Đề án Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam

Để dự đoán xu hướng nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trong thời gian tới chúng ta cần xét tới những yếu tố sau : tăng trưỏng kinh tế, dân số, tập quán tiêu dùng trong đó thì những yếu tố như thu nhập, giá cả và thói quen tiêu thụ là quan trọng nhất.

Dân số : đây là yếu tố không thuận lợi đối với việc tăng tiêu thụ hàng hoá tại Nhật Bản, bởi hiện nay dân số Nhật vào khoảng 128 triệu người nhưng tỷ lệ tăng dân số lại ở mức rất thấp. Theo dự báo thì tỷ lệ tăng dân ở nước này trong một vài năm tới vào khoảng 0,10% - 0,15%/năm.

Kinh tế : sau cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2001 do ảnh hưởng của khủng bố tại nước Mỹ, đến năm 2003 nền kinh tế Nhật Bản đã bắt đầu hồi phục. Trong vài năm gần đây kinh tế Nhật Bản có sự phát triển khá ổn định và có khá nhiều dự báo lạc quan. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, khi mà cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ nổ ra thì nó đã ảnh hưỏng rất lớn tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới. Do đó, kinh tế Nhật Bản trong thời gian qua có sự biến đổi rất phức tạp. Điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa do thu nhập có xu hướng giảm, không ổn định trong thời gian tới.

 

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n là một trong những nước tiêu thụ cao su lớn nhất trên thế giới gồm cả cao su tự nhiên và cao su nhân tạo. Nhưng Nhật Bản không phải là nước sản xuất cao su tự nhiên, nên phần lớn cao su của Nhật Bản là cao su nhập khẩu, chỉ có một phần nhỏ cao su nhân tạo và cao su tái chế là được sản xuất trong nước. Hiện nay, hơn 50% cao su thiên nhiên được sử dụng để sản xuất lốp xe. Các nhà sản xuất lốp xe, lốp máy bay của Nhật Bản đều chuyển sang chế tạo lốp hướng tâm - loại lốp sử dụng nhiều cao su thiên nhiên nhất. Vì vậy, trong những năm tới tiêu thụ các loại sản phẩm cao su như TSR 10, TSR 20, cao su tấm, xông khói ( RSS ) đáp ứng nhu cầu sản xuất săm lốp các loại, các đồ gia dụng sẽ gia tăng tại Nhật Bản. Bảng 2.3: Tiêu thụ, nhập khẩu và nhập khẩu cao su thiên nhiên từ Việt Nam của Nhật Bản Đơn vị : 1000 tấn 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tiêu thụ 751,8 724,4 765,8 783,4 826 812,7 Nhập khẩu 802, 713 772 795 847 825,3 Từ Việt Nam 8,149 8,499 5,446 11,986 12,143 12,698 Nguồn : Nhóm nghiên cứu cao su thế giới IRSG Quan sát số liệu ở bảng trên có thể thấy rất rõ là hiện nay Việt Nam cũng mới chỉ xuất khẩu được một lượng nhỏ cao su sang Nhật Bản. Năm 2000, trong tổng số 802 nghìn tấn cao su nhập khẩu của Nhật Bản thì Việt Nam chỉ xuất khẩu được 8,149 nghìn tấn, chiếm khoảng 1% tổng lượng tiêu thụ cao su của Nhật Bản, đây là một con số rất thấp. Đến 2005, khối lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản tuy có gia tăng nhưng vẫn không đáng kể. Năm 2007, chúng ta xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản 12,1 ngàn tấn cao su, đạt mức giá trị 26,8 triệu USD. Chủ yếu là cao su SVR 3L và cao su ly tâm, nhưng 2 loại cao su này lại là chủng loại tiêu thụ rất ít tại Nhật. Trong khi đó, 2 chủng loại được tiêu thụ nhiều là RSS3 và TSR 20 thì lại được sản xuất rất ít ở Việt Nam. Đến nay, chỉ có một số ít công ty của Việt Nam xuất khẩu được sang thị trường Nhật Bản. Đó là các công ty có sản phẩm chất lượng cao và có uy tín như Công ty cao su Dầu tiếng, Công ty cao su Bà Rịa, Công ty cao su Phước Hoà, Công ty cao su Đồng Phú và Công ty cao su Đồng Nai. Sau đây là bảng so sánh kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản và một số thị trường khác trong 9 tháng đầu năm 2008. Bảng 2.4 Xuất khẩu cà phê sang một số thị trường 9 tháng đầu năm 2008 Nguồn : Tổng cục thống kê Đơn vị : triệu USD Tiêu thụ cao su của Nhật Bản có xu hướng giảm là do nhu cầu trong nước đang đình trệ và do sự suy thoái của nền kinh tế. Điều này tác động trực tiếp tới các nước xuất khẩu cao su, đặc biệt là Thái Lan vì Nhật Bản là nước nhập khẩu cao su lớn nhất của Thái Lan. Tuy nhiên, khi các thị trường như vậy bị suy giảm thì những nước xuất khẩu cao su lớn như Thái Lan, Indonesia và Malaysia sẽ chuyển hướng xuất khẩu cao su sang các thị trường truyền thống của Việt Nam do đó xuất khẩu cao su của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. 2.1.2.3 Rau quả Hàng năm Nhật Bản tiêu thụ khoảng 17 triệu tấn rau quả với mức tiêu thụ bình quân đầu người đạt khoảng 100kg, mức tiêu thụ vào laọi cao nhất thế giới. Tiêu thụ các lại rau xanh giàu Vitamin có xu hướng tăng lên trong khi tiêu thụ các loại rau như cải bắp Trung quốc, daikon ( củ cải Nhật Bản ) có xu hướng giảm đi. Tiêu thụ của các hộ gia đình giảm đi trong khi đó tiêu thụ trong công nghiệp ( của các nhà máy chế biến thực phẩm và dịch vụ ăn uống ) tăng lên do những thay đổi trong phong cách sống của người Nhật Bản và sự phát triển của các phương tiện bảo quản, vận chuyển, chế biến. Trong 5 năm 1997 – 2001, nhập khẩu rau tươi và rau đông lạnh vào thị trường Nhật Bản đã tăng từ 1,17 triệu tấn lên 1,70 triệu tấn, Nhập khẩu rau tươi tăng mạnh trong hai năm 1998, 2001 do mưa lớn làm ảnh hưởng đến sản xuất rau nội địa của Nhật Bản. Nhập khẩu rau tươi đã tăng từ 543.283 tấn năm 1997 lên 929.214 tấn trong năm 2001, tăng 5,3% so với năm trước, đạt 90 tỷ Yên. Các loại rau nhập khẩu chủ yếu là hành, bí ngô, cải bắp và bông cải xanh. Ba loại rau này chiếm tới 59,7% tổng lượng rau tươi nhập khẩu năm 2001. Xu hướng này đã làm cho nhập khẩu các loại rau ít quen thuộc với thị trường Nhật Bản như rau diếp, hẹ, tỏi tây, củ cải đường tăng mạnh trong những năm gần đây. Sau năm 2001, nhập khẩu rau tươi vào thị trường Nhật Bản có xu hướng giảm. Năm 2004 lượng nhập khẩu chỉ đạt 887.607 tấn bằng 95,5% so với năm 2001. Năm 2005 lượng nhập khẩu giảm xuống còn 753.082 tấn bằng 84,4% năm 2004. Nguyên nhân là trong những năm gần đây khí hậu thuận lợi, cùng với chính sách “nội địa hoá hàng nông sản” của chính phủ Nhật Bản đã làm cho sản lượng rau tươi nội địa tăng lên đồng thời hạn chế lượng rau nhập khẩu từ nước ngoài. Tuy nhiên, dù Nhật Bản có nền nông nghiệp trình độ cao nhưng nhiều mặt hàng sản xuất trong nước mới chỉ đap ứng được 10 - 15% nhu cầu. Chính vì vậy, đây chính là sức ép khiến chính phủ Nhật Bản phải mở rộng cửa cho việc nhập khẩu hàng nông sản nói chung và rau tươi nói riêng. Nhật Bản nhập khẩu gần 3 tỷ USD rau quả mỗi năm nhưng Việt Nam mới chỉ xuất khẩu sang Nhật Bản khoảng 7 – 8 triệu USD/năm trong giai đoạn 1997 - 2005. chiếm chưa đầy 0,3% thị phần rau quả trên thị trường Nhật Bản, đây là một con số rất khiêm tốn. Sang năm 2007, kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Nhật Bản đã tăng lên mức 26,4 triệu USD, tức là chiếm 8,6% so với kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong năm 2007 (305,6 triệu USD). Từ đó có thể thấy Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu rau quả lớn của chúng ta. Nhưng mức kim ngạch này vẫn còn chưa tương xứng với tiềm lực phát triển của ngành nông sản xuất khẩu. Chín tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu sang Nhật Bản 22,9 triệu USD hàng rau quả. Dự báo năm 2008, giá trị kim ngạch xuất khẩu rau quả sang thị trường này có thể đạt mức 30 triệu USD. Sau đây là biểu đồ thị phần xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2008. Bảng 2.5 Thị phần xuất khẩu rau quả 9 tháng đầu năm 2008 Tiềm năng xuất khẩu các mặt hàng rau quả rất lớn do người Nhật có nhu cầu cao về hành, cải bắp, gừng, ớt, chuối, cam, dứa, xoài… những loại được trồng phổ biến ở Việt Nam. Rau quả Việt Nam có một số loại đã được chấp nhận tại thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, chất lượng, thời hạn giao hàng và độ đồng đều của hoa quả Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu từ phía Nhật. Ngoài ra, một số loại hoa quả của Việt Nam vẫn chưa được xuất khẩu vào Nhật Bản do Việt Nam nằm trong danh sách những quốc gia có dịch bệnh ruồi đục quả và một số dịch bệnh khác, đây là một điều đáng tiếc cho xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu hoa quả nói riêng của Việt Nam. Hiện nay, bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn đang cố gắng khắc phục những yếu điểm này, để nhiều mặt hàng hoa quả của Việt Nam có thể có mặt tại thị trường Nhật Bản và đây sẽ là những mặt hàng có nhiều tiềm năng trong tương lai. 2.2 Khả năng thích ứng của hàng nông sản Việt Nam Trơng thời gian qua, hàng nông sản Việt Nam vẫn duy trì được thị phần tại thị trưòng Nhật Bản, giá trị xuất khẩu tăng theo từng năm. Điều này cho thấy, hàng nông sản của Việt Nam ngày càng thích nghi tốt hơn với thị trường khá là “khắt khe” này. Các sản phẩm của chúng ta ngày càng được đa dạng hoá về mẫu mã và chủng loại sản phẩm để đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản. Như mặt hàng cao su của Việt Nam, trước đây chúng ta chủ yếu xuất khẩu chủng loại cao su SVR3L. Đây là chủng loại mà Nhật Bản ít có nhu cầu. Chính vì vậy, các công ty cao su của Việt Nam hiện nay đã chuyển đổi cơ cấu sản phẩm sang các chủng loại cao su như SVR10, SVR20, mủ latex, CV để thích nghi hơn với nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, ở một số mặt hàng vẫn còn sự hạn chế về chủng loại. Có những chủng loại sản phẩm mà chúng ta không sản xuất được, điều này dẫn đến sự yếu kém trong khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam so vớí hàng hoá của các đối thủ như Trung Quốc, Thái Lan … và để mất cơ hội gia tăng giá trị xuất khẩu sang Nhật. Các doanh nghiệp của Việt Nam cũng đã có nhiều biện pháp xúc tiến thương mại quảng bá sản phẩm vào thị trường Nhật Bản. Nhưng các doanh nghiệp còn thiếu kỹ năng về marketing đặc biệt là đối với thị trường đặc thù như Nhật Bản nên hiệu quả thu được chưa cao. Bên cạnh đó, chúng ta chưa xây dựng được những thương hiệu vững mạnh cho hàng nông sản. Chúng ta mới chỉ có một vài thương hiệu như cà phê Trung Nguyên, bưởi Năm roi … Thiếu thương hiệu có uy tín, tên tuổi khiến cho hàng hoá của chúng ta khó xâm nhập được vào thị truờng Nhật Bản. Như đã trình bày ở chương 1, các doanh nghiệp Nhật Bản có những tạp quán kinh doanh rất là đặc thù như coi trọng chữ tín trong quan hệ bạn hàng, yêu cầu thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong hợp đồng. Họ cũng nghiên cứu rất kỹ về đối tác trước khi quyết định làm ăn cùng. Người Nhật thuờng đến tận cơ sở của đối tác để xem xét công nghệ sản xuất, điều kiện lao động. Tuy nhiên, các doanh nghiệp của Việt Nam cũng chưa chuẩn bị tốt những điều này để gây thiện cảm với đối tác. Và họ có những nét văn hoá đặc trừng riêng biệt, nếu không chú ý có thể dễ gây mất lòng. Nhưng các doanh nghiệp của chúng ta chưa ý thức được điều này. Đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất là thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản cũng như kinh nghiêm làm ăn với người Nhật. Bởi vậy, mặc dù có nhiều doanh nghiệp khá là thành công đối với thị trường Mỹ hay EU nhưng do không có sự hiểu biết cần thiết nên họ vẫn gặp nhiều khó khăn tại thị trường Nhật, và mất rất nhiều thời gian nhưng vẫn chưa hoàn toàn thích ứng được với thị trường này. Hiện nay, các loại quả tươi có hạt của Việt Nam chưa được xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản do Luật Bảo vệ thực vật của Nhật liệt Việt Nam vào danh sách các nước có dịch bệnh ruồi đục quả. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đang có chương trình hợp tác với Nhật Bản về nâng cao năng lực kiểm dịch ruồi đục quả của Việt Nam, trước mắt thí điểm trên quả thăng long. Đây có thể nói là sự chậm chập trong thích ứng của hoa quả Việt Nam đối với các quy định của Nhật Bản. Chúng ta đã bỏ lỡ một thị trường lớn, và đặc biệt là trong thời gian gần đây, nhu cầu tiêu thụ hoa quả của Nhật Bản. Đặc biệt là các loại quả có hạt đang tăng mạnh. 2.3 Đánh giá 2.3.1 Thành công - Duy trì được thị phần của hàng nông sản Việt Nam tại Nhật Bản : Trong những năm vừa qua, xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản có nhiều biến động, tùy từng thời kỳ mà tăng giảm khác nhau, tuy nhiên trong vòng 4 năm gần đây tăng mạnh hơn. Điều này cho thấy hàng nông sản Việt Nam cơ bản đã duy trì được vị trí trên thị trường Nhật Bản, xứng đáng là mặt hàng tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này. - Chất lượng hàng hoá ngày càng được khẳng định : Các sản phẩm nông sản Việt Nam bước đầu đã khẳng định được mình bằng uy tín, chất lượng của sản phẩm. Ngày càng được người tiêu dùng Nhật Bản chấp nhận, điều này chứng tỏ hàng nông sản của chúng ta có thể cạnh tranh cùng các đối thủ khác trên thị trường Nhật Bản. Mặc dù xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản có giảm vào các năm 1997, 1999 và 2002 nhưng nguyên nhân chủ yếu của nó là do yếu tố khách quan bên ngoài : khủng hoảng kinh tế Châu Á, khủng hoảng kinh tế Nhật Bản. Cà phê của Việt Nam được đánh giá rất cao, trở thành một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn vào thị trường Nhật Bản. Nhiều loại rau, hoa quả tươi của Việt Nam cũng rất được người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng. - Tiếp cận tốt hơn với hệ thống kênh phân phối trên thị trường Nhật Bản : Trước đây, do các doanh nghiệp của Việt Nam chưa hiểu biết nhiều về thị trường Nhật Bản và cũng như hạn chế về năng lực nên không thể xuất khẩu trực tiếp hàng hoá sang Nhật Bản mà phải xuất khẩu thông qua trung gian như Singapor, Hong Kong. Nhưng hiện nay, các doanh nghiệp đã bắt đầu xuất khẩu trực tiếp cho các nhà nhập khẩu Nhật Bản. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam có thể xâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường này thông qua việc mở văn phòng đại diện hay lập chi nhánh tại Nhật. 2.3.2 Hạn chế Chất lượng hàng hóa chưa cao : nếu so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam còn kém hơn so với các quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Philippin. Thực tế là hàng hóa nông sản của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản phần lớn là nguyên liệu thô, chưa qua chế biến nên giá trị còn thấp. Những hàng hoá đã qua chế biến cũng có chất lượng thấp hơn so với các nước khác. Hoàn toàn chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường này. Nguyên nhân là do tình trạng thiếu công nghệ, kỹ thuật trong khâu chế biến và chất lượng đầu vào còn thấp. Giá hàng hóa cao : Cùng một mặt hàng nhưng nếu đem so sánh với những đối thủ cạnh tranh khác thì hàng hoá của Việt Nam có phần cao hơn. Có thể thấy đây là do nguồn nguyên liệu không đảm bảo, năng suất lao động thấp và thiếu quy hoạch trên diện rộng dẫn đến chi phí sản xuất của chúng ta tăng cao. Điều này đã làm giảm sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. Hoạt động xúc tiến thương mại chậm chập và chưa đem lại hiệu quả : các hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam còn triển khai chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu, hoạt động của các hiệp hội ngành hàng chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra, môi trường xã hội và các thể chế hỗ trợ xuất khẩu chậm được cải thiện và thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Chưa có quy hoạch vùng nguyên liệu cho phù hợp : thực tế quy hoạch vùng nguyên liệu ở nước ta còn nhiều bất cập. Chưa xây dựng được những vùng sản xuất chuyên cho xuất khẩu, chưa lập được những doanh nghiệp có quy mô lớn có thể đầu tư cho cả quá trình sản xuất từ khâu nguyên liệu. Chính vì vậy, việc sản xuất cho xuất khẩu nông sản còn nhỏ lẻ, mang tính tự phát là chính. Điều này khiến cho việc thu mua, đảm bảo nguồn cung cho xuất khẩu rất là khó khăn. Hạn chế tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các nước khác. 2.3.3 Nguyên nhân 2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan - Thị trường Nhật Bản có tính bảo hộ cao, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản. Do đó khi xuất khẩu nông sản sang thị trường Nhật Bản thường gặp rất nhiều trở ngại như hạn ngạch thuế quan, các rào cản về môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm… Các đảng phái chính trị của Nhật Bản cũng đều có xu hướng bảo hộ người nông dân. Vì vậy các chính sách của Nhật Bản đều đi theo xu hướng này. Hiện nay, Nhật Bản vẫn duy trì mức trợ cấp cao đặc biệt là đối với mặt hàng nông sản. Mức trợ cấp nông sản của Nhật Bản là 1,4% so với GDP. - Do suy thoái kinh tế kéo dài trong thời gian qua ảnh hưởng tới mức chi tiêu và tâm lý tiêu dùng của người dân Nhật Bản, nhu cầu đối với các mặt hàng đang thu hẹp, đặc biệt là những mặt hang có chất lượng cao do chi phí cao trong khi suy thoái kinh tế dẫn đến mức thu nhập giảm xuống. - Các thủ tục nhập khẩu của Nhật Bản rất rườm rà và làm tăng chi phí trong quá trình xuất khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài mục đích quản lý ra thì các thủ tục nhập khẩu của Nhật Bản còn có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước. Do đó các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ về các thủ tục nhập khẩu của Nhật Bản, hoặc là xuất khẩu qua các nhà nhập khẩu của Nhật Bản bởi họ là những người nắm rõ về các yêu cầu này. - Các yêu cầu về vệ sinh thực phẩm của Nhật tương đối cao, có thể nói là khắt khe hơn rất nhiều so với các thị trường khác đối với hàng nông sản. Nếu như hàng nhập khẩu không đáp ứng được các tiêu chuẩn về dư lượng kháng sinh, nồng độ các chất độc hại thì cả lô hàng có thể bị trả lại và Nhật Bản sẽ tiến hàng kiểm tra gắt gao với mặt hàng này. Do đó, cần phải đáp ứng tốt các tiêu chuẩn này thì mới có thể xâm nhập thị trường Nhật Bản. - Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu của Nhật Bản thường không giống như những sản phẩm mà Việt Nam xuất khẩu. Như một số chủng loại cao su và phần lớn các loại rau quả mà Nhật Bản nhập khẩu nhiều thì Việt Nam không có hoặc có rât ít. Chính vì sự khác biệt này nên hàng nông sản Việt Nam rất khó xâm nhập thị trường này do chỉ đáp ứng nhu cầu của một số lưọng nhỏ khách hàng. Ngoài ra, đối với thị trường sản phẩm thô, giá những sản phẩm thô cùng loại của các nước khác như Ấn Độ, Indonesia thường rẻ hơn hàng hoá Việt Nam rất nhiều, do đó tính cạnh tranh của những mặt hàng này của Việt Nam chưa cao. 2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan - Đặc điểm của sản xuất Việt Nam là làm an manh mún, nhỏ lẻ, chưa có các trang trại hay các doanh nghiệp lớn. Hình thức chủ yếu chỉ là các hộ gia đình với diện tích canh tác nhỏ, vốn ít. Giữa các hộ gia đình này còn thiếu sự liên kết chặt chẽ mà còn theo xu hướng tách biệt. Chính vì vậy, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất gặp rất nhiều hạn chế và kết quả đạt được không cao : nguồn nguyên liệu cho sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông sản còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao và không đồng đều. Hội nhập là xu thế tất yếu, nhưng một cuộc cạnh tranh hoàn toàn không cân sức: Một bên là các hộ tiểu nông Việt Nam với quy mô từ 0,3 – 0,5 ha/hộ chia thành 5-9 mảnh ruộng nhỏ. Bên kia là các hộ sản xuất từ 3 - 5 ha của Thái Lan, từ 30 - 50 ha của châu Âu… với công nghệ và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh hơn, thưa tiến sĩ? Tình trạng sản xuất manh mún, nhất là ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, là một hệ thống sản xuất lạc hậu đã tồn tại hàng nghìn năm... Rõ ràng, mở rộng quy mô sản xuất là nhu cầu bức thiết và sống còn trong tương lai. Đây là việc làm không dễ dàng. Việt Nam đã ban hành chính sách về phát triển kinh tế trang trại, đang khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác, khuyến khích chuyện liên kết “4 nhà”, khuyến khích phát triển doanh nghiệp, cho phép thuê, mướn, liên doanh, liên kết dồn điền, đổi thửa để mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên, vẫn nên tính đến một quyết sách mạnh mẽ hơn, đủ sức đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng bế tắc mà những nền kinh tế châu Á khác đã không còn cơ hội vượt qua nổi. ( Theo , Trung tâm tư vấn chính sách ) Ai cũng thấy: Hơn 80% sản lượng càphê của VN do các hộ cá thể sản xuất. Đây là đối tượng sản xuất hoàn toàn tự do, chẳng có ai quản lý về quy trình sản xuất, thu hái chế biến. Và vì thế mỗi hộ tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, sở thích mà có cách làm khác nhau. Đa số các hộ dân vào mùa thu hái đều có chung suy nghĩ “xanh nhà hơn già đồng”, vì thế họ tuốt cả cành lúc quả còn xanh. Hái xanh, tuốt cả cành, có lợi về công thu hái, đỡ bị mất cắp, nhưng sẽ làm giảm sản lượng (khoảng 10%) và giảm chất lượng (hương vị càphê sẽ không bảo đảm đúng như bản chất vốn có của nó). Việc phơi phóng sau khi thu hái cũng mỗi hộ mỗi cách, tuỳ theo điều kiện. Có nơi được phơi trên sân ximăng khá sạch sẽ, có nơi phải đổ trên sân đất, gặp năm thời tiết mưa nhiều thì hạt càphê lẫn trong bùn đất. Nên khi thử nếm càphê có mùi đất và cả mùi nấm mốc là điều dễ hiểu. Trong chế biến, các hộ cá thể chỉ biết làm theo cách cổ truyền: Phơi khô, xát vỏ, nên màu sắc không đẹp, nhiều hạt bị giập vỡ. Cũng vì vậy mà chất lượng càphê VN không cao, không đồng đều. - Sản phẩm nông sản của Việt Nam còn phụ thuộc rât nhiều vào điều kiện tự nhiên và phát triển mang tính chất mùa vụ, theo phong trào. Do đó dẫn đến tình trạng nguồn cung hàng nông sản xuất khẩu không được ổn định, khi thừa, khi thiếu, dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực và gây tổn thất không nhỏ cho bà con nông dân. - Khó khăn về vốn, trình độ khoa học và công nghệ trong quá trình sản xuất, thu hoạch, chế biến dẫn đến tình trạng hao hụt trong thu hoạch, chất lượng sản phẩm chế biến có chất lượng kém. Vì vậy, các sản phẩm đã qua chế biến của Việt Nam vẫn còn chưa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường Nhật Bản. - Tình trạng thiếu hụt cán bộ, kỹ sư trong ngành nông nghiệp là rất đáng báo động. Những người tham gia vào sản xuất nông sản xuất khẩu chủ yếu là những người nông dân với trình độ học vẫn thấp và hầu như không được đào tạo cũng như hướng dẫn về các kỹ thuật trồng trọt khoa học. Đội ngũ cán bộ quản lý về hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản còn ít về số lượng và yếu về chuyên môn, hiểu biết về thị trường cùng với những quy định và tiêu chuẩn của thị trưòng Nhật Bản nói riêng và thị trưòng thế giới nói chung còn hạn chế. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trong ngành này cũng chưa được quan tâm đúng mức. - Năng lực tiếp cận thị trường còn thấp: Các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa nhanh nhạy trong việc nắm bắt các yêu cầu và biến động của thị trường Nhật Bản. Chính sự thụ động này khiến cho chúng ta không có sự thay đổi kịp thời để nắm bắt các cơ hội. Cũng chính vì chưa đủ năng lực tiếp cận thị trường nên các doanh nghiệp Việt Nam phải xuất khẩu gián tiếp thông qua nước thứ ba. Bản thân các doanh ngiệp cũng phần lớn chỉ ở quy mô vừa và nhỏ có trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý và chuyên môn hạn chế, năng lực kém, chưa có chiến lược phát triển kinh doanh lâu dài và ổn định. Chúng ta cũng chưa xây dựng được những thương hiệu nông sản vững mạnh và có uy tín trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng. Vì vậy, làm giảm khả năng xâm nhập của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam vào thị trường này. Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng khả năng thích ứng của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản 3.1 Dự báo nhập khẩu nông sản của Nhật Bản tới 2010 Để dự đoán xu hướng nhập khẩu nông sản của Nhật Bản trong thời gian tới chúng ta cần xét tới những yếu tố sau : tăng trưỏng kinh tế, dân số, tập quán tiêu dùng trong đó thì những yếu tố như thu nhập, giá cả và thói quen tiêu thụ là quan trọng nhất. Dân số : đây là yếu tố không thuận lợi đối với việc tăng tiêu thụ hàng hoá tại Nhật Bản, bởi hiện nay dân số Nhật vào khoảng 128 triệu người nhưng tỷ lệ tăng dân số lại ở mức rất thấp. Theo dự báo thì tỷ lệ tăng dân ở nước này trong một vài năm tới vào khoảng 0,10% - 0,15%/năm. Kinh tế : sau cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2001 do ảnh hưởng của khủng bố tại nước Mỹ, đến năm 2003 nền kinh tế Nhật Bản đã bắt đầu hồi phục. Trong vài năm gần đây kinh tế Nhật Bản có sự phát triển khá ổn định và có khá nhiều dự báo lạc quan. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, khi mà cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ nổ ra thì nó đã ảnh hưỏng rất lớn tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới. Do đó, kinh tế Nhật Bản trong thời gian qua có sự biến đổi rất phức tạp. Điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa do thu nhập có xu hướng giảm, không ổn định trong thời gian tới. 3.1.1 Cà phê Nhập khẩu cà phê của Nhật bản được dự báo là sẽ tăng với tốc độ tăng truởng dương theo hai phương án đó là 2,5%/năm, và 4%/năm trong thời gian tới cho đến 2010. Dự báo này được lập căn cứ vào tình hình tiêu thụ thực tế cà phê của thị trưòng Nhật Bản trong những năm qua và có triển vọng tăng trong những năm tới do tiêu thụ chưa tới mức bão hoà và tác động ảnh hưởng của các chiến dịch xúc tiến xuất khẩu. Dự báo cụ thể về nhập khẩu cà phê hạt Nhật Bản theo hai phương án như sau: Bảng 3.1: Dự báo nhập khẩu cà phê của Nhật Bản Đơn vị : tấn TT2000 TT2002 TT2005 DB2010 Phương án thấp 2,5%/năm 382.230 427.685 495.926 557.916 Phương án cao 4%/năm 382.230 427.685 495.926 595.111 3.1.2 Cao su Nhập khẩu cao su thiên nhiên dự báo sẽ tăng chậm hơn tốc độ nhập khẩu nông sản chung ở quy mô thế giới. FAQ dự báo nhập khẩu cao su thiên nhiên thế giới đạt 5,5 triệu tấn vào năm 2007 với nhịp độ bình quân 1,7%/năm và năm 2010 mức nhập khẩu sẽ là 5,8 triệu tấn với nhịp độ tăng bình quân 1,8%/năm. Trong đó, nhập khẩu cao su thiên nhiên của các nước phát triển chỉ tăng khoảng 1%/năm. Về nhập khẩu cao su Nhật Bản được nhóm nghiên cứu cao su quốc tế (IRSG) dự đoán như sau : Bảng 3.2 : Dự báo nhập khẩu cao su của Nhật Bản Đơn vị sản lượng : 1000 tấn 2000 2001 2007 2010 Tính theo sản lượng Thế giới 5.300 4.880 5.502 5.804 Nhật Bản 802 740 825 890 Tính theo % Thế giới 100 100 100 100 Nhật Bản 15,1 15,2 15 15,3 3.1.3 Rau quả Cùng với những đặc điểm của thị trưòng rau quả Nhật Bản và xu hướng phát triển thị trường thời gian tới cùng với sụ tác động của các yếu tố : mở cửa thị trường nông sản theo các cam kết trong khuôn khổ WTO và các hiệp định khu vực thương mại tự do song phương và đa phương khác; trong nước không có khả năng sản xuất các rau quả nhiệt đới; sự phát triển của khoa học kỹ thuật … nhập khẩu rau quả các loại của Nhật Bản dự báo là sẽ tăng với tốc độ tương đương với tốc độ tăng của nhập khẩu nông sản nói chung vào Nhật. Dự báo cụ thể như sau : Bảng 3.3 : Dự báo nhập khẩu rau, hoa quả của Nhật Bản TH2000 TH2001 TH2005 DB2010 Nhập khẩu rau tươi Phương án thấp 2,5%/năm 881.116 929.214 753.082 847.217 Phương án cao 4%/năm 881.116 929.214 753.082 903.698 Nhập khẩu quả các loại Phương án thấp 2,5%/năm 1.592.150 1.526.644 1.667.589 1.887.288 Phương án cao 4%/năm 1.529.150 1.526.644 1.667.589 2.013.107 Đơn vị : tấn 3.2 Những lợi thế và ưu đãi trong quan hệ thương mại với Nhật Bản Trong thời gian tới, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam cần phải tận dụng tối đa các ưu đãi mà Nhật Bản dành cho Việt Nam trong quan hệ thương mại giữa hai nước thông qua các cam kết, hiệp định ưu đãi thuế quan đã kí kết. Đó là các ưu đãi sau : Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP : đây là hệ thống thuế ưu đãi mà Nhật Bản dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển, trong đó có Việt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác biện pháp hạn chế nhập khẩu của Nhật Bản và giải pháp thích ứng của hàng nông sản Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan