Đánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng tại Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu tài chính của mô hình Camels

 

Phần mở đầu. 1

Chương I Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 3

1.1 Tổng quan tình hình tài chính ngân hàng tại Việt Nam 3

1.1.1 Khái quát nền kinh tế Việt Nam trong năm vừa qua. 3

1.1.2 Tình hình tài chính ngân hàng tại Việt Nam 9

1.2 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với hoạt động giám sát các Tổ chức tín dụng. 19

1.2.1 Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 19

1.2.2 Các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN 26

1.2.3 Một số định hướng hoạt động của BHTGVN trong thời gian tới. 27

Chương II Hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng. 29

2.1 Ủy ban Basel và hệ thống các nguyên tắc thanh tra giám sát hoạt động Ngân hàng 29

2.2 Hệ thống CAMELS trong giám sát hoạt động của các Ngân hàng. 34

2.2.1 Đánh giá hoạt động 35

2.2.2 Xếp hạng cấu phần. 36

2.2.3 Xếp loại các yếu tố định lượng 45

2.2.4 Xếp loại các yếu tố định tính. 46

2.2.5 Xếp loại tổng hợp 46

2.3 Thực trạng hệ thống thanh tra giám sát ngân hàng tại Việt Nam 48

2.4 Các phương thức hoạt động của thanh tra ngân hàng tại Việt Nam 55

2.4.1 Phương thức giám sát từ xa 55

2.4.2 Phương thức thanh tra tại chỗ. 58

2.4.3 Phương pháp đánh giá và xếp loại các tổ chức tín dụng theo CAMELS vận dụng ở Việt Nam 59

 

 

 

doc63 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá hoạt động các tổ chức tín dụng tại Việt Nam dựa trên các chỉ tiêu tài chính của mô hình Camels, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an, bộ phận thuộc BHTGVN; - Báo cáo định kỳ cho Tổng Giám đốc về các kết quả kiểm soát, kiểm toán nội bộ và các khuyến nghị, biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động; - Kiểm tra, kiểm soát tình hình tài chính, việc chấp hành chế độ kế toán tài chính nội bộ; - Kiểm tra tình hình thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng; - Theo dõi giãi quyết công tác khiếu tố, khiếu nại trong BHTGVN; - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao. (10) Chi nhánh của BHTGVN -chi nhánh của BHTGVN được thành lập theo khu vực, có các nhiệm vụ sau: -Đại diện cho BHTGVN trong việc thiết lập, xử lý các mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và công chúng trên điạ bàn khu vực và các tổ chức khác co liên quan. - Theo dõi nắm bắt tình hình kinh tế xã hội và tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên địa bàn; - Phối hợp và triển khai thực hiện các nhiêm vụ của BHTGVN. - Thực hiện công tác thông tin tuyên truyền đế công chúng về bảo hiểm tiền gửi. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao. Vốn và các quỹ (đến năm 2005) - vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng do chính phủ cấp - Quỹ dự phòng nghiệp vụ 787 tỷ đồng. - Các quỹ khác và nợ phải trả 204 tỷ đồng - Tổng nguồn vốn 1.991 tỷ đồng Trong đó Ngân hàng Thương mại quốc doanh là 185,405 tỷ đồng chiếm 73,18%, Ngân hàng Thương mại cổ phần 57,791 tỷ đồng chiếm 22,81%. Công ty Tài chính 83 triệu đồng chiếm 0,03%. Ngân hàng liên doanh 444 triệu đồng chiếm 0,18%. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài 1,748 tỷ đồng chiếm 0,69%. Quỹ tín dụng nhân dân 7,869 tỷ đồng chiếm 3,11%. 1.2.2 Các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho tất cả các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi, cấp bổ sung lượng cần thiết và kịp thời theo yêu cầu của các tổ chức để niêm yết công khai trước công chúng; thu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức bị giải thể, sáp nhập. Tổng số đã cấp bản chính là 1.076, thu hồi 100, hiện còn 976 tổ chức đang tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tính đến nay Ngân hàng Chính sách-xã hội, Tiết kiệm Bưu điện, Ngân hàng phát triển và các tổ chức tài chính quy mô nhỏ chưa tham gia bảo hiểm tiền gửi. Cơ chế thu phí bảo hiểm tiền gửi hiện nay đang áp dụng mức phí đồng hạng 0,15%/ năm trong khi chưa có điều kiện đánh giá phân loại mức độ rủi ro hoạt động của các tổ chức. Tổng thu phí luỹ kế từ quý III năm 2000 đến quý II năm 2005 đạt 680 tỷ đồng, tốc độ thu phí hàng năm tăng trên 20%. Giám sát từ xa được triển khai ngay từ những ngày đầu BHTGVN đi vào hoạt động bao gồm các hoạt động: kiểm soát các hồ sơ pháp lý tham gia bảo hiểm tiền gửi, giám sát thực trạng hoạt động trên cơ sở nguồn thông tin báo cáo, đánh giá theo định kỳ hàng quý đối với tất cả các tổ chức có quan hệ bảo hiểm tiền gửi; giám sát việc chấp hành các quy định về bảo hiểm tiền gửi và tuân thủ quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng; cảnh báo các rủi ro tiềm tàng và những sai phạm, yếu kém cần khắc phục. Kiểm tra trực tiếp định kỳ hàng năm trên diện rộng theo kế hoạch được Hội Đồng Quản Trị phê duyệt và kiểm tra đột xuất theo kết quả báo cáo của giám sát từ xa. Đến cuối cuối năm 2004, BHTGVN đã tiến hành 107 cuộc kiểm tra các ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng, 1.422 cuộc kiểm tra quỹ tín dụng nhân dân. Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính theo quy định hiện hành chỉ giới hạn giải toả tình trạng mất khả năng chi trả, chưa được thực hiện rộng rãi do năng lực tài chính của BHTGVN còn hạn chế và chưa có cơ chế xử lý rủi ro thoả đáng. Do đó nghiệp vụ này mới được triển khai thí điểm ở quỹ tín dụng cơ sở theo đề án được duyệt. Chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền là nghĩa vụ tất yếu. Trong giai đoạn cũng cố, chấn chỉnh các tổ chức tín dụng, BHTGVN đã góp phần xử lý an toàn một loạt các quỹ tín dụng nhân dân yếu kém không có khả năng khôi phục, chi trả bảo hiểm 16,337 tỷ đồng tại 33 đơn vị trong các năm 2001-2004 với mức chi trả tối đa theo quy định của chính phủ. Thu hồi nợ trong quá trình thanh lý đơn thuần là thực hiện các biện pháp đôn đốc tận thu trong điều kiện có thể, pháp luật chưa cho phép có bất kỳ sự can thiệp nào của BHTGVN đối với các quan hệ về quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó với khách hàng. Với việc khẳng định quyền chủ nợ sau chi trả bảo hiểm, BHTGVN đã thu hồi 1,681 tỷ đồng từ hoạt động thanh lý. Đầu tư tài chính các khoản vốn nhàn rỗi hiện giới hạn ở đầu tư vào trái phiếu chính phủ, giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước, tiền gửi tạị các ngân hàng thương mại nhà nước. Các khoản đầu tư đảm bảo an toàn, có thu nhập đủ bù đắp chi phí hoạt động và tích luỹ phát triển. 1.2.3 Một số định hướng hoạt động của BHTGVN trong thời gian tới. Về hoạt động giám sát kiểm tra, mô hình giám sát mới của BHTGVN phải đạt được các mục tiêu: Thống nhất chuẩn mực giám sát, phân định chức năng và hợp tác chia sẻ thông tin giữa các cơ quan có chức năng giám sát, qua đó nâng cao hiệu quả công việc và tránh chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ giám sát. BHTGVN xây dựng các chuẩn mực giám sát theo mô hình CAMELS và các tiêu chí tài chính theo khuyến nghị của Uỷ ban BASEL nhằm phân loại đánh giá các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở rủi ro. BHTGVN xây dựng hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác giám sát từ xa, và kiểm tra tại chỗ; hệ thống này giúp cho việc thu thập các nguồn thông tin từ các kênh khác nhau tạo dựng cho kho dữ liệu tập trung, từ đó tiến hành phân tích khai thác thông tin theo mô hình tập trung các dữ liệu với các tiêu chí đánh giá về tình hình hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính theo các mặt liên quan như tín dụng, thanh khoản, thị trường và hoạt động Dựa vào các số liệu phân tích, BHTGVN và các cơ quan giám sát có thể đánh giá kịp thời và đưa ra các chính sách phù hợp cho các tổ chức được bảo hiểm tiền gửi như cảnh báo, yêu cầu khắc phục, hỗ trợ tài chính, hoặc xử lý nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính quốc gia. Về hoạt động tiếp nhận xử lý, các tổ chức tiếp nhận tiền gửi được bảo hiểm bị đổ vỡ được xử lý hiệu quả nhất phù hợp với quy định của pháp luật, tài sản tiếp nhận được quản lý và bán ra thị trường một cách hiệu quả với chi phí thấp nhất để thu hồi, tiền gửi và tài sản tiếp nhận kể cả các khoản nợ và nghĩa vụ khác được xử lý công bằng và hiệu quả. về sản phẩm và dịch vụ và hệ thống quản lý, phát triển các sản phẩm dịch vụ và các phương pháp quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế, từng bước nâng cao hiệu quả tài chính, thoả mãn yêu cầu quản lý Nhà nước, xây dựng hệ thống quản lý thông tin khách hàng, qua đó xây dựng các dòng sản phâm phục vụ cho từng loại khách hàng. Chương II Hoạt động thanh tra và giám sát ngân hàng. 2.1 Ủy ban Basel và hệ thống các nguyên tắc thanh tra giám sát hoạt động Ngân hàng Uỷ ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Uỷ ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi một số Thống đốc Ngân hàng Trung ương vào năm 1975. Uỷ ban này bao gồm đại diện cao cấp của các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng tại 10 quốc gia trên thế giới, bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Canada, Thụy Điển và Bỉ. Quan điểm của Basel là sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia có thể ảnh hưởng tới sự ổn định về tài chính không chỉ trong phạm vi quốc gia đó mà trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế, đây là vấn đề cần được cơ quan giám sát tại các quốc gia và Ủy ban Basel về Giám sát Nghiệp vụ ngân hàng đặc biệt quan tâm. Trong quá trình hoạt động, Uỷ ban đã xây dựng và xuất bản hai nhóm ấn phẩm chủ yếu: 1) Bộ các nguyên tắc cơ bản cho việc giám sát hoạt động của ngân hàng một cách có hiệu quả; và 2) Bộ sách hướng dẫn (được cập nhật định kỳ) với các khuyến nghị hiện nay của Uý ban Basel, các hướng dẫn và tiêu chuẩn. Nhóm ấn phẩm nguyên tắc cơ bản của Ủy ban Basel (25 nguyên tắc) Bộ 25 nguyên tắc cơ bản Basel là tài liệu dành cho cán bộ thực hiện công tác giám sát ở các quốc gia và cả trên phạm vi quốc tế. Các nguyên tắc này đã được thiết kế cho các chuyên gia giám sát, nhóm giám sát khu vực và thị trường nói chung theo nguyên tắc dễ áp dụng và kiểm chứng. Uỷ ban Basel sẽ cùng với các tổ chức liên quan khác đóng vai trò nhất định trong việc giám sát tiến độ áp dụng các nguyên tắc trên đây của các quốc gia nhằm xây dựng hệ thống giám sát đủ mạnh. Bộ nguyên tắc cơ bản bao hàm một số nhóm nội dung chủ yếu sau: - Các Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về điều kiện tiên quyết cho việc giám sát ngân hàng hiệu quả: cụm chủ đề này được thể hiện bởi nguyên tắc 1. Nguyên tắc chỉ ra điều kiện của một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng có hiệu quả là: i) phải có một khung pháp lý phù hợp; ii) phân định mục tiêu, nguồn lực và trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan giám sát; iii) quy định về chia sẻ và bảo mật thông tin. - Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề cấp phép và cơ cấu: bao gồm từ nguyên tắc 2 đến nguyên tắc 5, với các nội dung chính: i) xác định rõ ràng các hoạt động tổ chức tài chính được phép làm và chịu sự giám sát; ii) quyền đưa ra các tiêu chí và bác bỏ đơn xin thành lập nếu không đạt yêu cầu của cơ quan cấp phép; iii) quyền rà soát và từ chối bất kỳ một đề xuất nào đối với việc chuyển quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát ngân hàng hiện tại cho các bên khác. - Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về các quy định và yêu cầu thận trọng: cụm chủ đề bao gồm từ nguyên tắc số 6 đến số 15. Nội dung chính của nhóm nguyên tắc là đưa ra các chuẩn mực mà các chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng được làm và nhất thiết phải biết xử lý trong hoạt động của mình ví dụ như: yêu cầu về an toàn vốn cho các ngân hàng, xác định rõ những khu vực nào của vốn ngân hàng chịu rủi ro; đánh giá các chính sách, thực tiễn hoạt động, các thủ tục cho vay vốn, đầu tư, việc kiểm soát vốn vay hiện tại và hồ sơ đầu tư của ngân hàng đó; đánh giá chất lượng tài sản và tính thích hợp của các điều khoản chống thất thoát và quĩ dự trữ thất thoát khoản vay. - Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề về giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiện nay: bao gồm từ nguyên tắc số 16 đến nguyên tắc số 20. Nhóm nguyên tắc này quy định yêu cầu đối với một hệ thống giám sát nghiệp vụ ngân hàng hiệu quả bao gồm cả các hình thức giám sát từ xa và giám sát tại chỗ. Cơ quan giám sát cần thường xuyên liên hệ với Ban giám đốc ngân hàng để hiểu rõ về hoạt động của NH, xây dựng phương pháp phân tích báo cáo thống kê và có biện pháp thẩm định độc lập thông tin giám sát thông qua kiểm tra tại chỗ. - Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề yêu cầu về thông tin: chủ đề này có 1 nguyên tắc số 21 chỉ ra cán bộ giám sát phải biết chắc mỗi ngân hàng có hệ thống lưu trữ tài liệu phù hợp cho phép chuyên gia giám sát có thể tiếp cận và thấy được tình hình tài chính thực tế của ngân hàng. - Nguyên tắc thuộc cụm chủ đề quyền hạn hợp pháp của chuyên gia giám sát: cụm chủ đề này có 1 nguyên tắc số 22 chỉ ra các biện pháp giám sát bắt buộc để có thể đưa ra được hành động can thiệp kịp thời khi ngân hàng không đáp ứng được những yêu cầu cơ bản (ví dụ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu không đảm bảo, năng lực quản trị điều hành yếu...). Trong trường hợp khẩn cấp, hoạt động can thiệp này bao gồm cả việc thu hồi giấy phép lập tức hoặc đề nghị thu hồi giấy phép hoạt động. - Các nguyên tắc thuộc cụm chủ đề nghiệp vụ ngân hàng xuyên biên giới: cụm chủ đề này bao gồm từ nguyên tắc số 23 đến nguyên tắc số 25 với nội dung hướng dẫn giám sát đối với các nghiệp vụ giao dịch ngân hàng quốc tế, yêu cầu các ngân hàng nước ngoài hoạt động theo đúng các tiêu chuẩn cao bằng tiêu chuẩn của các ngân hàng trong nước và thiết lập quan hệ và hệ thống trao đổi thông tin với các chuyên gia giám sát khác, đặc biệt là với chuyên gia giám sát của nước sở tại. Bộ sách hướng dẫn được cập nhật tháng 6 năm 2006 (10 nguyên tắc) Tháng 6 năm 2006, Uỷ ban Basel đã phát hành tài liệu hướng dẫn với nội dung “Đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay”. Tài liệu bao gồm 10 nguyên tắc được chia làm 2 chủ đề chính: i) những vấn đề giám sát liên quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay và ii) vấn đề đánh giá rủi ro tín dụng các khoản cho vay về phía cơ quan giám sát. Về những vấn đề giám sát liên quan đến đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và định giá khoản cho vay. Phần này bao gồm 7 nguyên tắc đầu tiên với các vấn đề được đề cập như sau: _ Ban giám đốc của ngân hàng phải có trách nhiệm bảo đảm ngân hàng có trình tự đánh giá rủi ro tín dụng phù hợp và hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của nghiệp vụ cho vay của đơn vị đồng thời phù hợp với chính sách, hệ thống kế toán và hướng dẫn giám sát của nước sở tại _ Ngân hàng phải có một hệ thống phân loại khoản cho vay đáng tin cậy dựa trên cơ sở rủi ro tín dụng _ Chính sách của ngân hàng phải được mô hình đánh giá rủi ro tín dụng nội bộ nhất định phê chuẩn _ Ngân hàng phải phê chuẩn và ban hành phương pháp quản lý tổn thất khoản cho vay hợp lý trong đó đề cập đến: quy trình, chính sách đánh giá rủi ro tín dụng, quy trình kiểm tra lại và xác định những vấn đề về khoản cho vay, hướng trích lập dự phòng một cách kịp thời _ Khoản dự phòng trích lập phải đủ để có thể bù đắp những tổn thất cho vay trong danh mục các khoản cho vay _ Việc sử dụng phương pháp đánh giá tín dụng đã được kiểm chứng và ước lượng hợp lý là một phần cơ bản trong việc đánh giá tổn thất cho vay _ Quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng phải cung cấp cho ngân hàng những công cụ, trình tự và dữ liệu thích hợp để đánh giá rủi ro tín dụng. Về vấn đề đánh giá rủi ro tín dụng các khoản cho vay về phía cơ quan giám sát. Phần này bao gồm 3 nguyên tắc, từ nguyên tắc số 8 đến nguyên tắc số 10; cụ thể: _ Định kỳ, cơ quan giám sát phải đánh giá tính hiệu quả của chính sách rủi ro tín dụng và đánh giá thực tế chất lượng khoản cho vay _ Cơ quan giám sát phải xác nhận phương pháp tính dự phòng tổn thất cho vay của ngân hàng là phù hợp _ Cơ quan giám sát ngân hàng phải xem xét chính sách và thực tế áp dụng đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng khi kiểm tra mức đủ vốn của ngân hàng. Thực trạng công tác giám sát tại Việt Nam và vấn đề áp dụng các nguyên tắc Basel vào hoạt động giám sát Trong điều kiện Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, hệ thống ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi, tín dụng nhanh là một tín hiệu khả quan, nhưng đồng thời cũng là nguy cơ khi năng lực quản trị điều hành, khả năng cạnh tranh của các ngân hàng còn yếu kém. Với trách nhiệm đảm bảo an toàn hệ thống, Bộ máy giám sát tài chính ngân hàng tại Việt Nam chưa được xây dựng đồng bộ và hiệu quả để đảm bảo giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa được chuyển đổi hoạt động theo mô hình Ngân hàng Trung ương. Thanh tra ngân hàng được giao thực hiện một số hoạt động giám sát an toàn hệ thống ngân hàng trong khi vẫn có chức năng thanh tra chuyên ngành như mọi cơ quan thanh tra trong các Bộ, cơ quan ngang bộ khác. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế việc thực thi có hiệu quả chính sách giám sát ngân hàng. Bên cạnh đó, việc phân định chức năng, phối hợp nghiệp vụ và trao đổi thông tin giữa các cơ quan thực hiện giám sát chủ yếu bao gồm: Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Bộ Tài chính chưa được quy định cụ thể gây khó khăn trong quá trình tác nghiệp, hoạt động chồng chéo. Phương pháp thanh tra giám sát đang từng bước được đổi mới nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Kiểm tra tại chỗ, thanh tra tuân thủ vẫn là nội dung hoạt động chủ yếu, khả năng giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ, cảnh báo sớm và ngăn ngừa rủi ro còn yếu. Những vấn đề nói trên đặt ra yêu cầu phải đổi mới toàn diện hệ thống giám sát cả về tổ chức và phương pháp thực hiện. Cải cách là tất yếu, nhưng nếu cải cách quá chậm sẽ khiến chúng ta phải gánh chịu chi phí cơ hội ngày càng lớn và rủi ro đổ vỡ sẽ không chờ đợi bất kỳ ai, vì bất cứ nguyên nhân gì. Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định 112/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra lộ trình xây dựng khung pháp lý quan trọng cho hoạt động ngân hàng như xây dựng Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (mới), Luật các Tổ chức tín dụng (mới), Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. Trong quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng và hoạt động giám sát, Việt Nam cần nghiên cứu các quy trình, chuẩn mực quốc tế (Bộ các nguyên tắc Basel là một trong số đó) để hoạt động giám sát thực sự là chốt chặn an toàn cho nền kinh tế. 2.2 Hệ thống CAMELS trong giám sát hoạt động của các Ngân hàng. Hệ thống CAMELS là hệ thống đánh giá hoạt động Ngân hàng toàn diện, được dùng phổ biến trên thế giới. Để góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra giám sát Ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế Các thanh tra viên sử dụng báo cáo giám sát CAMELS để tiến hành xếp hạng cho từng Ngân hàng dựa trên sự đánh giá của 6 cấu phần chính về năng lực và hoạt động của 1 Ngân hàng. Sự xếp hạng sẽ cân đối với quy mô và sự phức tạp của Ngân hàng, dặc trưng trong hoạt động và việc quản lý rủi ro của Ngân hàng. Việc xếp hạng sẽ được sử dụng để đánh giá thực trạng của hệ thống Ngân hàng đua ra những hoạt động cần thiết cho thanh tra tại chỗ. Nội dung của toàn bộ hoạt động thanh tra tại chỗ sẽ dẫn đến những điều chỉnh cho việc xếp hạng tổng thể CAMELS. Các cấu phần được đánh giá trên các khía cạnh sau : - Vốn (C) - Chất lượng tài sản có (A) - Chất lượng quản lý và hoạt động (M) - Thu nhập (E) - Thanh khoản (L) - Độ nhạy với lãi suất (S) Việc tổng hợp xếp hạng được đánh giá dựa trên thang điểm từ 1 đến 5 theo mức độ cần giám sát tăng dần. Mức xếp hạng tổng hợp là kết quả của việc xếp hạng 6 cấu phần. Xếp hạng 1 là mức xếp hạng cao nhất với ý nghĩa là tổ chức tín dụng có hệ thống tốt nhất, đảm bảo chất lượng quản lý rủi ro, gắn liền với một mức độ giám sát ít nhất. Xếp hạng 5 là mức xếp hạng xấu nhất, tức là tổ chức tín dụng này có hoạt động yếu kém, không đảm bảo khả năng quản lý rủi ro và đòi hỏi hoạt động giám sát cao nhất cho tổ chức tín dụng này. 2.2.1 Đánh giá hoạt động Ý nghĩa của việc xếp hạng cho từng mức như sau : Xếp hạng 1 : Cho thấy tổ chức hoạt động tốt với mức cao hơn mức trung bình chung Xếp hạng 2 : Cho thấy tổ chức hoạt động ở mức chấp nhận được với mức độ đánh giá trung bình hoặc trên trung bình không nhiều. Điều này cũng có nghĩa hoạt động của tổ chức tín dụng vừa đủ đảm bảo ở mức an toàn. Xếp hạng 3 : Cho thấy tổ chức hoạt động ở mức thấp hơn mức độ được chấp nhận, được đánh giá như mức độ hoạt động dưới mức trung bình. Xếp hạng 4 : Là mức độ cho rằng hoạt động của tổ chức là không đảm bảo, thấp hơn mức độ trung bình rất nhiều. Nếu không được tiến hành kiểm tra thì tổ chức tín dụng này có thể dẫn đến nguy cơ mất năng lực hoạt động. Xếp hạng 5 : Mức độ này cho thấy hoạt động của tổ chức tín dụng là rất kém và đòi hỏi cần phải được chú ý giám sát ngay. Hoạt động này thường đi kèm với những yếu kém và nguy cơ mất năng lực hoạt động của tổ chức tín dụng. Việc xếp hạng cho từng cấu phần được tiến hành độc lập nhưng cũng cần xem xét mối quan hệ với các cấu phần khác. Mức xếp hạng quá cao hoặc quá thấp cho một cấu phần có thể dẫn đến điều chỉnh tăng hoặc giảm xếp hạng cho các cấu phần khác. Ví dụ, một Ngân hàng cho chỉ số xếp hạng cho cấu phần vốn được dự tính ở mức 1 nhưng nếu cấu phần chất lượng tài sản có lại được xếp hạng ở mức 4 thì mức xếp hạng của cấu phần vốn nên được điều chỉnh giảm xuống ít nhất là ở mức 2 hoặc thấp hơn nữa để cho thấy sự thiếu mức vốn đảm bảo có mối quan hệ với chất lượng tài sản xấu. Tương tự đối với việc xếp hạng cho cấu phần thu nhập và thanh khoản vì những cấu phần này cũng chịu những tác động tiêu cực khi chất lượng tài sản kém. Trong một tình huống khác, việc xếp hạng cao cho cấu phần quản lý có thể dẫn đến không điều chỉnh thấp đi cho các xếp hạng của các cấu phần khác bởi vì chất lượng của quản lý có thể giúp tổ chức tín dụng vượt qua được những khó khăn tạm thời. 2.2.2 Xếp hạng cấu phần. C – Mức đảm bảo vốn Một ngân hàng cần duy trì một mức vốn đảm bảo chống đỡ với các loại rủi ro đặc trưng của ngân hàng và khả năng quản lý để xác định, đo lường,kiểm soát và điều chỉnh những rủi ro này. Những tác động của rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và các rủi ro khác đối với hoạt động của ngân hàng có thể xem như thước đo đánh giá mức độ đủ vốn của ngân hàng. Các loại hình và mức độ rủi ro tác động đến hoạt động của một ngân hàng sẽ quyết định đến mức vốn cần duy trì them trên mức vốn tối thiểu theo quy định để từ đó có thể đề phòng những hậu quả xấu mà những rủi ro này có thể có đối với mức vốn của ngân hàng. Mức đảm bảo vốn nên được xếp hạng dựa trên những yếu tố đánh giá sau : - Mức vốn, chất lượng vốn và khả năng tài chính tổng thể của ngân hàng. - Khả năng quản lý để có thể xác định những nhu cầu cho nguồn vốn bổ sung. - Bản chất xu hướng và số lượng các tài sản có vấn đề, và mức độ đảm bảo dự phòng rủi ro cho các khoản mất nợ và các quỹ dự phòng khác. - Bảng tổng hợp cân đối tài sản bao gồm nội dung và số lượng các tài sản vô hình, rủi ro thị trường, rủi ro tập trung và những rủi ro có lien quan đến các hoạt động không mang tính truyền thống của ngân hàng. - Các rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt động ngoại bảng của ngân hàng. - Mức thu nhập và sự hợp lý của cổ tức. - Triển vọng và kế hoạch phát triển, cũng như việc đảm bảo kế hoạch tăng trưởng trong quá khứ. - Khả năng tiếp cận với thị trường vốn và các nguồn vốn khác bao gồm cả sự hỗ trợ vốn của các cổ đông hiện tại và cổ đông triẻn vọng trong tương lai. Xếp hạng : Những ngân hàng có chỉ số vốn được xếp hạng ở mức 1 hoặc 2 sẽ có đủ mức vốn mặc dù các chỉ số vốn của ngân hàng xếp hạng 1 thông thường lớn hơn chỉ số của ngân hàng xếp hạng 2. Ngân hàng xếp hạng 3 là những ngân hàng mà mức vốn đảm bảo cho các tài sản có rủi ro , các tài sản có chất lượng ở mức tương quan thấp, tốc độ tăng trưởng của ngân hàng, kế hoạch và triển vọng phát triển ; và tăng cường năng lực quản lý cũng đòi hỏi vốn đảm bảo cho dù cấu phần quản lý được xem như là một nhân tố tác động tốt. Trong phần lớn các trường hợp, những ngân hàng như vậy sẽ có các chỉ số vốn nằm dưới mức trung bình của nhóm đồng hạng. Ngân hàng xếp hạng 4 hoặc 5 rõ ràng là những ngân hàng không đảm bảo được mức vốn cần thiết, với mức xếp hạng 5 tức là ngân hàng đang đứng trước nguy cơ bị mất năng lực hoạt động và mất khả năng thanh toán. Mức xếp hạng 5 cũng là mức đòi hỏi ngân hàng phải có ngay một sự hỗ trợ từ các cổ đông hoặc từ các nguốn hỗ trợ tài chính bên ngoài khác. A – Chất lượng tài sản có Chất lượng tài sản có được đánh giá dựa trên mức độ, sự phân bổ và tình trạng của các nhóm tài sản không tính cộng dồn và tài sản được giảm lãi suất; mức độ đảm bảo dph nợ,năng lực quản lý và điều hành việc xử lý và thu hồi những khoản nợ có vấn đề. Mức đảm bảo dự phòng nợ và khả năng có thể xử lý và thu hồi các khoản nợ có vấn đề chính là yếu tố tác động tốt, ở một chừng mực nào đó, đến khả năng khắc phục những khó khăn có thể xảy ravới các nhóm nợ. Việc đánh giá chất lượng tài sản có nên xem xét đến các mức độ tập trung tín dụng hoặc đầu tư, bản chất và số lượng của các nhóm nợ đặc biệt, và tính hợp lý của các chính sách cho vay và các quy trình thủ tục tín dụng. Chất lượng tài sản có được đánh giá dựa trên những tiêu thức sau : - Khả năng đảm bảo các tiêu chuẩn bảo lãnh nợ, khả năng điều hành và quản lý tín dụng, và các năng lực quản lý rủi ro cần thiết khác. - Số lượng, sự phân bổ tình trạng và xu hướng của các tài sản có vận động đã phân loại, không tính cộng dồn, cơ cấu lại,quá hạn và không hoạt động trên cả nội bảng lẫn ngoại bảng. - Mức độ đảm bảo dự phòng cho mất nợ và các dự phòng tài sản khác. - Những rủi ro tín dụng có thể tăng hoặc giảm thông qua các hoạt động ngoại bảng như các cam kết nợ không được thực hiện, các cam kết tín dụng, các thư tín dụng thương mại hoặc bảo lãnh. - Khả năng đa dạng hóa vá chất lượng của các khoản nợ và các danh mục đầu tư. - Mức độ tập trung hóa tài sản. - Tính hợp lý của các chính sách cho vay, đầu tư cũng như các thủ tục có liên quan. - Khả năng quản lý trong việc xử lý các tài sản bao gồm cả việc phát hiện kịp thời và thu hồi được những khoản nợ có vấn đề. - Năng lực kiểm soát nội bộ và hệ thống thông tin quản lý - Số lượng và bản chất của những hồ sơ tín dụng đặc biệt. Xếp hạng : Xếp chất lượng tài sản có ở mức 1 và 2 không đòi hỏi nhu cầu cần thanh tra giám sát. Cả hai mức độ xếp hạng này đều cho thấy một danh mục nợ và đầu tư của ngân hàng ở mức tốt, mặc dù xếp hạng ở mức 1 được hiểu là mức độ và thực trạng của các nhóm nợ là tốt hơn mức 2. Xếp hạng ở mức 3 đòi hỏi một mức giám sát nhất định, đặc biệt trong hoàn cảnh có những xu hướng tiêu cực có thể dẫn đến những vấn đề trầm trọng hơn trong tương lai. Xếp hạng ở mức 4 hoặc 5 là mức độ của những tài sản đang có những vấn đề nghiêm trọng,đặc biệt với mức 5 là một dấu hiệu đe dọa đến khả năng mất năng lực hoạt động của các ngân hàng do những tá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0103.doc
Tài liệu liên quan