Đề án Chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 3

I- Vai trò của NHTW trong nền KTTT 3

1. Sự ra đời của NHTW 3

2. Mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng ở Việt Nam 5

3. Những nhận xét chung: 8

II- Chính sách tiền tệ 8

1. Khái niệm 8

2. Nội dung 11

3. Vai trò của CSTT trong nền KTTT 23

 

Chương 2: Thực tiễn việc sử dụng các công cụ của CSTT ở nước ta trong nền KTTT 26

1. Công cụ truyền thống nêu trong pháp lệnh 26

2. Những công cụ bổ trợ 31

 

Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc sử dụng các công cụ CSTT 41

1. Đối với NHTW 41

2. Các công cụ của CSTT 43

3. Về môi trường thực thi CSTT 45

4. Đào tạo cán bộ và trang bị phương tiện hoạt động cho ngành ngân hàng 47

 

Kết luận 48

 

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách tiền tệ và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức tái chiết khấu các kỳ phiếu, các giấy tờ có giá trị nói trên. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền tệ và điều hành CSTT. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện CSTT trong giai đoạn ấy; cần thực hiện chính sách " nới lỏng " hay " thắt chặt " tín dụng mà NHTW quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó. Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu, buộc các NHTM cũng phải nâng lãi suất tín dụng (lãi suất chiết khấu) của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên làm " cầu " về tín dụng sẽ giảm và đương nhiên kéo theo giảm cầu tiền tệ. Trường hợp ngược lại, tức là NHTW kích thích tăng về " cung ". ở các nước, công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. * Hoạt động thị trường mở Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu... đến để xin " tái cấp vốn " thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ động của NHTW để điều khiển khối lượng tiền tệ Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động việc phát hành tiền trung ương vào lưu thông (làm tăng khối lượng tiền cơ sở) bằng cách mua trái phiếu hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông (làm giảm khối lượng tiền cơ sở) bằng cách bán trái phiếu trên thị trường này. Bằng cách này, NHTW không những điều khiển được khối lượng tiền tệ mà thông qua " giá cả " mua - bán trái phiếu để điều khiển lãi suất tín dụng. Thực tế, ta thấy rằng giá cả trái phiếu và lãi suất tín dụng có mối quan hệ ngược chiều. Khi giá trái phiếu tăng lên tức chi phí và rủi ro của việc nắm giữ trái phiếu giảm xuống, do vậy cầu về trái phiếu sẽ giảm điều đó cũng đồng nghĩa với việc cầu về tiền sẽ tăng, người ta sẽ thích giữ tiền hơn và lãi suất sẽ giảm. 2.2.2. Công cụ bổ trợ: can thiệp thị trường hối đoái ở một số nước, trong những thời kỳ cần thiết, NHTW sử dụng công cụ can thiệp thị trường hối đoái nhằm hỗ trợ cho các công cụ khác của CSTT. Khi can thiệp thị trường hối đoái, NHTW điều khiển khối lượng tiền tệ bằng cách mua vào hay bán ra các loại ngoại tệ hoặc vàng. Sự ổn định tương đối của đồng tiền một nước được đánh giá bằng sự ổn định tương đối của tỷ giá hối đoái. Trước đây, một số nước sử dụng cơ chế tỷ giá cứng nhưng cách này không phản ánh thực tế những biến động thường xuyên trên thị trường tiền tệ. Một sự biến động tỷ giá dù không lớn nhưng cũng ảnh hưởng đến kinh tế trong nước tuỳ theo mức độ hoà nhập với kinh tế thế giới bên ngoài. Ngược lại, những biến động về tỷ giá cũng tác động tới mối tương quan tiền tệ trong nước với tiền tệ nước ngoài. Tỷ giá bị chi phối bởi cung - cầu ngoại hối trên thị trường, chính sách ngoại hối; ngoài ra còn bị chi phối bởi giá cả nội địa. Khi sử dụng công cụ can thiệp thị trường hối đoái, NHTW thường xem xét đến các vấn đề về chính sách hối đoái, tỷ giá, dự trữ ngoại tệ và thị trường hối đoái. Dữ trữ ngoại hối: mỗi nước đều có khối lượng dự trữ ngoại hối, lớn hay nhỏ tuỳ theo khả năng của nền kinh tế nước đó có thể tạo lập được nhiều hay ít. Nó là kết quả của tổng số thu và chi ngoại tệ (kể cả vàng) của một nước trong một thời hạn nhất định, thường là một năm. Dự trữ ngoại hối tăng khi thu lớn hơn chi, bất kể thu, chi ngoại hối vì lý do gì. Điều đó có được khi NHTW mua bán ngoại hối: NHTW mua ngoại hối, khối tiền tệ tăng thêm; ngược lại khi bán ngoại hối, khối tiền tệ sẽ giảm-nếu những yếu tố khác không đổi. Vì vậy, đây là một yếu tố để góp phần ổn định tiền tệ vì trong khối lượng ngoại hối dự trữ có một bộ phận được dành để thực hiện nhiệm vụ quỹ bình ổn. ở nhiều nước trước đây chính phủ quy định tỷ lệ quan hệ giữa ngoại hối dự trữ và khối lượng tiền tệ trong lưu thông chính là do trước đây phần lớn dự trữ ngoại hối là quỹ bình ổn. Thị trường hối đoái: là nơi mua-bán ngoại tệ. Trong một nước mà thị trường hối đoái tổ chức quá đơn sơ sẽ làm cho NHTW chẳng những không thể tích luỹ được dự trữ ngoại hối, mà cũng không chủ động được nguồn cung ứng tiền tệ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các đơn vị này khi có nhu cầu ngoại tệ lại đi mua ngoại tệ trôi nổi trên thị trường không tổ chức bằng lượng tiền đồng Việt Nam mà hậu quả cuối cùng là số lượng tiền đồng lớn luân lưu ngoài hệ thống ngân hàng - một yếu tố làm tăng áp lực vay tiền ngân hàng để bổ sung nguồn vốn lưu động và NHTM lại thiếu tiền. Từ đó áp lực trên nhu cầu phát hành tiền sẽ gia tăng. Chính sách hối đoái:Trên nguyên tắc, nước ta áp dụng chính sách ngoại hối có quản lý chặt chẽ. Điều 51 - pháp lệnh NHNN nêu rõ: tất cả các tổ chức - cá nhân có ngoại tệ đều phải bán cho ngân hàng, được phép kinh doanh ngoại hối và nếu có nhu cầu thì mua ngoại tệ tại ngân hàng (các tổ chức thì có thể mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái trong nước) Nhưng trên thực tế, các tổ chức-cá nhân lại có thể mua bán ngoại tệ trôi nổi ngoài những nơi đã chỉ định ở trên vì vậy mà có một lượng lớn ngoại tệ đang luân chuyển bên ngoài ngân hàng. Lại nữa, chúng ta đang tổ chức thị trường mua-bán ngoại tệ với tỷ giá dựa trên cơ sở cung-cầu thị trường, đồng thời vẫn duy trì được cơ chế tiền gửi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng, để rồi nhận lấy hết những rủi ro không đáng có. Xin đưa ra đây một nghịch lý: trong khi chúng ta đang khuyến khích thu hút ngoại tệ vào trong nước để đầu tư phát triển kinh tế, nhưng với cơ chế và cách làm của ta, chúng ta phải mang ngoại tệ ra gửi ở nước ngoài, vô tình đã làm lợi cho những nước có ngoại tệ đó. Nhìn theo một khía cạnh nào đó thì những vấn đề nêu trên là một điều hại vì NHTW qua hệ thống ngân hàng trung gian không mua được nhiều ngoại tệ cho nhu cầu của mình. Và như vậy, khả năng điều hoà lưu lượng tiền tệ và một lượng ngoại tệ đang nằm bên ngoài thẩm quyền điều tiết cuả hệ thống ngân hàng. Trái lại, nhìn ở khía cạnh khác, điều đó cũng có mặt thuận lợi là giảm gớt căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ của những đơn vị sản xuất kinh doanh. Một chính sách độc quyền hối đoái cứng nhắc sẽ không tránh khỏi những căng thẳng nói trên. Đó là điểm cần lưu ý khi thiết lập một thị trường hối đoái có tổ chức trong tương lai với những quy định sao cho uỷen chuyển thích hợp với tình hình thực tế trong nước mà không cản trở sản xuất, kinh doanh. Tỷ giá hối đoái: là giá cả của ngoại tệ được biểu hiện bằng đồng tiền quốc gia (đồng bản tệ). Là một loại giá cả nên cũng giống như các bất kỳ một giá cả nào khác, chức năng kinh tế của nó là nhằm ảnh hưởng đến sự phân bố các nguồn tài nguyên thực sự.Tỷ giá hối đoái là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, cũng là đòn bẩy kinh tế tác động mạnh đến các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu trong nước. Một tỷ giá hối đoái quá thấp có tác dụng khuyến khích nhập khẩu nhưng gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu tương đối đắt, khó bán ra nước ngoài - tức là gây trở ngại cho ngành sản xuất trong nước hướng về xuất khẩu, bất lợi cho những cuộc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước, khối lượng dự trữ ngoại hối dễ bị xói mòn. Ngược lại, một tỷ giá hối đoái cao bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn, hàng xuất khẩu rẻ hơn để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, dễ tìm được thị trường hơn. Do đó những ngành sản xuất có nguyên liệu nhập khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu gặp trở ngại, trong khi ngành sản xuất hàng cho thị trường nước ngoài thuận lợi hơn, lưu lượng ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào trong nước khá hơn, khối lượng dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Vì vậy muốn tỷ giá hối đoái hợp lý thì tỷ giá phải được phản ánh trong cơ cấu giá cả nội địa, phù hợp với CSTT thời kỳ đó. Mức tỷ giá quá cao hay quá thấp là so với tỷ giá thực tế được quyết định bởi cung cầu ngoại tệ trên thị trường hối đoái hay thị trường đen (nơi nào không có thị trường hối đoái tự do). Tỷ giá hối đoái cao hay thấp là tỷ giá do NHTW ấn định và cố định, còn tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do hoàn toàn không có sự can thiệp của NHTW, là tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại tệ trên thị trường quyết định. Thế giới đã trải qua một thời kỳ khá lâu áp dụng tỷ giá hối đoái ấn định, cố định từ thập niên 30 đến giữa thập niên 70. Từ năm 1973, nhiều nước công nghiệp hàng đầu đã thử nghiệm tỷ giá hối đoái thả nổi và sau đó áp dụng tỷ giá hối đoái thả nổi có " quản lý ". Đến năm 1976, các nước phương Tây đã đạt được một thoả hiệp Jamaica, công khai chấp nhận hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, vì cả hai tỷ gía cố định cứng nhắc và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có hạn chế tác động lên nền kinh tế trong nước và sự chuyển dịch tài nguyên ngoại tệ trên bình diện quốc tế. Theo hệ thống đó, NHTW can thiệp để giữ cho tỷ giá hối đoái không thăng trầm qúa đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế trong nước. NHTW can thiệp trên thị trường hối đoái bằng cách tham gia mua hay bán ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái biến đổi trong một biên vực không quá lớn, nhờ đó chế ngự bớt tác động đối với nền kinh tế trong nước. Khi giá ngoại tệ lên cao, NHTW đưa ngoại tệ ra bán đẻ làm chậm bớt nhịp tăng giá ngoại tệ. Dĩ nhiên điều đó chỉ làm được khi dự trữ ngoại hối còn ở mức độ tương đối khả quan. Ngược lại, khi giá ngoại tệ xuống quá thấp, NHTW sẽ dùng tiền trong nước mua ngoại tệ vào để duy trì một biên vực biến đổi ít tác động mạnh đối với sinh hoạt kinh tế trong nước, nhất là để tái tạo khối dự trữ ngoại tệ đã bị thiếu hụt. 3. Vai trò của CSTT trong nền KTTT Trong nền kinh tế vĩ mô có bốn lĩnh vực đóng vai trò trọng tâm và cũng là bốn mục tiêu tổng quát, đó là sản lượng cao, tạo nhiều công ăn việc làm, ổn định mức giá thị trường tự do và cân bằng cán cân ngoại thương. Để đạt được những mục tiêu đó, kinh tế vĩ mô cũng đòi hỏi cho mình một hệ thống công cụ chính sách lớn, mang tính chất bao trùm. Cùng với chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại... CSTT quốc gia xuất hiện trên vũ đài khoa học kinh tế thế giới, như một đòi hỏi tất yếu khách quan trước những bước thăng trầm của toàn bộ nền kinh tế ở tất cả các nước trong những thế kỷ vừa qua. Trong suốt thời gian đầy rẫy những thăng trầm đó, nhân loại đã phát hiện đầy đủ những khuyết tật của cơ chế thị trường trên tất cả các phương diện, như trình độ tự phát cao đã phát sinh tác dụng điều tiết mù quáng; cách chạy theo lợi nhuận tối đa, dẫn tới lừa đảo, tội ác, vi phạm pháp luật, đồng tiền chi phối các quan hệ xã hội, quan hệ chính trị, phân hoá giàu nghèo ngày một tăng, bất công xã hội phát triển; phá huỷ môi trường sinh thái... Thế giới văn minh ngày nay càng thấy rõ hơn bao giờ hết các khiếm khuyết và khuyết tật đó, nên không ai phủ nhận vai trò của Nhà nước trong các hoạt động quản lý vĩ mô, không ai chuyển giao quyền lực điều hành tự giác của con người, mà đại diện là Nhà nước sang cho bàn tay vô hình của cơ chế thị trường thuần tuý. CSTT quốc gia là một trong những công cụ quản lý vĩ mô đó. Chúng ta đã biết, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là một hàm số có nhiều biến số, như năng lực sản xuất, cung-cầu xã hội...Trong nền KTTT, tổng sản phẩm quốc dân, mức tăng trưởng kinh tế ổn định thường xuyên chủ yếu do sự ổn định tương đối giữa cung - cầu thị trường hàng hoá quyết định. Cung cầu hàng hoá xã hội lại được quyết định bởi giá cả, thu nhập (trong đó một phần thu nhập có liên quan trực tiếp đến việc làm hoặc thất nghiệp) và nhiều yếu tố khác. Tất cả yếu tố đó không thể nằm ngoài tổng thể cung cầu và khối lượng tiền tệ. Trong nền KTTT, quan hệ cung-cầu là một phạm trù khách quan, nó có tác dụng chi phối ý chí của những thể nhân hoạt động trong thị trường tác động một cách khách quan với tư cách là một quy luật, mà là quy luật khởi phát. Quy luật cung-cầu tác động vào giá cả, lợi nhuận, cạnh tranh, quy mô sản xuất, công ăn việc làm... và đều hướng tới mục tiêu nâng cao phúc lợi cho từng cá nhân và từ đó làm lợi cho toàn xã hội. Và tuy là thông thường mỗi cá nhân không có chủ định củng cố lợi ích công cộng, mà cũng chẳng biết mình đang củng cố lợi ích này ở mức nào. Cá nhân này chỉ có mục đích bảo vệ sự an toàn và thành quả riêng của mình. Trong khi đó, dưới lợi ích của mình, anh ta thường bảo vệ luôn lợi ích của xã hội một cách hữu hiệu hơn cả khi anh ta có ý định làm việc này như Adam Smith đã nhận xét. Đó chính là do sự chi phối của quy luật cung cầu mà ông gọi là bàn tay vô hình. Như chúng ta đã biết, trong kinh tế vĩ mô, giá cả được xác định bởi giao điểm giữa đường cung và đường cầu. Do đó, khi có sự thay đổi về cung hay về cầu, điểm giao nhau sẽ thay đổi nghĩa là giá cả sẽ thấp hơn hoặc cao hơn. Tuy nhiên, khi cả cung và cầu hàng hoá đều tăng thì giao điểm đó có thể không đổi trị số tung độ, nghĩa là giá cả không đổi song khối lượng tiền tệ cung ứng tăng lên, thu nhập và việc làm tăng, sản lượng tăng, tổng GNP tăng. Trường hợp này là kết quả của việc điều hành CSTT, điều khiển khối lượng tiền tệ cung ứng tăng lên phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, phù hợp với mức tăng trưởng, và còn có thể hài hoà với mức thu nhập và đảm bảo việc làm. Đó là một quá trình tác động theo phản ứng dây chuyền trong nền kinh tế. Vì khi NHTW tăng mức cung hợp lí về tiền tệ trong điều kiện nếu sản xuất đang ở dưới mức tiềm năng; vốn tín dụng trở nên dồi dào, lãi suất tín dụng có xu hướng giảm xuống. Kết quả là việc tìm những dự án đầu tư mới trở nên có lợi hơn, do đó số vốn đầu tư tăng lên làm tăng sản lượng. Nếu NHTW tăng mức cung của tiền tệ lên thì sẽ dẫn đến mức đầu tư cao hơn và do vậy, tổng mức cầu tăng lên gấp đôi. Khoa học kinh tế hiện đại đã chứng minh mối quan hệ giữa sản lượng tiềm năng với tổng mức cung, tổng mức cầu rằng: khi sản lượng và tỉ lệ có việc làm ở mức rất cao (vì vậy tỉ lệ thất nghiệp ở mức rất thấp) thì lạm phát (và giá cả) bắt đầu tăng mạnh; tương tự như vậy khi thất nghiệp ở mức độ cao thì lạm phát giảm xuống. Nếu thất nghiệp giảm xuống dưới mức bản lề hay dưới mức tỉ lẹ tự nhiên thì lạm phát bắt đầu tăng. Lịch sử kinh tế nhiều nước cũng đã chứng kiếm, nếu việc tăng mức cung về tiền tệ trong một cuộc suy thoái thì GNP thực tế tăng tương đối mạnh, còn giá cả thì tăng chút ít. Nhưng khi tổng sản lượng đã đến mức tối đa tức là khi sản lượng tiềm năng sản xuất thực tế đã tương ứng với tỉ lệ thất nghiệp thì việc thay đổi lượng tiền ít có tác động đối với việc thay đổi sản lượng thực tế. Để ngăn chặn khả năng lạm phát, NHTW sẽ sử dụng các công cụ của CSTT để thu hẹp tổng mức cung tiền tệ (qua hoạt động thị trường mở) và sẽ đẩy lãi suất tăng lên. Việc này làm giảm khối lượng đầu tư, làm giảm tổng mức cầu, do đó làm giảm sản lượng; trong trường hợp này, giá cả cũng giảm xuống. Đó là tất cả những yêu cầu mà sứ mệnh nền KTTT đã giao phó cho CSTT phải gánh vác sứ mệnh mà khoa học kinh tế đã biết cách dùng CSTT và tài chính để ngăn chặn bất cứ một cuộc suy thoaí nào nổ ra, không cho nó phát triển lên thành những cuộc khủng hoảng mãn tính kéo dài, đưa nền KTTT phát triển không ngừng, phục vụ nhu cầu cuộc sống con người. chương 2: Thực tiễn việc sử dụng các công cụ của CSTT ở nước ta trong nền KTTT Việc đổi mới kinh tế đất nước đòi hỏi ngân hàng phải tổ chức lại về mặt cơ cấu bộ máy, cũng như mạng lưới các loại hình và hệ thống ngân hàng, phù hợp với quy luật hình thành và phát triển các tổ chức ngân hàng trong KTTT. Sự ra đời các NHTM làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, việc đa dạng hoá các tổ chức tài chính đúng với chức năng vốn có là đòi hỏi tất yếu, mà lịch sử của chúng ta trước đây đã từng diễn ra. ở Việt Nam, các NHTM được ra đời từ năm 1988 không phải do qúa trình tự phát mà được Nhà nước điều khiển, tổ chức phù hợp với tính chất kinh tế của thời đại, với yêu cầu của giai đoạn đầu chuyển sang KTTT ở nước ta. Tuy chưa có một lịch sử lâu đời, nhưng các NHTM cũng phát huy đầy đủ khả năng, vai trò của chúng. Vì vậy với vai trò của mình, NHTW phải thiết lập một hệ thống công cụ mới phù hợp với điều kiện hiện tại nhằm điều hành CSTT. 1. Công cụ truyền thống nêu trong pháp lệnh Để điều hành CSTT trong điều kiện đã có hệ thống ngân hàng hai cấp và các tổ chức tài chính đa dạng, tại các nước người ta sử dụng một số công cụ truyền thống. Các công cụ đó cũng tương đối phù hợp với điều kiện nước ta, do đó tại pháp lệnh ngân hàng nhà nước cũng nêu ra để ngân hàng áp dụng. Đó là: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở. 1.1. Dự trữ bắt buộc (DTBB) Việc sử dụng công cụ DTBB có thể làm thay đổi khối lượng tiền lưu thông, thậm chí thay đổi theo một bội số lớn hơn rất nhiều. Vì công cụ này có tác dụng hạn chế khả năng tạo tiền của các NHTM mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây. 1.1.1. Mối quan hệ giữa khả năng tạo tiền và DTBB Khả năng tạo tiền của các NHTM đã biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền ký gửi mới lớn hơn gấp nhiều lần khi tiền qua nhiều ngân hàng. Khả năng tạo tiền tạo ra một bội số của mức cung tiền tệ. Khả năng này liên quan trực tiếp đến công cụ DTBB tối thiểu trong hệ thống công cụ của CSTT.Vì vậy nghiên cứu kỹkhả năng này sẽ có biện pháp tốt để sử dụng công cụ DTBB . Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau để thấy được các NHTM đã tạo bút tệ như thế nào: Hãy bắt đầu từ một khoản tiền gửi tại NHTM 1 và chẳng hạn với số tiền là 1.000.000 đ. Sau khi nhận được số tiền gửi này, NHTM 1 phải thực hiện DTBB theo quy định của NHTW - được giả sử với tỷ lệ là 10%. Thế thì NHTM 1 phải trích 100.000 đ nộp tại NHTW và còn lại 900.000 sẽ đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán khác theo chức năng vốn có của mình. Giả thiết rằng, số tiền 900.000 đ cho A vay hoặc thanh toán tiền gửi trước đây được A mang đến gửi ở NHTM 2. Tại NHTM này, cũng như trên, phải trích 10% để nộp lên NHTW và chỉ còn lại 90% - tức 810.000 đ sẽ đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán khác. Cứ tiếp tục như vậy, từ nguồn 1.000.000 đ ban đầu đó, đến các ngân hàng tiếp theo. Chúng ta có thể tổng hợp qua bảng số sau: Vị trí từng NH trong chuỗi dây chuyền Tiền gửi mới (đ) Cho vay và đầu tư mới(đ) Dự trữ mới (đ) NH ban đầu NH thứ 2 NH thứ 3 v.v... 1.000.000 900.000 810.000 ... 900.000 810.000 729.000 ... 100.000 90.000 81.000 ... Tổng của toàn bộ hệ thống ngân hàng 10.000.000 9.000.000 1.000.000 Như vậy khi tỷ lệ DTBB là 10% (tiền gửi mới của ngân hàng tiếp theo sẽ là 90% hay 9/10 so với số tiền gửi của ngân hàng trước nó) thì tổng số tiền gửi mới được hệ thống ngân hàng tạo ra sẽ gấp 10 lần tiền gửi ban đầu. Có thể khẳng định rằng, việc tạo ra tiền gửi mới gấp bao nhiêu lần là phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ DTBB đã quy định. Điều này có liên quan tới việc sử dụng công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc trong hệ thống công cụ của CSTT. Tỷ lệ này có tính chất hai mặt: Mặt là tích cực là, khi tỷ lệ DTBB càng cao thì mức độ an toàn trong hoạt động của các NHTM càng cao. Mặt tiêu cực là, công cụ này của CSTT sẽ kém hiệu lực khi tỷ lệ này càng cao sẽ đồng thời dẫn đến hệ số sử dụng vốn cuả các NHTM quá thấp, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách lãi suất, thậm chí bất lợi cho kinh doanh và huy động vốn của các NHTM; đình đốn tín dụng. Tỷ lệ DTBB đặt ra, nếu quá cao đến mức nào đó sẽ làm cho các NHTM mất hẳn khả năng tạo tiền, một khả năng cần phải có của ngân hàng đồng thời mất khả năng kinh doanh. Sự ra đời của hệ thống NHTM là phù hợp với yêu cầu khách quan của KTTT nhưng khả năng tạo tiền của nó đòi hỏi NHTW phải thiết lập một hệ thống công cụ của CSTT thích hợp để quản lý và điều khiển khối lượng tiền. 1.1.2 Quá trình sử dụng công cụ DTBB ở Việt Nam Tại điều 45 pháp lệnh NHNN đã quy định " tỷ lệ DTBB ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết hội đồng quản trị NHNN quyết định tăng tỷ lệ này trên mức 35% và NHNN trả lãi cho mức tăng đó ". Trên thực tế, công cụ này được bắt đầu sử dụng từ cuối năm 1989, với tổng số tiền các NHTM phải ký gửi hơn 100 tỷ đồng, năm 1990 là 356 tỷ đồng và các năm sau vẫn được thực hiện theo mức 10% tính trên số tiền gửi của khách hàng. Thực tế trong giai đoạn đầu, tỷ lệ 10% được ổn định một cách cố định, mặc dù chính sách tín dụng từ năm 1989 đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau theo chủ trương lúc thì thắt chặt, khi thì nới lỏng và tiến tới tự do hoá lãi suất. Thực hiện việc bơm tiền vào lưu thông, điềukhiển khối lượng tiền lưu thông luôn luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định và bằng những công cụ khác nhau nhưng công cụDTBB chưa được sử dụng nhạy bén, nó vẫn thực hiện một tỷ lệ ổn định. Song trong giai đoạn tiếp theo - kể từ đầu năm 1994 - công cụ DTBB đã có nhiều đổi mới. Năm 1994, NHTW đã quy định bổ sung tỷ lệ DTBB đối với loại tiền gửi không kỳ hạn là 13%, và có kỳ hạn là 7%. Tiếp đó, ngày 19/9/1995 NHTW ban hành quyết định số 260/QĐ-NHNN1 quy định mức DTBB được tính chung cho tất cả các loại tiền gửi - không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn hay có kỳ hạn - dưới 1 năm là 10%, đồng thời trong cơ cấu tiền DTBB cũng thay đổi, đó là quy định có 70% phải gửi tại NHNN và các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền DTBB phải gửi tại NHNN (duy trì hàng ngày). Bước đổi mới tiếp theo gắn liền với sự ra đời của 2 luật ngân hàng. Từ năm 1999, công cụ DTBB được áp dụng mở rộng thêm với các đối tượng: ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, HTX tín dụng, tỷ lệ DTBB từ 0-20% và đặc biệt số tiền DTBB được tính bình quân số dự tiền gửi tại NHNN trong kỳ duy trì. Đặc biệt trong năm 2000, việc điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ đã có tác dụng hạn chế dòng chuyển đổi từ VND sang USD, khắc phục tình trạng khan hiếm VND của các tổ chức tín dụng, góp phần thực hiện mục tiêu CSTT. 1.1.3. Một tỷ lệ DTBB hợp lý Tỷ lệ DTBB là một công cụ dùng để hạn chế bội số mức cung cầu của tiền tệ. Bội số này bắt nguồn từ khả năng tạo tiền của các NHTM. Trong thời kỳ kinh tế ổn định, việc tạo ra tiền gửi mới không phương hại gì mà lại có lợi cho sản xuất, kinh doanh. Vì vậy quá trình tạo tiền đó mới có thể tồn tại lâu dài bao thế kỉ nay. Một tỷ lệ DTBB hợp lý mới sẽ làm cho các NHTM có thể thực hiện được việc tạo tiền và cũng chỉ khi có một tỷ lệ như vậy mới có thể hạn chế được khả năng tạo tiền khi cần hạn chế. Tỷ lệ đặt ở mức phù hợp khi sử dụng nó có thể sẽ thực hiện được việc rung chuyển mạnh bội số mức cung tiền tệ. Tuy nhiên, quá trình điều hành CSTT đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ toàn hệ thống công cụ. Xét trên mặt lý thuyết, bản thân các công cụ cũng đã có mối quan hệ với các công cụ khác. Nếu chỉ sử dụng riêng công cụ DTBB để thắt chặt tín dụng thì ắt các công cụ khác sẽ bị kích hoạt, gây ra phản ứng dây chuyền và có thể sẽ làm đình trệ tín dụng. Trên thực tế, công cụ này có mối quan hệ chặt chẽ với lãi suất tín dụng. Tỷ lệ DTBB thực hiện luôn thay đổi thường xuyên phù hợp với yêu cầu của việc thực hiện CSTT và chính sự thay đổi thường xuyên trong quá trình thực hiện mới làm cho công cụ này trở nên có ý nghĩa. Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên hoặc vô căn cứ mà tại nhiều nước họ chỉ áp dụng phổ biến tỷ lệ DTBB là 10% trở xuống. 1.2. Lãi suất tái chiết khấu Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành khối lượng tiền tệ và đã được nhà nước cấp giấy phép sử dụng tại điều 41 và 43 pháp lệnh NHNN Việt Nam. Nhưng trong thực tế ở nước ta, do đang thừa hưởng một tiềm thế của một nền lưu thông trong đó không được phép tồn tại tín dụng thương mại, vì vậy chưa có các công cụ truyền thống trực tiếp để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu như các loại kỳ phiếu, thương phiếu.... Do đó việc tái chiết khấu đang được thực hiện dựa trên căn cứ các chứng từ do NHTM đã cho vay, nhưng chưa đến hạn các doanh nghiệp phải trả nợ. Hình thức này được thực hiện bằng cách, các NHTM, các tổ chức tín dụng đem một số loại giấy tờ có giá trị đến NHTW làm vật thế chấp để vay tiền. Căn cứ vào các chứng từ đó, NHNN cho các NHTM vay lại những khoản nợ mà các NHTM đã cho các doanh nghiệp vay. Loại tín dụng này nhằm giải quyết khó khăn tài chính tạm thời của các NHTM. Bên cạnh phương pháp tái chiết khấu kiểu này, NHTW còn thực hiện phương thức " mua lại " các dự án đã được các ngân hàng thẩm định trước khi đầu tư, nhưng NHTM không đủ nguồn vốn Việc chiết khấu và tái chiết khấu theo phương thức sử dụng công cụ đã trình bày ở trên vẫn mang dáng dấp kiểu tín dụng trực tiếp. Như vậy sẽ tạo ra sự cộng hưởng về áp lực tiền tệ trong lưu thông. Yêu cầu việc tái chiết khấu là cần có khoảng cách thời gian và không gian với cho vay trực tiếp (hoặc chiết khấu lần đầu) để tạo ra một sóng bằng phẳng (theo kiểu san bằng đáp tuyến của sóng điện từ), làm giảm bớt sự mấp mô của giá cả. Mặt khác, trên thực tế thời gian qua việc mua lại các dự án và cho vay cầm cố thực hiện được rất ít vì những công cụ thực hiện chưa đáp ứng và chưa thích hợp. Thông thường lãi suất tái chiết khấu điều khiển toàn bộ lãi suất tín dụng trên thị trường tiền tệ. Khi NHTW cần thi hành chính sách thắt ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35140.doc
Tài liệu liên quan