài sẽ áp dụng các biện pháp sát nhập với các đơn vị khác rồi CPH, hoặc bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoài doanh nghiệp hoặc cho phá sản. Việc thành lập các quỹ hỗ trợ CPH là một giải pháp quan trọng giúp các DNNN gặp khó khăn về tài chính. Chức năng chính của quỹ này là hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp. Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính : - Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Vốn trợ cấp từ ngân sách Nhà nước. Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (chủ yếu là vốn vay ưu đãi). Hình thức hỗ trợ của quỹ rất hay : + Kế thừa hoặc mua lại nợ của doanh nghiệp . + Cho doanh nghiệp vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi đẻ trả nợ trước khi CPH. Với các nhiệm vụ : Q Hỗ trợ tài chính để xử lý vấn đề lao động trước và sau CPH. Q Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tước khi CPH. Q Trợ giúp kỹ thuật, tư vấn về tài chính cho các DNNN CPH. Quỹ không những giải quyết nhiều khó khăn cho doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm ăn có lãi. Tham gia vào cơ chế thị trường thì phải nhận thức rõ khâu quản lý là khâu có tính chất quyết định. Một người quản lý tốt phải nắm bắt chính xác tình hình của doanh nghiệp , khi có thua lỗ phải biết cách chuyển hướng sản xuất kinh danh, khôi phục lại doanh nghiệp . Chính vì vậy việc lựa chọn người quản lý không phải dễ dàng. Ơ nước ta hiện nay, công tác đào tạo nghành quản trị kinh doanh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Đây là một vấn đề cần được xem xét, giải quyết để có thể theo kịp sự phát triển của nền kinh tế. & Giải pháp cho vấn đề dôi dư lao động trong doanh nghiệp sau khi tiến hành CPH : Dôi dư lao động sau CPH là một trong những mặt trái của quá trình cải cách doanh nghiệp. Theo ước tính, tổng số lao động đang làm việc trong các DNNN vào khoảng 1,8 triệu người, nhưng tỉ lệ lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 10% - 12%, số còn lại chủ yếu là lao động phổ thông. Tình trạng này do tuyển lao động tràn lan, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả sản xuất trong giai đoạn trước. Cùng với việc chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì việc làm tất yếu của các doanh nghiệp là giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Với kế hoạch giảm 1/3 số lượng DNNN, sẽ có khoảng 500.000 đến 620.000 người lao động mất việc làm trong đó có khoảng 40% số lao động ở độ tuổi dưới 40 . Theo báo Tài chính Doanh nghiệp số tháng 10 năm 1998 bài " Lao động dôi dư - hướng giải quyết " của tác giả Đặng Quyết Tiến, giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề phức tạp nhưng không thể né tránh. Nó đòi hỏi có sự hợp tác từ cả hai phía là doanh nghiệp và Chính Phủ , các Bộ nghành có liên quan. Trong đó, doanh nghiệp trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, các cơ quan Nhà nước chỉ hỗ trợ , giúp đỡ và tháo gỡ những vướng mắc giữa doanh nghiệp với người lao động. Nội dung các giải pháp được tác giả nêu ra bao gồm : * Đối với doanh nghiệp : + Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư. Đối với số lao động còn lại có nhiều hướng giải quyết như : tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang nghành nghề mới. + Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện có tại doanh nghiệp, có thể lấy từ : quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, quỹ đào tạo của đơn vị… * Đối với Nhà nước nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián tiếp : + Hỗ trợ trực tiếp : hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp ( có thể lấy từ quỹ CPH DNNN ). Những hỗ trợ này nên tập trung vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động, hỗ trợ cho người lao động trong thời gian mới mất việc làm. + Hỗ trợ gián tiếp : là hỗ trợ về cơ chế chính sách cho người lao động, tín dụng, thuế sản xuất kinh doanh. Về lâu dài khi nền kinh tế phát triển, sẽ có nhiều nghành đòi hỏi công nhân có tay nghề, trình độ chuyên môn. Vì vậy đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động là giải pháp vừa mang tính sách lược, vừa mang tính chiến lược. Thực tế cho thấy nhiều DNNN CPH sau khi đi vào sản xuất kinh doanh ổn định thì thường có nhu ccầu tuyển dụng thêm lao động, những lao động đó phải là người có tay nghề, đã qua đào tạo. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì tình trạng “thừa việc, thiếu người” trong nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ càng trầm trọng hơn. Công tác chỉ đạo không thể bỏ qua việc quản lý nguồn vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi CPH. Sở dĩ phải chú ý đến vấn đề này vì sau khi CPH, cơ cấu vốn của doanh nghiệp thay đổi, phát sinh nhiều vấn đề mới. Mặt khác, công ty cổ phần mới hình thành chắc chắn còn nhiều bỡ ngỡ, các cơ quan chức năng cần giám sát, cố vấn để các doanh nghiệp ổn định được ngay từ những bước đầu tiên. Để ổn định và phát triển sản xuất, Chính Phủ nên cho phép tư nhân trong và ngoài nước thành lập công ty tư vấn và dịch vụ cổ phần. Những công ty này sẽ tư vấn cho lãnh đạo doanh nghiệp cũng như những công nhân quyền lợi và nghĩa vụ đối với doanh nghiệp CPH như : tiến hánh CPH như thế nào, cơ cấu cổ phần Nhà nước giữ lại bao nhiêu,… Theo bài "Hình thành công ty đầu tư và dịch vụ CPH - một biện pháp đẩy mạnh tiến trình CPH" của thạc sĩ Nguyễn Quyết Chiến trên tạp chí "Ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0970.doc
Tài liệu liên quan