Đề án Các chính sách cho sản phẩm quần lót sử dụng một lần

Mục lục

Lời nói đầu 2

I - Giới thiệu chung về dự án kinh doanh 4

1. Tổng quan về nhóm sản phẩm và chiến lược sản xuất 4

1.1 Hàng lót sử dụng một lần ( 1-used underwear ) 4

1.2. Mũ du lịch 9

1.3 Quần lót, áo lót và áo ngủ ren hoặc pha ren 11

2. Tổng quan về khách hàng của sp quần lót 12

2.1 Xác định khách hàng 12

2.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng 13

2.3 Thói quen mua hàng của khách hàng 18

3.Qui mô thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu của sản phẩm quần lót 21

3.1 Qui mô thị trường 21

3.2 Lựa chọn thị trường mục tiêu 25

II - Các chính sách Marketing (sản phẩm quần lót) 26

1. Chính sách sản phẩm 26

1.1. Sản phẩm 26

1.2. Vòng đời sản phẩm 28

1.3 Bao bì và nhãn hiệu sản phẩm 28

2. Chính sách giá cả 29

2.1 Mục tiêu chọn giá 29

2.2. Xác định chi phí 30

2.3. Dự đoán khối lượng bán 32

2.4. Xác định giá cạnh tranh 33

3.5. Quyết định mức giá tối ưu 34

3. Phân phối sản phẩm 35

4. Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh 36

III. Kết luận và Các chỉ số đánh giá dự án 38

 

 

doc41 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1872 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các chính sách cho sản phẩm quần lót sử dụng một lần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khách VN đi du lịch ra nước ngoài. Đây là đối tượng khách hàng mục tiêu của chúng tôi trong giai đoạn khởi nghiệp. Khách du lịch nước ngoài đến VN du lịch. Đây là đối tượng khách hàng vừa hiện thực vừa tiềm năng. Ngoài ra chỉ thay đổi bao bì một chút chúng tôi còn bán 1-used underwear cho một lượng khách hàng không nhỏ khác. Loại khách hàng này đôi khi bị bắt buộc phải dùng. Đó là các bệnh nhân, những người sau sinh. Những người này việc làm vệ sinh của họ rất khó và gây bất tiện cho người thân nên thay vì giặt những đồ bẩn người ta sẽ sử dụng quần lót một lần. Nhưng bản chất sản phẩm này là rẻ, gọn và dễ bắt chước nên chúng tôi đánh giá cao kênh phân phối trung gian. Những người tham gia vào kênh trung gian bao gồm Những nhà bán buôn, bán lẻ ở các chợ đầu mối. Như chợ Đồng Xuân ở Hà Nội, chợ đầu mối ở Tuyên Quang, Hà Giang,…Thói quen mua hàng của những đối tượng này là chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và hoa hồng, chiết khấu. Xin được phép nói thêm là công ty Phương Lan cho phép tôi sử dụng những kênh phân phối đã có sẵn của họ để kinh doanh. Đó là một mạng lưới nhân viên giàu kinh nghiêm, và khá “bươn trải”. Các siêu thị lớn ở Hà Nội hay một số tỉnh lân cận (dự tính là Thái Bình) cũng sẽ được chào hàng. Trước tiên là siêu thị mà chúng tôi có thể liên hệ được qua môt “cầu” khác.. Các tổ chức lữ hành ( thực chất đây chỉ là trung gian xúc tiến ) Đây là mạch nguồn của các đoàn du lịch lớn. Trong năm 2005, có 42,5% du khách đi theo tour do các cơ sở kinh doanh du lịch lữ hành tổ chức và 57,5% du khách tự sắp xếp đi. Và xu hướng đi du lịch có tổ chức ngày càng tăng lên. Ngoài ra, khách du lịch cũng khá vui vẻ chấp thuận mua hàng nếu được những tổ chức này khuyên dùng. Chúng tôi sẽ chọn 3-8 công ty lữ hành để đăng ký quảng cáo website và chào bán khuyến mãi sản phẩm. Bệnh viện và căng tin của bệnh viện: Đây là địa điểm chuyên cung cấp những đồ vệ sinh, dụng cụ thiết yếu cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Mua ở đây, bệnh nhân và người nhà sẽ thấy an toàn và thuận tiện hơn cho việc đi lại 2.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua hàng Xin phân tích cụ thể đối tượng khách hàng tiêu dùng cuối cùng * Đối với khách du lịch trong nước Hiện nay ở Việt Nam có một số bất cập giữa giá du lịch ra nước ngoài và giá du lịch trong nước. Hãy thử so sánh: - Một chuyến đi du lịch Hà Nôi-TP Hồ Chí Minh thì riêng giá vé máy bay khứ hồi Hà Nội TPHCM đã gần 3.000.000 đồng/người. Ðó là chưa kể tiền ăn, ở, khách sạn trong 3-4 ngày cũng vài triệu nữa. Không chỉ có đi du lịch Sài Gòn giá tour mới cao mà các tour du lịch đến những các điểm du lịch nổi tiếng trong nước như Nha Trang, Ðà Lạt giá tour cũng cao không kém. - Hiện nay, giá vé máy bay khứ hồi Hà Nội-Singapore chỉ 120 USD/người (khoảng gần 2 triệu đồng/người), ngoài ra hàng không Singgapore đang tung ra chương trình khuyến mãi chỉ cần 20 đô Sinh (bằng 180.000đ) là hành khách đã được đáp máy bay từ Singapore đi Thái Lan. Trong cơ cấu giá tour hiện nay thì giá vé máy bay hoặc kinh phí vận chuyển đi lại của du khách chiếm đến 60-70% giá tour, 20% là giá dịch vụ lưu trú, 10% còn lại là giá các dịch vụ khác như vé thắng cảnh, hướng dẫn viên du lịch. Ngoài ra, hiện chi phí cho ăn ở, khách sạn của Việt Nam đều cao hơn các nước khác. Hiện giá phòng nghỉ của các khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế của Việt Nam đều cao hơn giá mặt bằng chung của các nước trong khu vực. Chính chi phí cao như vậy khiến cho việc mua sắm của khách du lịch trong nước bị hạn chế. Nhưng mặt khác, khi so số tiền bỏ ra để mua một sản phẩm travelling clothes với chi phí du lịch thì thật chẳng đáng gì. * Đối với du khách nước ngoài Dưới đây sử dụng số liệu của hai cuộc điều tra năm 2003 và 2005. Hai cuộc điều tra này đều được tiến hành theo phương pháp điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên từ dòng khách du lịch quốc tế và trong nước đến nghỉ ở các cơ sở lưu trú du lịch trong thời gian liên tục khoảng 20 ngày nửa cuối tháng 11/2003 và tháng 7/2005. Các cơ sở lưu trú được lựa chọn để tiến hành điều tra đối với khách theo phương pháp chọn mẫu “cân bằng rải đều” bảo đảm đại diện được cho tất cả các loại cơ sở lưu trú du lịch có tiện nghi khác nhau, từ cơ sở lưu trú sang trọng đắt tiền nhất cho đến các cơ sở bình dân nhất ở 26 tỉnh, thành trọng điểm du lịch trong cả nước. ( Thông tin lấy từ Vietnamnet, thông tin cập nhật ngày 17/2/2006 ) - Xét tính tổ chức tour du lịch Trong năm 2005, có 42,5 % số khách du lịch đi theo tour do các doanh nghiệp lữ hành tổ chức, và còn lại 57,5% du khách tự sắp xếp đi. Do vậy 42,5% lượng khách này khi mua thường gắn liền với tổ chức những người đi cùng và tổ chức doanh nghiệp hướng dẫn. Các du khách còn lại sẽ mua sắm tự do ở chợ hay siêu thị… - Xét cơ cấu khách du lịch theo nghề nghiệp khách du lịch thuộc các tầng lớp thương gia tới Việt Nam chiếm đông hơn cả, với tỷ lệ 22% trong năm 2005. Năm 2003, thương gia chiếm 20% tổng số du khách. Số du khách còn lại là các kiến trúc sư, kỹ sư, bác sỹ, chiếm 15%; giáo viên, giảng viên chiếm 10% (năm 2003 là 6,2%), học sinh, sinh viên chiếm 9,1%, quan chức Chính phủ chiếm 4,8%. Mà đặc điểm của hầu hết các thương nhân là thích những sản phẩm tiện ích, mang tính comfort vì họ còn dành thời gian để đàm phán và ký kết hợp đồng. - Xét theo mục đích du lịch số người thuần tuý đi du lịch, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí chiếm tỷ trọng lớn nhất với 77%. Số khách du lịch kết hợp với mục đích thương mại chiếm 6,9%; kết hợp thăm bạn bè, người thân 7,3%; kết hợp tham gia hội nghị, hội thảo, học tập ngắn ngày 3,2%; còn lại là kết hợp với hoạt động báo chí và các mục đích khác. - Xét kết cấu chi tiêu khi đi du lịch Trong năm 2005 có khoảng 10% du khách (năm 2003 là 17% khách) nghỉ ở các cơ sở lưu trú cao cấp nhất, tức khách sạn 5 sao. 15,5% du khách nghỉ ở khách sạn 4 sao. Như vậy là đã có một sự hoán vị cho nhau về số lượng khách nghỉ ở khách sạn 5 sao và 4 sao sau hai lần điều tra năm 2003 và 2005. Điều này có nghĩa là, trong khi tỷ trọng số khách đến nghỉ ở khách sạn 4 sao tăng từ 10% năm 2003 lên 16% năm 2005, thì ngược lại tỷ lệ số khách đến nghỉ ở khách sạn 5 sao lại giảm từ 17% xuống chỉ còn 10%; 24% số khách nghỉ ở khách sạn 3 sao; 16% nghỉ ở khách sạn 2 sao và 13% nghỉ ở khách sạn 1 sao. Như vậy tỷ lệ du khách quốc tế nghỉ ở các khách sạn 3 sao là loại khách sạn trung bình chiếm tỷ trọng lớn nhất với 24% tổng số du khách quốc tế đến Việt Nam.Lượng khách này thường chấp nhận hàng hoá ở giá trung bình nhưng không phải là quá thấp * Đối với các bệnh nhân và người sau khi sinh nở - Tâm lý: Đây là đối tượng khách hàng mà nhu cầu của họ dường như không hướng tới việc hàng có mẫu mã đẹp. Vấn đề mà họ quan tâm nhất là vệ sinh và an toàn vệ sinh. Nhất là đối với những người bị bệnh, những người hạnh phúc sau khi sinh con. - Thời gian nằm viện Đại đa số bệnh viện ở Việt Nam ( nhất là ở Hà Nội ) chất lượng phòng còn chưa tốt nên bệnh nhân và phụ sản không muốn giặt giũ nhiều. Mặt khác thời gian họ ở bệnh viện không lâu, ví dụ như sản phụ thường là 2-3 ngày nếu không phải mổ, hay ngay cả những bệnh nhân phải mổ nằm ở bệnh viện Việt Đức cũng chỉ được tối đa là 2 tuần rồi bị trả về các bệnh viện địa phương bởi vì không có phòng. Nên các đồ dùng một lần sẽ phát huy tác dụng. - Chi phí của các bệnh nhân và sản phụ Chi phí không chính thức mới là gánh nặng cho bệnh nhân Mỗi khi vào viện bệnh nhân và sản phụ phải chịu rất nhiều các khoản chi phí như chi phí khám, xét nghiệm, chi phí mổ, chi phí đỡ đẻ, mổ đẻ, chi phí giường nằm, chi phí đi lại….Hay nói một cách đơn giản là gồm chi phí chính thức và không chính thức. Nếu so chi phí của một tháng dùng sản phẩm này với chi phí của một ca mổ thì quá khập khiễng, hay nó chẳng đáng gì. Đơn cử “bồi dưỡng” bác sỹ mỗi lần mổ đẻ cũng tới 300.000VNĐ (mức trung bình ) hay so số tiền để mua sản phẩm này để dùng trong một tháng chỉ bằng tiền thuê phòng hạng bét một ngày ở viện mà thôi. Đôi khi tiền giặt giũ cũng đã xấp xỉ. Sau đây là bảng giá dành cho sản phụ ở 6 bệnh viện tốt nhất cả nước Tên & địa chỉ Số giường Chi phí  Bệnh viện phụ sản Hà Nội Đường Đê La Thành, Quận Đống Đa, Hà Nội. ĐT:(04) 8343181 Hiện nay, số giường bệnh là 280 giường. Sinh thường: 500.000 đồng trở xuống. Mổ: 600.000-700.000 đồng. Phòng: 30.000 - 200.000 đồng/ngày Viện bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh 43 Tràng Thi, Q. Hoàn Kiếm, HN. ĐT: (04) 8254 637 Khu phẫu thuật gồm 8 phòng mổ, khu đỡ sinh 6 buồng, khoa sơ sinh 60 giường. Tại đây hiện có 400 giường, Sinh thường: 500.000 trở xuống. Mổ: 500.000đồng trở lên. Phòng: 30.000 - 200.000 đồng/ngày  Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ 284 Cống Quỳnh, Q1, TPHCM ĐT: (08) 8395117 - 8391229 Bệnh viện gồm 910 giường, nhưng luôn ở trong tình trạng quá tải nên phải tăng cường thêm giường bố. Hiện nay, bệnh viện đang tiến hành xây dựng thêm 200 giường mới Sinh thường: 150.000đồng. Mổ: 180.000 đồng. Tiền phòng: 350.000-1.000.000 đồng/ngày (gồm cả ăn 3 bữa)  Bệnh viện phụ sản quốc tế Sài Gòn 63 Bùi Thị Xuân, Q1, TPHCM ĐT (08) 9253619 Trang bị bàn sinh đa năng, điều khiển bằng remote. Bệnh viện gồm 118 giường, phòng sạch đẹp như khách sạn, có tivi, tủ lạnh… Sinh thường: 1.200.000 đồng/ca. Tiền phòng: 350.000-1.000.000 đồng/ngày (gồm cả ăn 3 bữa)  Bệnh viện Phụ sản Hùng Vương 9 Lý Thường Kiệt, Q5, TPHCM ĐT (08) 8553776 Bệnh viện hiện đang mở rộng số giường nằm cho sản phụ. Dự trù cuối tháng 7, cơ sở mới sẽ đưa vào hoạt động với cơ ngơi 5 tầng. Sinh thường dịch vụ: 400.000 đồng. Mổ: 1.000.000 đồng. Phòng: 100.000 – 500.000 đồng/ngày Khoa Phụ sản bệnh viện ĐH Y Dược TPHCM 243 A Hoàng Văn Thụ, Q. Tân Bình . Phòng ốc sạch sẽ, gồm 80 phòng. Khu dưỡng nhi yên tĩnh. Phòng nằm sau khi sinh có trang bị nước nóng, ti vi, tủ lạnh, toilet riêng. Sinh thường: 800.000 đồng. Mổ: 1.500.000 đồng. Tiền phòng: 250.000 – 650.000 đồng/ngày ( theo webtretho.com ) Từ bảng trên, giá sinh thường thôi cũng đã rất biến động rồi: 500.000-500.000-150.000-1.200.000-1.000.000-800.000. Cộng với các chi phí khác thì con số này cũng tăng lên gấp đôi. 2.3 Thói quen mua hàng của khách hàng Do đặc tính thị trường Việt Nam mang đậm bản sắc của nước đang phát triển nên đối với rất nhiều hàng hoá như Ipot, dịch vụ như mua bán chứng khoán người Việt Nam chưa có thói quen tiêu dùng. Hơn nữa những sản phẩm “xa xỉ” này muốn thâm nhập vào thị trường Việt Nam lại phải đợi “nâng cao mức dân trí” và “đổi mới mức dân sinh”. Ngược lại, đối với những sản phẩm ở mức giá thấp lại nhanh chóng bắt quen được với người dân Việt Nam trong vòng có vài tháng, ví dụ như Trà Đài Loan chẳng hạn. Phải nói rằng cả end users và mediate channel mà chúng tôi xác định đều chưa có thói quen mua sản phẩm travelling clothes. Do đó công việc khó khăn trước mắt của chúng tôi là quảng bá và tạo thói quen sử dụng sản phẩm Do thời gian chuẩn bị nộp dự án hơi gấp nên chúng tôi chỉ dừng ở điều tra mẫu dưới 100 người đối với sản phẩm one-used underwear ( vì đây là sản phẩm chiến lược của chúng tôi ). Nếu có cơ hội được vào tiếp vòng sau và được yêu cầu chúng tôi sẽ đưa mẫu lớn hơn Theo điều tra của chúng tôi * Đối với khách nước ngoài Hơn 80% khách chưa bao giờ nghe tới one-used underwear, 20% còn lại như người Trung Quốc và Anh thì họ đã từng sử dụng sản phẩm đó rồi, nhưng đều nhận xét là nó không thịnh hành lắm. 30% khách hàng đồng ý mua 1-used underwear với giá 1000VND-2000VND, và 20% khách lưỡng lự không biết nên mua hay không, còn lại 50% trả lời không mua vì 3 lý do sau Không có thói quen dùng, nên thích tự giặt đồ hơn Lo cho môi trường sinh thái, nếu các đồ này thải ra quá nhiều Không tin tưởng vào chất lượng, bởi vì đây là đồ lót nên yêu cầu phải sạch Trong 3 lý do trên chỉ có hai lý do 1 và 3 trong ngắn hạn (dưới 1 năm ) chúng tôi có thể khắc phục được. Còn lý do thứ 2 rất khó thực hiện trong thời điểm khởi nghiệp và vốn kinh doanh còn nhỏ. Thực chất lý do thứ 3 trên cũng không hẳn là lý do chủ quan mà doanh nghiệp khi hình thành có thể hoàn toàn giải quyết được bởi yếu tố tâm lý của khách ngoại quốc và khoảng cách về vị trí địa lý. Yếu tố tâm lý của khách ngoại quốc là không tin dùng hàng hoá của nước đang phát triển (vì tại những nước này hàng rào vệ sinh không đảm bảo) trừ phi đó là sản phẩm mang tầm cỡ “quốc tế” như Coca cola,… * Đối với khách du lịch trong nước Khách du lịch người Việt Nam vẫn có thói quen mua ở chợ, hàng rong và cửa hàng mặt phố. Trong những năm trở lại đây, do có sự bùng nổ của các siêu thị đa doanh và chuyên doanh nên xu hướng khách hàng lại ngả dần về phía này. Liệu các địa điểm này đã tạo được thói quen mua sản phẩm đồ lót dùng một lần cho khách hàng chưa? Tình hình có vẻ khả quan hơn, một số ít người đã nghe qua và dùng sản phẩm tương tự như thế này. Theo mẫu chúng tôi mua về, thì đó là các sản phẩm cho cả nữ giới và nam giới. Chúng có nhãn mác, nhưng không ghi rõ thành phần chất liệu cũng như giấy chứng nhận vệ sinh y tế, và giá thường dao động. Tất cả những người đã sử dụng, và đã biết không ai trong số họ khẳng định được chất lượng của các underwear này. Trong mẫu gần 100 người được hỏi (chưa biết sản phẩm) thì có tới 80% số người đồng ý mua và hỏi nơi bán sản phẩm. Khoảng 15% là chưa thể đưa ra quyết định và 5% là không đồng ý mua. Bởi vì những người đi du lịch đều là những người có thu nhập từ mức khá trở lên nên việc mua sản phẩm này với giá từ 1000-1500VNĐ/chiếc hay 2500-4000VNĐ/chiếc với chất lượng cao hơn là không khó. Hơn nữa có thể người Việt Nam “khá dễ tính” trong thói quen tiêu dùng nên đây đúng là một sản phẩm tiềm năng. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng khi mua hàng hoá, họ cũng thường xuyên chú ý tới chất lượng, và vì là đồ lót nên họ đánh gía cao nếu hàng đó vệ sinh, đặc biệt là không hại sức khoẻ. Đôi khi giá thành lại trở lên không quan trọng. * Đối với các chợ lớn và chợ đầu mối Đã thấy xuất hiện bán sản phẩm tương tự như tôi vừa nêu trên. Các khách hàng này cũng chưa có thói quen bán travelling clothes bởi vì họ cho rằng đây là sản phẩm thuộc loại giá bán thấp, qui mô thị trường bị hạn chế. Nói chung họ chưa thấy có các salepeople đến chào hàng và mức ưu đãi cho họ chưa cao. Họ làm ăn theo kinh nghiệm, dẫn mối và hoa hồng…Nếu sản phẩm bán được cộng với mức ưu đãi cao thì họ sẵn sàng nhận hàng về bán, nhất là loại hàng nhỏ gọn như travelling clothes. * Đối với các siêu thị Khoảng 10 siêu thị chúng tôi đi, đã có khoảng 3-5 siêu thị bầy bán mặt hàng này. Các siêu thị cũng kinh doanh dựa trên chênh lệch giữa giá nhập-xuất, hoa hồng chiết khấu, special offer…nhưng họ hoạt động qui củ hơn và những sản phẩm họ nhập thường là những hàng hóa đã được công nhận về mặt chất lượng, trừ một số mặt hàng nông sản, thủ công mỹ nghê, hàng quần áo thời trang….Ngoài việc siêu thị đi lấy mối hàng, các doanh nghiệp nhỏ muốn bán hàng ở các siêu thị cũng phải nhờ trực tiếp hoặc “qua cầu” để được bán hàng ở siêu thị. * Đối với các bệnh nhân và người sau khi sinh Đã khá nhiều bệnh nhân, và sản phụ dùng các sản phẩm đồ lót một lần nhưng cũng như các sản phẩm trên thị trường đó là hàng không có tiêu chuẩn vệ sinh, vậy thì làm sao đảm bảo sức khoẻ cho họ được. Việc họ có mua hàng hay không phụ thuộc lớn vào họ có biết tới loại hàng này không và độ sạch của loại quần này như thế nào.Nếu xét ở mức đại trà, thì đối tượng này chưa có thói quen dùng quần lót một lần. Việc tạo thói quen này phụ thuộc rất nhiều vào việc chúng tôi “quảng cáo” đến đâu. * Đối với bệnh viện và các căngtin trong bệnh viện Thực ra căng tin trong bệnh viện cũng như một cửa hàng bán lẻ nên động lực hay thói quen mua hàng duy nhất hay lớn nhất của họ là chênh lệch giữa giá mua và giá bán BV phụ sản quốc tế SG Còn đối với bệnh viện, muốn giành được quyền cung cấp hàng cho bệnh viện thì thường phải nhờ vào các mối quan hệ. 3.Qui mô thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu của sản phẩm quần lót 3.1 Qui mô thị trường 3.1.1 Thị trường khách du lịch Thị trường Việt Nam luôn không phải nhỏ, khoảng 80 triệu dân với mức thu nhập ở hai thành phố lớn tăng lên đáng kể. Ở Hà Nội, khoảng 4-5 triệu dân, thu nhập bình quân năm trên đầu người là 1000$, còn ở TP Hồ Chí Minh, thu nhập cũng xấp xỉ 2000$/ đầu người 1 năm. Qui mô dân số tăng lên kéo theo các nhu cầu về dịch vụ và sản xuất hàng hoá mới ra đời và cũ phát triển, đó dù sao cũng là qui luật cung cầu tất yếu. Ví dụ như du lịch và các sản phẩm của du lịch chẳng hạn. Nếu chúng ta để ý, trong 5 năm trở lại đây, có năm tăng năm giảm nhưng luợng du khách tới Việt Nam và đi từ Việt Nam ngày một đông hơn, trung bình tăng 12%/năm. Sau đây tôi sẽ trình bày kỹ hơn về qui mô khách du lịch trong và ngoài nước để chúng ta thấy kinh doanh du lịch và bán sản phẩm cho du lịch thực sự đem lại lợi nhuận hiện thực và tiềm năng * Trên thế giới Trung Quốc Theo UNWTO,thế giới số lượng người đi du lịch năm 2005 tăng 5,5%, song nhịp độ tăng đã chậm lại so với mức tăng 10% năm 2004. Tuy nhiên tốc độ tăng trung bình về lâu dài vẫn khoảng 4,1% do kinh tế toàn cầu tăng trưởng nhanh hơn, kinh tế châu Âu được cải thiện, đặc biệt ở Đức, nước có nhiều người đi du lịch nước ngoài. * Ở Việt Nam - Sau đây là số liệu do tôi tổng hợp từ một số nguồn công bố chính thức trong 3 năm 2003, 2004, 2005 Năm 2004 Năm 2005 số lượng % tăng so với năm trước số lượng % tăng so với năm trước Khách du lịch quốc tế 2,93 triệu người (2,43) 20,5% 3,4 triệu người 16,04% Khách du lịch trong nước 14,5 triệu người (13,03) 11,3% 16 triệu người 10,34% Tổng lượng khách du lịch 17,43 triệu người (15,46) 12,74% 19,4 triệu người 11,3% Tổng doanh thu từ du lịch 26.500 tỉ đồng 18,1% 31.000tỉ đồng 16,98% ( Các số liệu trong ngoặc là của năm 2003 ) (nguồn lấy tổng hợp từ http:/viet.vietnamembassy.us/lanhsu và từ www.rfa.org và cpv.org.vn) - 2 tháng đầu năm 2006 và tương lai trong năm 2006 Theo tổng cục du lịch ( trang web Đảng ), trong 2 tháng đầu năm, lượng khách quốc tế tăng rất mạnh, đặc biệt là ở hai thành phố lớn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 2/2006 đạt 320 nghìn lượt khách, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2005. Nhiều khách du lịch quốc tế chọn Việt Nam làm điểm dừng chân hấp dẫn của Châu Á. (Theo daktra.com) Giảm 0,3% so với tháng 1/2006. Tính cả 2 tháng đầu năm lượng khách quốc tế ước đạt 673.048 lượt, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2005 Trong khi đó, số lượng khách du lịch Việt Nam đi du lịch nước ngoài khá lớn. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có khoảng trên 56.840 lượt. Công suất sử dụng phòng khách sạn, nhất là ở những trọng điểm du lịch vẫn đang đạt mức cao trên 70-85%. Khách du lịch đến Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh nếu không đặt chỗ trước sẽ rất bị động trong việc thuê khách sạn, nhiều khách sạn cao cấp xếp hạng 4-5 sao tại các trung tâm du lịch như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, đều đạt công suất trên 90%. Nếu du lịch Việt Nam giữ được tốc độ tẳng trưởng ổn định là 12%/năm thì số lượng khách du lịch ước đoán trong 2006 là Năm 2006 số lượng % tăng so với năm trước Khách du lịch quốc tế 4,02 triệu người 18% Khách du lịch trong nước 17,8 triệu người 11% Tổng lượng khách du lịch 21,82 triệu người 12,47% Tổng doanh thu từ du lịch 34.860tỉ đồng 12,45% (do tôi tổng hợp) Thực chất con số tổng kết chỉ mang tính chất ước đoán dựa trên số liệu của các năm trước, thực tế năm 2006 có thể là năm bùng nổ du lịch của Việt Nam. Do Việt Nam liên tục trải qua mấy lần bùng phát đợt cúm gà và du lịch thế giới đang có xu hướng trững lại nên Đảng và Sở du lịch chỉ khiêm tốn đánh giá mức tăng trưởng 12%. Theo tôi du lịch năm 2006 khi đất nước đang đứng trên một thế vận hội mới sẽ vượt xa năm 2004. * Đặc điểm và cơ cấu - Đặc điểm: Hội An Thị trường khách du lịch ở Việt Nam rất tiềm năng, lượng khách tăng lên không ngừng. Điều này cũng chứng tỏ chúng ta phải khai thác triệt để tâm lý khá thoải mái trong chi tiêu của khách. Lượng khách lúc nào cũng tập trung theo mùa và theo điểm du lịch, như: Hà Nội, thành phố HCM, Huế, Vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An….. - Cơ cấu: Khách trong nước luôn chiếm phần đông, hơn 80% lượng khách du lịch. Tỉ trọng của du khách nước ngoài có xu hướng tăng lên nhưng không đáng kể Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Khách du lịch nước ngoài 15,72% 16,81% 17,53% Khách du lịch trong nước 84,28% 83,19% 82,47% tổng 100% 100% 100% ( do tôi tổng hợp ) Trong cơ cấu khách du lịch nước ngoài, chủ yếu vẫn là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Singapo…. 3.1.2 Thị trường bệnh nhân, sản phụ (chúng tôi hướng chủ yếu vào Hà Nội) Hiện nay tại Hà Nội có gần 160 cơ sở chữa bệnh lớn có qui mô cấp xã trở lên, trong đó có khoảng 35 bệnh viện, còn lại là viện, trung tâm y tế, trạm y tế, phòng khám. Trong đó đáng lưu ý là một số cơ sở khám chữa bệnh có chức năng đỡ đẻ, mổ đẻ. Chuyên khoa này phải kể tới 6 Bệnh viện có tiếng như: Bệnh viện bà mẹ và trẻ sơ sinh, Viện nhi thuộc Bộ Y Tế, Bệnh viện phụ sản Hà Nội…. Ngoài ra còn có các bệnh viện lớn như Bệnh viện Việt Pháp, Bệnh viện Việt Nhật, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Thanh Nhàn cũng có các khoa lớn đảm nhận dịch vụ khám chữa bệnh cho phụ nữ có thai và sau khi sinh. Chỉ tính riêng 2 đơn vị Bệnh viện phụ sản Hà Nội, Bệnh viện bà mẹ và trẻ sơ sinh cũng đã có tới trên 680 phòng. Trong 5 năm, Bệnh viện phụ sản khám cho 600.736 người, bệnh nhân nội trú là 51.262 người. Hay tại bệnh viện Việt Đức cũng có tới 500 phòng Ở các bệnh viện nhỏ hơn số lượng này chỉ bằng một phần mười. 3.2 Lựa chọn thị trường mục tiêu Có lẽ đối với một người khởi nghiệp mà phải lựa chọn luôn thị trường mục tiêu cho mình là điều quá khó khăn. Bởi thực tế là tôi vẫn còn thiếu kinh nghiệm, hơn nữa cũng có một số nơi ( chứ không phải duy nhất một nơi! ) rất tiềm năng đối với sản phẩm của mình. Giống nhiều người khác tôi đứng trước một khó khăn là: Phải tính toán làm sao để vốn của mình phát huy hiệu quả nhất? Đầu tư vào đâu có triển vọng và không gặp nhiều đối thủ cạnh tranh như những nơi khác?…. Trong chúng ta ai cũng biết nếu cầm một lượng vốn nhỏ ban đầu thì không thể đem trải toàn bộ một vùng thị trường rộng lớn được. Mọi việc tính toán trên giấy tờ đôi khi cũng là thủ tục, đôi khi lại giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro rất nhiều nhất là đối với một doanh nghiệp nhỏ. Nhưng nếu không thử nghiệm thì làm sao biết được đâu là “nơi đất lành chim đậu” Tôi theo phương pháp ít nhất phải vạch ra cho mình 3 thị trường quan trọng, ít nhất phải hai thị trường trọng điểm, và 1 thị trường mục tiêu để sống còn vẫn phải giữ bằng được. 3 thị trường quan trọng đối với sản phẩm chiến lược - quần lót dùng một lần - là: thị trường khách du lịch trong nước, thị trưòng khách du lịch nước ngoài, thị trường của bệnh nhân và phụ sản. Trong giai đoạn còn trứng nước này, việc thử nghiệm nhu cầu và thử nghiệm bán là vô cùng quan trọng. Nếu sau quá trình thử bán thị trường nào tiêu thụ tốt hơn thì sẽ chọn làm thị trường trọng điểm và mục tiêu. Theo tôi lập kế hoạch, tôi sẽ chọn thị trường trong nước và thị trường của bệnh nhân và phụ sản làm thị trường trọng điểm vì một số lý do sau Thứ 1, thị trường của người tiêu dùng trong nước dễ tính hơn, yêu cầu về chất lượng không quá khắt khe. Họ chưa cân nhắc nhiều tới vấn đề môi trường ( vấn đề mà chúng tôi không thể giải quyết trong ngắn hạn hay trong vòng 3 năm kể từ khi khởi nghiệp vì số vốn ban đầu quá nhỏ không cho phép ). Thứ 2, thị trường trong nước dễ tiếp cận hơn, không phải mất chi phí đào tạo ngoại ngữ cho nhân viên bán hàng Thứ 3, qui mô thị trường trong nước lớn hơn ( nếu không kể tiềm năng xuất khẩu ).Ví dụ, đối thị trường du lịch, khách du lịch trong nước chiếm hơn 80%. Mặc dù, số lượng người khám chữa bệnh, phụ sản không phải là quá lớn nhưng tỉ lệ họ có tiềm năng dùng sản phẩm còn cao lượng khách du lịch nước ngoài. Thứ 4, thi trường trong nước tập trung hơn. Khách du lịch trong nước vẫn có thói quen mua ở chợ, bệnh nhân và phụ sản thường mua ở bệnh viện, căngtin trong bệnh viện hoặc những cửa hàng ngoài mặt phố. Và xét về yếu tố chủ quan, lực lượng bán hàng có sẵn của DN Phương Lan cũng đã bắt được nhiều mối với các đơn vị bán hàng như thế này. Thứ 5, chi phí phân phối rẻ hơn. Vì người nước ngoài thường có thói quen mua ở siêu thị hay họ chỉ tin vào sự hướng dẫn của các công ty lữ hành cũng như hướng dẫn viên nên việc trao sản phẩm của chúng tôi đến tay họ thường phải qua các trung gian “khó tính” hơn. ….. Như vậy, mặc dù đã chọn được 3 thị trường quan trọng, 2 thị trường trọng điểm, nhưng việc bán thử trong một thời gian ngắn sẽ giúp cho chúng tôi có thể chọn được thị trường mục tiêu cho sản phẩm của mình. II - Các chính sách Marketing (sản phẩm quần lót) 1. Chính sách sản phẩm 1.1. Sản phẩm * Lợi ích của sản phẩm Trong phần I)1.đã trình bày rất rõ cấu tạo, qui trình sản xuất sản phẩm cũng như ưu điểm khi dùng sản phẩm chính vì vậy ở mục này, tôi chỉ xin đi vào phân tích kỹ hơn những lợi ích bổ sung mà chúng tôi sẽ đưa vào sản phẩm Để cá biệt hoá sản phẩm của mình chúng tôi đã cho vào sản phẩm một sản phẩm bổ sung. Đó là: Ở Hàn Quốc Muốn mua quà lưu liệm, có thể ra chợ mua vì giá bán rẻ hơn nhiều so với mua ở siêu thị. Nếu hàng hóa đã được niêm yết thì không cần mặc cả nhưng những mặt hàng không niêm yết có thể mặc cả giảm xuống đến 50% giá bán - Đối với sản phẩm quần lót dùng một l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích dự án kinh doanh - DỰ ÁN KINH DOANH MẶC QUẦN LÓT MỘT LẦN.doc