Đề án Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 2

Phần I: LÝ LUẬN CHUNG 3

1.1 Khái niệm và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế 3

1.1.1 Chính sách lãi suất 3

1.1.2 Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế 4

1.2 Cơ sơ điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước 4

1.2.1. Lãi suất cơ bản 4

1.2.2. Lãi suất tái chiết khấu 6

1.2.3. Lãi suất tái cấp vốn 7

Phần II: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 7

2.1 Khủng hoảng tài chính năm 2008 và thực trạng nền kinh tế Việt Nam 8

2.1.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 8

2.1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ cuộc khủng hoảng đến nay 9

2.1.2.1. Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế 9

2.1.2.2. Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng 10

2.1.2.3. Đối với hoạt động xuất khẩu 10

2.1.2.4. Đối với vốn đầu tư nước ngoài 11

2.2 Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 15

2.3 Tác động của chính sách lãi suất đến hệ thống Ngân hàng thương mại 18

2.4 Kết quả hoạt động của các Ngân hàng 21

Phần III: NHỮNG VẤN ĐỀ GẶP PHẢI VÀ MỘT VÀI ĐỀ XUẤT CHO THỜI GIAN TỚI 24

3.1. Những vấn đề gặp phải: 24

3.2. Một số đề xuất 27

KẾT LUẬN 31

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4074 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i các khoản vay chính sách xuống còn 7% từ giữa năm 2008 đến tháng 2/2009. Cắt giảm lãi suất đối với vay chính sách và hỗ trợ lãi suất đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Chỉ số định lượng về chất lượng danh mục đầu tư của ngân hàng (dựa trên thời gian thiếu nợ và nợ lũy tiến) đã cho thấy nợ xấu tăng. Do lãi suất cho vay không được phép cao hơn lãi suất đối với vay chính sách quá 50%, nên mức chênh lệch lãi suất của các Ngân hàng thương mại bị thu hẹp đáng kể. Lãi suất thấp còn gây khó khăn cho chính phủ trong việc phát hành trái phiếu và gây ra tâm lý lưỡng lự của các nhà xuất khẩu khi bán ngoại hối. Nhận ra các nguy cơ đang nổi lên từ chính sách nới lỏng tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước gần đây đã yêu cầu các Ngân hàng thương mại lớn phải giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 25% trong năm 2009. 2.1.2.3. Hoạt động xuất khẩu Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20% đến 21% kim ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam trong năm 2008 và cả năm 2009. Khủng hoảng tài chính Mỹ còn tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là EU và Nhật Bản – đây là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, các nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán do khó khăn về tài chính, theo đó nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm. Thực tế những tháng gần đây, với tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có biểu hiện giảm sút, kim ngạch xuất khẩu tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba kim ngạch xuất khẩu suy giảm. Tháng 11 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ USD giảm so với mức 5,044 tỷ USD của tháng 10. Trong đó: Dệt may giữ được kim ngạch ở mức 780 triệu USD, giày dép tăng nhẹ lên 400 triệu USD so với 396 triệu USD của tháng 10/2008. Một số mặt hàng khác cũng suy giảm trong đó đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do giá dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008. Khủng hoảng tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam giảm giá tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu. 2.1.2.4. Vốn đầu tư nước ngoài Khủng hoảng làm chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào Việt Nam giảm sút. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó khăn đã làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không được ký kết hoặc không thể giải ngân được. Mặc dù vậy, nhưng lượng vốn FDI cam kết dành cho Việt Nam vẫn tăng cao kỷ lục. Theo Tổng cục Thống kê, trong 11 tháng của năm 2008, 1059 dự án FDI được đăng ký mới với qui mô vốn cam kết vượt trên 60 tỷ USD. Đây là con số rất ấn tượng, gấp hơn 3 lần năm 2007 và hơn 8 lần so với năm 2005. Giải ngân vốn FDI năm 2008 cũng lập một kỷ lục với 10,1 tỷ USD cho đến hết tháng 11/2008, tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2007, nhưng cho đến nay tỷ lệ vốn giải ngân mới chỉ bằng 17% con số đăng ký. Theo số liệu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố hôm qua, trong năm 2009, Việt Nam chỉ thu hút được tổng cộng khoảng hơn 21 tỷ đôla đầu tư, vượt qua chỉ tiêu đề ra cho năm nay là 20 tỷ đôla. Tuy nhiên, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ bằng 30% so với năm ngoái. Cũng theo các số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được sử dụng chỉ đạt khoảng từ 9-10 tỷ đôla, thấp hơn mức 11,5 tỷ đôla của năm ngoái. Trong năm tới, theo dự báo đầu tư nước ngoài cũng sẽ không khá gì hơn, nhất là vì tại Việt Nam còn nhiều cản lực đặc biệt là cơ sở hạ tầng yếu kém và nạn quan liêu tham nhũng. Cùng với nguồn tiền cho người Việt ở nước ngoài gởi về vẫn là nguồn ngoại tệ chủ yếu để Việt Nam giảm bớt thâm thủng mậu dịch. Vào tuần trước, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng  tuyên bố là kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng trong năm nay, nhưng mức tăng trưởng này chưa thật sự ổn định do mức thâm thủng mậu dịch tăng cao trong khi lượng ngoại tệ dự trữ sụt giảm, do hậu quả của việc sụt giảm đồng loạt vốn đầu tư nước ngoài, kim ngạch xuất khẩu và tiền gởi của Việt kiều. 2.1.2.5. Hoạt động của thị trường chứng khoán Khủng hoảng tài chính ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới, theo đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn, họ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi các thị trường lớn của họ đang gặp khó. Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng khoán chịu những tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu sụt giảm. Đến cuối năm 2008, giá trị các chỉ số chứng khoán giảm tới 70% so với đầu năm. Ngay một số cổ phiếu thuộc nhóm “blue-chip” còn có mức sụt giảm lớn hơn nhiều, như SSI (- 84%) và FPT (- 78%). Khủng hoảng tài chính còn tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam, do đó TTCK cũng bị tác động xấu. Nửa đầu năm 2008, chỉ số chứng khoán tụt dốc nhanh chóng. Đầu tháng 1/2008, VNIndex còn trên 900 điểm. Tới đầu tháng 6/2008, hàn thử biểu kinh tế lần đầu rơi xuống dưới ngưỡng 400 điểm. Thị trường tiếp tục giằng co trong quí III/2008. Từ sau tháng 10/2008, TTCK liên tục giảm điểm. Tới ngày 11/12/2008, VNIndex chỉ còn 288 điểm. Tại Hà Nội, HaSTC-Index còn 101 điểm. Trước đó, thị trường Hà Nội thậm chí còn lùi về sau vạch xuất phát, tụt xuống 97,61 điểm vào kết thúc phiên giao dịch ngày 27/11/2008. Năm 2009 là năm nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua được khủng hoảng và tiếp tục đà tăng trưởng, cùng với sự hồi phục của nền kinh tế, thị trường chứng khoánViệt Nam đã có dấu hiệu hồi phục, tạo đà cho các bước tăng trưởng của những năm tiếp theo. Trong năm 2009 hoạt động của các công ty chứng khoán (CtyCK) được thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, mạng lưới, quy mô hoạt động của CtyCK ngày càng được mở rộng, với 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động tập trung ở nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, T.p Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Hải Phòng. Cùng với sự phát triển mạng lưới hoạt động, số lượng tài khoản giao dịch tại các CtyCK cũng tăng mạnh với tổng số tài khoản trên 800.000 tài khoản, tăng 1,5 lần so với năm 2008. Thứ hai, Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CtyCK đã thực hiện trên 5.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối năm 2009 đã có gần 80 CtyCK hoạt động có lãi trong năm 2009. Quy mô vốn hoạt động của các CtyCK ngày càng được nâng cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn điều lệ của các CtyCK là 24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008. Thứ ba, Số lượng người hành nghề kinh doanh chứng khoán ngày càng tăng. Tính đến nay, UBCKNN đã cấp chứng chỉ người hành nghề chứng khoán cho 2.744 nhân viên. Nhiều CtyCK đã tuyển dụng được nhân viên có trình độ, chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán, góp phần nâng cao năng lực quản lý trong hoạt động. Các CtyCK đã chú trọng đầu tư, hiện đại hóa, hệ thống công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán. Hoạt động giao dịch phục vụ khách hàng diễn ra suôn sẻ và ngày một tốt hơn. 2.1.2.6. Thị trường bất động sản Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam tiềm lực tài chính khá hạn hẹp mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài chủ yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đây là một khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng hoảng. Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với giá trị thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 nền kinh tế Việt Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá BĐS đã giảm đến 40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, không bán được sản phẩm lại phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao. Đến nay thị trường cũng chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá BĐS giảm kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thế bất lợi. Nếu nhìn vào diễn biến cả năm, thì thị trường này nhìn chung ế ẩm, hoặc chỉ tăng cục bộ ở một số phân khúc. Khảo sát thực tế cho thấy, tại nhiều dự án ở TP.HCM, giá đã tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm 2008. Ở Hà Nội, cách nay khoảng một tháng, người dân đổ xô đi mua chung cư và nhà dự án đã đẩy giá phân khúc thị trường này tăng lên chóng mặt. Ở một số dự án chung cư cao cấp, giá tăng đến 10 – 15 triệu đồng/m2 so với giá gốc. Đất nền dự án tại không ít dự án cũng bị đẩy lên từ 10 – 20% so với trước đó. Sau đó ít lâu, giá nhà đất tự dưng tuột dốc nhanh chóng. Một loạt dự án đình đám trở thành tâm điểm của thị trường đã bắt đầu chững lại và giảm giá. Mặc dù chịu sức ép của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 nhưng thị trườngbất động sản vẫn được đánh giá khá hấp dẫn, đặc biệt hai thành phố lớn Hà Nội và TP HCM. Năm 2009 là năm được mùa của các dự ánbất động sản, trong đó chủ đầu tư lớn đã liên tiếp tung ra hàng loạt dự án lớn. Một loạt dự án mới được khởi công và chào bán ra thị trường tạo một nguồn cung lớn 2.1.2.7. Thị trường hàng hóa dịch vụ Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dùng. Tình hình kinh tế thế giới suy thoái, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung vẫn còn nhiều khó khăn. Trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô do chi phí sản xuất tăng, đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Một số hoạt động dịch vụ bị thu hẹp trong đó có du lịch. Tổng cục Thống kê cho biết, hoạt động thương mại và dịch vụ sôi động hơn trong những tháng cuối năm 2009 do sản xuất trong nước phục hồi, nhu cầu tiêu dùng tăng lên và giá cả hàng hoá, dịch vụ tương đối ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước tính đạt 1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%; nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11% so với năm 2008. Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%; kinh tế Nhà nước tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%, kinh tế tập thể tăng 18,8%. Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp tăng 18,6%; khách sạn, nhà hàng tăng 18,4%; dịch vụ tăng 20,3%; du lịch tăng 1,9% 2.2 Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Sơ đồ 2.1: Lãi suất chủ đạo của NHNN Việt Nam năm 2008 và 2009 (Nguồn: Số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) Trong những thập kỷ gần đây, thị trường tài chính tiền tệ thế giới có sự phát triển vượt bậc cả về quy mô lẫn chiều sâu, cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các nước thay đổi theo hướng tự do hóa. Tuy nhiên, ở mỗi nước, NHTW căn cứ vào luật định, điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội, thị trường tài chính tiền tệ cũng như địa vị pháp lý của NHTW, mục tiêu của chính sách tiền tệ (lạm phát hoặc đa mục tiêu) để áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp trong từng thời kì nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Đối với nước ta cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn, từ giữa thán 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng cơ chế điều hành lãi suất. Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM. Đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung - cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước. Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoản 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% - 5%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc “bơm” tiền ra hoặc “hút” tiền về, từ đó tác động đến cung – cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM. Ngày 30/01/2008, thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu ký ban hành hai quyết định số 305 và 306 điều chỉnh lãi suất cơ bản bằng VND, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Theo đó lãi suất cơ bản VND tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm áp dụng từ ngày 01/12/2008. Mục đích của việc tăng mức lãi suất là nhằm tiến tới thiết lập mối quan hệ hợp lý lãi suất điều hành của nhà nước với lãi suất thị trường, nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ lãi suất, phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ về điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2008. Như vậy là sau 2 năm được giữ ổn định (từ tháng 12/2005), lãi suất cơ bản VND đã tăng trở lại. Từ tháng 5 – 9/2008, NHNN điều hành chính sách tiền tệ “thắt chặt”, các mức lãi suất chủ đạo được điều chỉnh tăng. Lãi suất cơ bản tăng từ 12%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 11%/năm lên 13%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 11,7%/năm lên 15%/năm. Từ tháng 10/2008 đến nay, NHNN chuyển hướng điều chỉnh lãi suất tiền tệ từ “thắt chặt” để chống lạm phát sang “nới lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế điều chỉnh giảm mạnh lãi suất cơ bản từ 14% - 13% - 11% - 8,5% - 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15% - 13% - 12% - 9,5% - 8% - 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 13% - 11% - 12% - 10% - 7,5% - 6%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 15% - 14,3% - 13,5% - 11% - 9% - 8% - 7,5% - 7%/năm. 2.3 Tác động của chính sách lãi suất đến hệ thống Ngân hàng thương mại Chính sách lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động. Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định. Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng. Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của Ngân hàng thương mại, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao, nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường.  Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của các Ngân hàng thương mại đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2009. Thông tư được ban hành nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 627/VPCP-KTTH ngày 23 tháng 01 năm 2009 của Văn phòng Chính phủ về áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận của các tổ chức tín dụng. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới, việc Ngân hàng Nhà nước tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải pháp thích hợp, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn thị trường. Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định, được thực hiện kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông. Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở đánh giá một cách khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính - tiền tệ ở trong và ngoài nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính. Việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các doanh nghiệp, người dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các NHTM quan tâm theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của các NHTM, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường. Xử lý vấn đề này, NHNN đã ban hành cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và phát hành thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. 2.3.3 Kết quả hoạt động của các Ngân hàng Năm 2009, nhờ các chính sách kích cầu của Chính phủ, sự điều hành tỉnh táo và thận trọng của NHNN Việt Nam cộng với những nỗ lực tự thân của các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp nên từ quý II/2009, sự khó khăn đã được giảm đáng kể và hệ thống ngân hàng đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu một cách khá êm đẹp. Mặc dù lãi suất cơ bản năm 2009 không biến động nhiều như năm 2008 nhưng lại được giữ khá lâu ở mức 7% khiến cho hoạt động ngân hàng có nhiều lúc trở nên khó khăn khi lãi suất cho vay bị khống chế ở mức trần 10,5% còn lãi suất huy động thì đã lên tới 9,99%, nhưng hệ thống ngân hàng vẫn cố gắng phát huy tốt nhất vai trò của mình là kênh truyền dẫn vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là dòng vốn hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. Nhiều ngân hàng đã thận trọng hơn với các khoản cho vay, tìm mọi cách giảm rủi ro trong quá trình cho vay; đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các khoản nợ xấu, khó đòi là cao; tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng hoàn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai. Đồng thời, chủ động chuyển hướng sang các dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dịch vụ phi tín dụng. Vì vậy, có không ít ngân hàng thuộc nhóm các ngân hàng lớn trong khối cổ phần đã có tỷ trọng nguồn thu phi tín dụng khá cao. Tỷ trọng đó tại ACB hay Techcombank hiện ở khoảng 50%, tại Sacombank khoảng 40%. Cũng nhờ thế, đến giữa năm 2009, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã dần đi vào hoạt động ổn định. Tính chung cả hệ thống, tăng trưởng tín dụng đến hết tháng 11/2009 là khoảng 34% trong khi năm 2008, con số này chỉ ở mức 21% đến 22%. Tuy con số này được đánh giá là quá nóng nhưng nếu nhìn từ khía cạnh tích cực, có thể thấy rằng đây là một dấu hiệu của sự phục hồi kinh tế. Tổng dư nợ tín dụng tăng lên cũng có nghĩa là nhu cầu vốn của nền kinh tế vẫn còn và cũng có nghĩa là các doanh nghiệp vẫn còn “sống” và đang trong quá trình “hồi phục” - một dấu hiệu rất đáng mừng cho thấy nền kinh tế đã qua giai đoạn khủng hoảng. Hơn nữa, không thể phủ nhận nỗ lực của hệ thống ngân hàng khi nợ xấu toàn hệ thống hiện đã giảm đáng kể so với thời điểm cuối năm 2008, đầu năm 2009. Tất nhiên, một phần không nhỏ là nhờ gói hỗ trợ lãi suất kích cầu, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, tiếp tục kế hoạch kinh doanh để thu hồi vốn trả nợ vay ngân hàng nhưng một phần nữa chính là những nỗ lực của bản thân các ngân hàng. Hiện tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank là 3% (con số này thời điểm đầu năm là gần 4%), của Eximbank chỉ còn trên 2% so với mức 4,71% cuối năm 2008 và 6% thời điểm đầu năm 2009. Các ngân hàng khác như ACB, Sacombank cũng có tỷ lệ nợ xấu ở mức rất thấp (đều dưới 1%). Theo đánh giá của ông Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, “với tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống khoảng 2,46%, không có vấn đề gì đáng lo ngại về sức khoẻ của hệ thống ngân hàng”. Thực tế cho thấy, cho đến hết tháng 11/2009 vừa qua, không ít ngân hàng đã có những kết quả kinh doanh hết sức khả quan. Trong số các NHTM cổ phần, có nhiều ngân hàng đã có lợi nhuận dự kiến vượt 2.000 tỷ đồng như Vietcombank, VietinBank, ACB và Techcombank; nhóm các ngân hàng có lợi nhuận trên 1.000 tỷ đồng gồm: Sacombank, Eximbank,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay.doc
Tài liệu liên quan